vì sao lê lợi mở hội thề lũng nhai
Lê Lợi cùng 18 người trong bộ chỉ huy nghĩa quân đã tổ chức hội thề ở đâu ?
A. Lam Sơn
B. Khôi Huyện
C. Nghệ An
D. Lũng Nhai
Khi dựng cờ khởi nghĩa Lam Sơn, Lê Lợi cùng bao nhiêu người tổ chức hội thề ở Lũng Nhai (Thanh Hóa)?
A:
16 người.
B:15 người.
C:18 người.
D:17 người.
Câu 1. Đầu năm 1416, Lê Lợi cùng 18 người đã tổ chức hội thề ở
A. Lam sơn – Thanh Hóa. B. Lũng Nhai – Thanh Hóa.
C. Nga sơn – Thanh Hóa. D. Ba Đình – Thanh Hóa.
Vì sao cuối năm 1427 Lê Lợi lại đồng ý cho quân Minh giảng hòa và mở hội thề ở Đông Quan? Từ việc làm đó của Lê Lợi cho em bài học gì?
Lê Lợi tổ chức hội thề Đông Quan ngày 10/12/1427 với tướng giặc Vương Thông để tạo điều kiện an toàn cho quân Minh rút về nước. Thể hiện lòng nhân đạo sáng ngời của Lê Lợi, Bộ chỉ huy nghĩa quân, của nhân dân ta đối với kẻ thù bại trận. Đó cũng chính là truyền thống quý báu của dân tộc muôn đời.
* Cuối năm 1427 Lê Lợi lại đồng ý cho quân Minh giảng hòa và mở hội thề ở Đông Quan vì muốn cho quân Minh 1 cơ hội cho hai dân tộc tránh việc phải đổ thêm máu cho chiến tranh đồng thời ca ngợi truyền thống quý báu của dân tộc ta.
*Hội thề Đông Quan là sự kiện có một không hai trong lịch sử, buộc tướng lĩnh của quân đội vốn tự vỗ ngực là “thiên triều” phải cúi đầu nhục nhã làm lễ đầu hàng và thề thốt giã từ dã tâm xâm lược, chịu tuân thủ mọi điều kiện do đoàn quân vốn bị chúng coi là “man di” đặt ra.
so sánh hội thề Lũng Nhai và hội thề Đông Quan
Hội thề Lũng Nhai | Hội thề Đông Quan | |
Thời gian | Năm 1416 - trước khi Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa | Năm 1427 - sau khi khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi |
Thành phần tham gia | Lê Lợi cùng các tướng sĩ, hào kiệt | Lê Lợi - thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn và Vương Thông - chủ tướng quân Minh |
Mục đích | Thề gắn bó, sống chết có nhau | Thề rằng sau hội nghị, quân Minh lập tức rút quân về nước, còn quân Lam Sơn không được hãm hại quân Minh |
Ý nghĩa | Thể hiện ý chí, quyết tâm, phất cao ngọn cờ khởi nghĩa | Cuộc kháng chiến chống quân Minh thắng lợi hoàn toàn |
Trên đường dẫn quân kéo vào nước ta, Liễu Thăng bị nghĩa quân Lam Sơn phục kích và giết ở
A.
Bình Than
B.
Xương Giang
C.
ải Chi Lăng
D.
Đồng Đăng
6
Khi dựng cờ khởi nghĩa Lam Sơn, Lê Lợi cùng bao nhiêu người tổ chức hội thề ở Lũng Nhai (Thanh Hóa)?
A.
17 người.
B.
18 người.
C.
16 người.
D.
15 người.
7
“Đại Việt sử kí toàn thư” là tác phẩm của ai ?
A.
Lê Văn Hưu.
B.
Ngô Sĩ Liên.
C.
Lê Quý Đôn.
D.
Ngô Thì Sĩ.
8
Hào kiệt khắp nơi tìm về Lam Sơn (Thanh Hóa) ủng hộ
Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa là do
A.
Lê Lợi là người dựng cờ khởi nghĩa
B.
Lam Sơn có nhiều hào kiệt.
C.
Lam Sơn là vùng đất rộng, người đông, giàu có.
D.
Lê Lợi là một hào trưởng có uy tín ở vùng Lam Sơn.
9
Nhiều đoạn đê ngăn mặn từ thời Lê đến nay vẫn thường được nhân dân gọi là
A.
đê nhà Lê
B.
đê Sông đào
C.
đê Hồng Đức
D.
đê Sông Cái
10
Vị vua nào sáng lập ra triều Lê sơ ?
A.
Lê Lợi - Lê Thái Tổ.
B.
Lê Thái Tông.
C.
Lê Hoàn.
D.
Lê Long Đĩnh.
11
Nội dung thi cử dưới thời Lê sơ là
A.
Phật giáo.
B.
các sách của Nho giáo.
C.
Đạo giáo.
D.
khoa học kĩ thuật.
12
Thời Lê có những kì thi nào?
A.
Thi Hội.
B.
Thi Hương.
C.
Thi Hương, thi Hội và thi Đình.
D.
Thi Đình.
13
Dưới thời Lê sơ, nguồn đào tạo và tuyển chọn quan lại chủ yêu dưới hình thức nào?
A.
Tiến cử
B.
Giáo dục, khoa cử
C.
Cha truyền con nối
D.
Chọn người có công
14
Cho các dữ kiện sau:
1. Kháng chiến chống Tống thời Tiền Lê
2. Kháng chiến chống quân Mông – Nguyên
3. Kháng chiến chống Tống thời Lý
4. Khởi nghĩa Lam Sơn
Hãy sắp xếp theo thứ tự thời gian các cuộc kháng chiến
và khởi nghĩa chống ngoại xâm của nhân dân Đại Việt
trong các thế kỉ X đến XVIII
A.
3,2,4,1
B.
2,3,4,1
C.
1,2,3,4.
D.
1,3,2,4
15
Ý nghĩa sâu xa nhất của việc dựng bia tiến sĩ thời Lê sơ là gì?
A.
Khuyến khích học tập trong nhân dân
B.
Vinh danh những người đỗ tiến sĩ
C.
Ghi nhớ những người đỗ đạt
D.
Lưu truyền hậu thế
16
Các chức quan chuyên lo về nông nghiệp như: Khuyến nông sứ, đồn điền sứ, có trong thời kì nào ?
A.
Thời Lý và thời Lê sơ.
B.
Thời Hồ và thời Lê sơ.
C.
Thời Trần và thời Lê sơ.
D.
Thời Lý - Trần và thời Hồ.
17
Chiến thắng nào đưới đây là chiến thắng lớn nhất trong quá trình đấu tranh chống ngoại xâm thời Lê sơ ?
A.
Chiến thắng Đống Đa
B.
Chiến thắng Bạch Đằng.
C.
Chiến thắng Ngọc Hồi.
D.
Chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang.
18
Cuối năm 1423, quân Minh trở mặt tấn công nghĩa quân Lam Sơn vì
A.
muốn kết thúc chiến tranh.
B.
muốn bắt sống Lê Lợi và bộ chỉ huy nghĩa quân.
C.
thất bại trong âm mưu mua chuộc Lê Lợi.
D.
muốn tiêu diệt nghĩa quân.
19
Giáo dục nước ta trong các thế kỉ X-XV chú trọng đến nội dung nào?
A.
Khoa học
B.
Kinh sử
C.
Kỹ thuật
D.
Giáo lý Phật giáo
20
Điểm tương đồng trong đường lối chỉ đạo chiến đấu và kết thúc cuộc kháng chiến chống Tống thời Lý (1075 -1077) và khởi nghĩa Lam Sơn (1418 – 1428) là
A.
Thực hiện rút lui chiến lược và tổ chức phản công khi có thời cơ.
B.
Phòng ngự tích cực thông qua “chiến thuật vườn không nhà trống”.
C.
Chủ động tấn công để chặn thế mạnh của giặc (“Tiên phát chế nhân”).
D.
Kết hợp giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao.
5, C
6, B
7, B
8, D
9, C
10, A
11, B
12, C
13, B
14, D
15, A
16, C
17, D
18, C
19, D?
20, D
Trên đường dẫn quân kéo vào nước ta, Liễu Thăng bị nghĩa quân Lam Sơn phục kích và giết ở
A.
Bình Than
B.
Xương Giang
C.
ải Chi Lăng
D.
Đồng Đăng
6
Khi dựng cờ khởi nghĩa Lam Sơn, Lê Lợi cùng bao nhiêu người tổ chức hội thề ở Lũng Nhai (Thanh Hóa)?
A.
17 người.
B.
18 người.
C.
16 người.
D.
15 người.
7
“Đại Việt sử kí toàn thư” là tác phẩm của ai ?
A.
Lê Văn Hưu.
B.
Ngô Sĩ Liên.
C.
Lê Quý Đôn.
D.
Ngô Thì Sĩ.
8
Hào kiệt khắp nơi tìm về Lam Sơn (Thanh Hóa) ủng hộ
Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa là do
A.
Lê Lợi là người dựng cờ khởi nghĩa
B.
Lam Sơn có nhiều hào kiệt.
C.
Lam Sơn là vùng đất rộng, người đông, giàu có.
D.
Lê Lợi là một hào trưởng có uy tín ở vùng Lam Sơn.
9
Nhiều đoạn đê ngăn mặn từ thời Lê đến nay vẫn thường được nhân dân gọi là
A.
đê nhà Lê
B.
đê Sông đào
C.
đê Hồng Đức
D.
đê Sông Cái
10
Vị vua nào sáng lập ra triều Lê sơ ?
A.
Lê Lợi - Lê Thái Tổ.
B.
Lê Thái Tông.
C.
Lê Hoàn.
D.
Lê Long Đĩnh.
11
Nội dung thi cử dưới thời Lê sơ là
A.
Phật giáo.
B.
các sách của Nho giáo.
C.
Đạo giáo.
D.
khoa học kĩ thuật.
12
Thời Lê có những kì thi nào?
A.
Thi Hội.
B.
Thi Hương.
C.
Thi Hương, thi Hội và thi Đình.
D.
Thi Đình.
13
Dưới thời Lê sơ, nguồn đào tạo và tuyển chọn quan lại chủ yêu dưới hình thức nào?
A.
Tiến cử
B.
Giáo dục, khoa cử
C.
Cha truyền con nối
D.
Chọn người có công
14
Cho các dữ kiện sau:
1. Kháng chiến chống Tống thời Tiền Lê
2. Kháng chiến chống quân Mông – Nguyên
3. Kháng chiến chống Tống thời Lý
4. Khởi nghĩa Lam Sơn
Hãy sắp xếp theo thứ tự thời gian các cuộc kháng chiến
và khởi nghĩa chống ngoại xâm của nhân dân Đại Việt
trong các thế kỉ X đến XVIII
A.
3,2,4,1
B.
2,3,4,1
C.
1,2,3,4.
D.
1,3,2,4
15
Ý nghĩa sâu xa nhất của việc dựng bia tiến sĩ thời Lê sơ là gì?
A.
Khuyến khích học tập trong nhân dân
B.
Vinh danh những người đỗ tiến sĩ
C.
Ghi nhớ những người đỗ đạt
D.
Lưu truyền hậu thế
16
Các chức quan chuyên lo về nông nghiệp như: Khuyến nông sứ, đồn điền sứ, có trong thời kì nào ?
A.
Thời Lý và thời Lê sơ.
B.
Thời Hồ và thời Lê sơ.
C.
Thời Trần và thời Lê sơ.
D.
Thời Lý - Trần và thời Hồ.
17
Chiến thắng nào đưới đây là chiến thắng lớn nhất trong quá trình đấu tranh chống ngoại xâm thời Lê sơ ?
A.
Chiến thắng Đống Đa
B.
Chiến thắng Bạch Đằng.
C.
Chiến thắng Ngọc Hồi.
D.
Chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang.
18
Cuối năm 1423, quân Minh trở mặt tấn công nghĩa quân Lam Sơn vì
A.
muốn kết thúc chiến tranh.
B.
muốn bắt sống Lê Lợi và bộ chỉ huy nghĩa quân.
C.
thất bại trong âm mưu mua chuộc Lê Lợi.
D.
muốn tiêu diệt nghĩa quân.
19
Giáo dục nước ta trong các thế kỉ X-XV chú trọng đến nội dung nào?
A.
Khoa học
B.
Kinh sử
C.
Kỹ thuật
D.
Giáo lý Phật giáo
20
Điểm tương đồng trong đường lối chỉ đạo chiến đấu và kết thúc cuộc kháng chiến chống Tống thời Lý (1075 -1077) và khởi nghĩa Lam Sơn (1418 – 1428) là
A.
Thực hiện rút lui chiến lược và tổ chức phản công khi có thời cơ.
B.
Phòng ngự tích cực thông qua “chiến thuật vườn không nhà trống”.
C.
Chủ động tấn công để chặn thế mạnh của giặc (“Tiên phát chế nhân”).
D.
Kết hợp giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao.
Nêu điểm khác và giống của hội thề Đông Quan và hội thề Lũng Nhai...
Help me ✿✿❤
Hội thề Lũng Nhai | Hội thề Đông Quan | |
Thời gian | Năm 1416 - trước khi Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa | Năm 1427 - sau khi khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi |
Thành phần tham gia | Lê Lợi cùng các tướng sĩ, hào kiệt | Lê Lợi - thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn và Vương Thông - chủ tướng quân Minh |
Mục đích | Thề gắn bó, sống chết có nhau | Thề rằng sau hội nghị, quân Minh lập tức rút quân về nước, còn quân Lam Sơn không được hãm hại quân Minh |
Ý nghĩa | Thể hiện ý chí, quyết tâm, phất cao ngọn cờ khởi nghĩa | Cuộc kháng chiến chống quân Minh thắng lợi hoàn toàn |
Nhận xét về hội thề lũng nhai và hội thề đông quan ở khởi nghĩa tây sơn là gì
hãy viết nột kịch bản nhỏ về hội thề lũng nhai hoặc hội thề đông quan
Hội thề Lũng Nhai năm 1416 không được chép trong những cuốn sách sử như Đại việt sử ký toàn thư, Lam sơn thực lục, hội thề chỉ được nhắc trong sách Đại Việt thông sử của sử gia Lê Quí Đôn, ở phần Nhân vật chí.
Có tất cả 19 người (Đại Việt thông sử chép: "vua cùng 18 bề tôi..."), trong số đó chắc chắn có Lê Lai, Lê Thận, Lưu Nhân Chú, Trịnh Khả,Nguyễn Lý, Lê Văn An [2], được Đại Việt thông sử chép rằng:
“ | Mùa đông, năm Bính Thân (1416) vua Thái Tổ cùng 18 vị tướng thân cận của nhà vua, liên danh hội thề nguyện sống chết có nhau. | ” |
— Đại Việt thông sử, Nhân vật chí, Lê Lai |
[1]
Lê Lai sau khi chết được Lê Lợi truy phong Suy trung đồng đức Hiệp mưu Bảo chính Lũng Nhai công thần.[3]
“ | Năm Bính Thân, vua Thái Tổ cùng tướng văn tướng võ 18 người- liên danh thề ước cùng cùng lo có nhau, ông cũng được dự | ” |
— Đại Việt thông sử, Nhân vật chí, Lưu Nhân Chú |
[4]
Chế văn của vua Lê Thái Tổ ban cho Lưu Nhân Chú cũng nhắc đến sự kiện này:
“ | Xét...Lê Nhân Chú đấy:...... Than ôi! Làm thuyền, chèo mong vượt sóng to, nay đã quan cơn sóng gió, viết đan thư cất vào nhà đá. mong chớ quên lời thề xưa | ” |
— Đại Việt thông sử, Nhân vật chí, Lưu Nhân Chú |
[5]
“ | Khi vua cùng 18 bề tôi thân cận liên danh hội thề, ông cũng ở trong số đó | ” |
— Đại Việt thông sử, Nhân vật chí, Lê Lý |
[6]
“ | Khi vua cùng 18 bề tôi thân cận liên danh hội thề, ông cũng ở trong số đó | ” |
— Đại Việt thông sử, Nhân vật chí, Lê Văn An |
[7]
“ | Khi vua cùng 18 bề tôi thân cận liên danh hội thề, nguyện cùng vui cùng lo có nhau, thì tên ông đứng thứ 3, sau Lê Lai | ” |
— Đại Việt thông sử, Nhân vật chí, Lê Thận |
[8]
“ | Năm Bính Thân, vua Thái Tổ cùng tướng văn tướng võ 18 người- liên danh thề ước cùng cùng lo có nhau, ông cũng được dự | ” |
— Đại Việt thông sử, Nhân vật chí, Trịnh Khả |
[2]
Bài văn thề được chép trong gia phả nhiều dòng họ khai quốc công thần triều Lê nên có nhiều dị bản. Nội dung văn thề sau đây được chép lại từ quyển Khởi nghĩa Lam Sơn của Phan Huy Lê và Phan Đại Doãn, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, 1977, được dịch từ gia phả của họ Đinh (Nông Cống và gia phả họ Lê (Kiều Đại)[9][10]:
Niên hiệu Thiên Khánh thứ nhất, năm Bính Thân, tháng 2, qua ngày Kỷ Mão[11] là ngày sóc, đến ngày 12 là Canh Dần[12].
Phụ đạo lộ Khả Lam nước An Nam là Lê Lợi cùng Lê Lai, Lê Thận, Lê Văn An, Lê Văn Linh,Trịnh Khả, Trương Lôi, Lê Liễu, Bùi Quốc Hưng, Lê Ninh, Lê Hiểm, Vũ Uy, Nguyễn Trãi, Đinh Liệt, Lê Nhân Chú, Lê Bồi, Lê Lý, Đinh Lan, Trương Chiến kính đem lễ vật, sinh huyết tấu cáo cùng Hạo nhiên Thượng đế, Hậu thổ Hoàng địa và các tôn linh thần bậc thượng, trung, hạ coi sông núi ở các xứ nước ta.
Cúi xin chứng giám cho:
Rằng có bạn ở phương xa đến, kết giao vui vẻ cùng giữ lòng tin. Vì thế phải có lễ tấu cáo.
Nay ở trong nước, tôi là Phụ đạo Lê Lợi cùng với Lê Lai đến Trương Chiến, 19 người. Tuy họ hàng, quê quán khác nhau, nhưng kết nghĩa thân nhau như một tổ liền cành. Phận vinh hiển đều có khác nhau, mong có tình như cùng chung một họ.
(Có kẻ) bằng đảng xâm chiếm nước ta, qua cửa quan làm hại, nên Lê Lợi cùng Lê Lai đến Trương Chiến, 19 người chung sức đồng lòng, giữ gìn đất nước làm cho xóm làng được ăn ở yên lành. Thề sống chết cung nhau, không dám quên lời thề son sắt.
Tôi cúi xin trời đất và các vị thần linh chứng giám, ban cho trăm phúc, đến thân mình, nhà mình, con cháu trong họ hàng đều được yên vui hưởng lộc trời.
Nếu như Lê Lợi cùng Lê Lai đến Trương Chiến sinh lòng này khác, cầu ơn hiện tại, núp bóng quân thù, không cùng một lòng, quên lời thề ước, chúng tôi nguyện trời đất và các thần linh, giáng trăm tai ương trị mình cho đến họ hàng, con cháu đều bị tru diệt, chịu hết hình phạt của trời.
Kính xin có lời thề.
Bài văn thề do Hoàng Xuân Hãn dịch, hợp chú 2 bản, bản của dòng họ Lê Sát và bản của dòng họ Đỗ Bí:
Bui ! (cổ-ngữ đứng đầu các văn khấn)
Năm đầu niên-hiệu Thiên-khánh là năm Bính-thân (1416), quá ngày sóc (mồng một) là ngày Kỉ-mão đến ngày 12 là ngày Canh-dần. Tại nước A-NAM, lộ Khả-lam, tôi là phụ-đạo Lê-Lợi đứng đầu, với Lê-Lai, Lê-Thận, Lê Văn-Linh, Lê Văn-An, Trịnh-Khả, Trương-Lôi, Lê-Liễu, Bùi Quốc-Hưng, Lê-Nanh, Lê-Kiểm, Vũ-Uy, Nguyễn-Trãi, Lưu Nhân-Chú, Trịnh-Vô, Phạm-Lôi, Lê-Lí, Đinh-Lan, Trương-Chiến,
Chúng tôi kính cẩn đem lễ-vật, sanh-huyết mà thành-khẩn dâng lời tâu, cáo cùng Vua Trời, Hậu Đất và các thần linh bậc thượng, trung, hạ, coi các cảnh đẹp sông núi tại các xứ ta. Chúng tôi cúi xin rộng rủ lòng thương, soi xét để chứng cho việc nầy. Rằng có bạn từ xa tới kết tình vui-vẻ và rất tin nhau, cho nên phải làm lễ tâu cáo.
Nay ở nước tôi, tôi phụ-đạo Lê-Lợi đứng đầu với 18 người từ Lê-Lai đến Trương-Chiến, tuy sinh khác họ, quê quán xa cách nhưng kết nghĩa cùng nhau, xem nhau như cành liền chung một tổ. Tuy phần vinh hiển có khác nhau, nhưng nguyện đem tình đối xử với nhau như người không khác họ.
Nếu có bè đảng, vì muốn xâm-tiếm, tỏ vẻ xem chừng sắp vượt cửa vào để làm hại, thì:
Ví bằng chúng tôi đây, Lê-Lợi với 18 người từ Lê-Lai đến Trương-Chiến, có đều hiệp lực đồng tâm chống giữ địa-phương để làng xóm được yên; nếu chúng tôi sống chết cùng nhau không quên lời thề ước, thì chúng tôi cúi xin Trời, Đất và các vị Thần linh chứng giám cho, ban xuống trăm điều lành, cho từ thân đến nhà, dòng-dõi, con cháu đều được yên lành để đời đời hưởng lộc Trời.
Ví bằng Lê-Lợi với 18 người từ Lê-Lai đến Trương-Chiến lại ra ý đổi đường, tìm sướng hiện-thời, mập-mờ sao-lãng, không chịu đồng tâm, bỏ quên lời thề ước, thì chúng tôi cúi xin Trời, Đất và các vị Thần linh phát xuống trăm tai, cho từ thân đến nhà, dòng-dõi, con cháu đều chịu giết sạch, đúng với luật Trời.
Năm 1416, để nêu cao quyết tâm, Lê Lợi lập Hội thề Lũng Nhai lịch sử, chính thức khai sinh phong trào khởi nghĩa Lam Sơn: “Bui ! [từ cổ dùng trong văn thề] Năm đầu niên hiệu Thiên khánh là năm Bính-thân (1416), quá ngày sóc (mồng một) là ngày Kỉmão đến ngày 12 là ngày Canh dần, tại nước An Nam, lộ Khả Lam. Tôi là phụđạo Lê Lợi đứng đầu, với Lê Lai, Lê Thận, Lê Văn Linh, Lê Văn An, Trịnh Khả, Trương Lôi, Lê Liễu, Bùi Quốc Hưng, Lê Ninh, Lê Kiểm, Vũ Uy, Nguyễn Trãi, Lưu Nhân Chú, Trịnh Vô, Phạm Lôi, Lê Lý, Đinh Lan, Trương Chiến. Chúng tôi kính cẩn đem lễ vật, sinh huyết mà thành khẩn dâng lời tâu, cáo cùng Vua Trời, Hậu Đất và các thần linh bậc thượng, trung, hạ, coi các cảnh đẹp sông núi tại các xứ ta. Chúng tôi cúi xin rộng rủ lòng thương, soi xét để chứng cho việc nầy. Rằng có bạn từ xa tới kết tình vui vẻ và rất tin nhau, cho nên phải làm lễ tâu cáo Nay ở nước tôi, tôi phụ đạo Lê Lợi đứng đầu với 18 người từ Lê Lai đến Trương Chiến, tuy sinh khác họ, quê quán xa cách nhưng kết nghĩa cùng nhau, xem nhau như cành liền chung một tổ. Tuy phần vinh hiển có khác nhau, nhưng nguyện đem tình đối xử với nhau như người không khác họ. Ví bằng chúng tôi đây, Lê Lợi với 18 người từ Lê Lai đến Trương Chiến, có đều hiệp lực đồng tâm chống giữ địa phương để làng xóm được yên. Nếu chúng tôi sống chết cùng nhau không quên lời thề ước, thì chúng tôi cúi xin Trời, Đất và các vị Thần linh chứng giám cho, ban xuống trăm điều lành, cho từ thân đến nhà, dòng-dõi, con cháu đều được yên lành để đời đời hưởng lộc Trời. Ví bằng Lê Lợi với 18 người từ Lê Lai đến Trương Chiến lại ra ý đổi đường, tìm sướng hiện thời, mập mờ xao lãng, không chịu đồng tâm, bỏ quên lời thề ước, thì chúng tôi cúi xin Trời, Đất và các vị Thần linh phát xuống trăm tai, cho từ thân đến nhà, dòng-dõi, con cháu đều chịu giết sạch, đúng với luật Trời. Kính cẩn tâu trình!” (theo GS.Hoàng Xuân Hãn) Hội thề Lũng Nhai. Lam Sơn khởi nghĩa Lam Sơn tụ nghĩa và Hội thề Lũng Nhai lịch sử Lời thề Lũng Nhai đã liên kết những người anh hùng thành một khối thống nhất để cùng dựng nghiệp lớn. Tuy vậy, lúc này nghĩa quân Lam Sơn vẫn chỉ đang trong quá trình bí mật gây dựng lực lượng. Từ khắp nơi, anh hùng hào kiệt nghe tiếng càng theo về đông. Tiếng đồn xa thuận lợi cho việc chiêu mộ của Lê Lợi, nhưng cũng khiến quân Minh đánh hơi thấy điều bất thường. Trong một lần có tranh chấp về đất đai, Lê Lợi thắng kiện một người tên là Đỗ Phú. Người này ấm ức trong lòng, đem chuyện Lê Lợi bí mật gây dựng lực lượng cáo giác với giặc Minh. Tướng Minh trấn giữ vùng Thanh Hóa bấy giờ là Trần Trí, Sơn Thọ sai quân đến đánh, Lê Lợi lúc này quân chưa luyện, khí giới chưa chuẩn bị, phải chia nhau mỗi người chạy trốn một ngã. Quân Minh dẫn chó ngao truy lùng Lê Lợi, suýt đã bắt được nhưng Lê Lợi may mắn thoát nạn nhờ một con cáo trắng. Sách Lam Sơn Thực Lục thuật lại chuyện Lê Lợi thoát nạn rất ly kỳ: “… Nhà vua cùng Lê Liễu chạy đến bên sông Khả Lam, bỗng thấy một người con gái nằm chết, mình còn mặc chiếc áo trắng, cùng đeo thoa vàng, xuyến vàng. Nhà-vua cùng Liễu ngửa mặt lên trời khấn rằng: “Tôi bị giặc Minh bức bách, xin phù hộ cho tôi thoát nạn này, ngày sau được Thiên hạ, xin lập làm miếu thờ, hễ có cỗ bàn, cúng nàng trước hết!” Đắp mả chưa xong thì giặc xua chó ngao đến. Nhà-vua cùng Liễu chạy vào bộng cây đa! Giặc lấy mũi giáo nhọn đâm vào, trúng vào vế bên tả của Liễu, Liễu bốc cát cầm vuốt vào lưỡi giáo, cho khỏi có vết máu. Tự-nhiên bỗng thấy con cáo trắng chạy ra! Chó ngao liền đuổi cáo. Giặc không ngờ bèn kéo đi. Nhà vua mới được thoát …” Đến khi quân Minh rút khỏi Lam Sơn, Lê Lợi lại cùng các bạn đồng chí của mình tụ họp trở lại, càng đem nhiều tiền của đút lót cho quan tướng Minh, giả cách nhu nhược để nuôi lòng tự cao của chúng. Quân Minh thấy Lê Lợi không có sức chống trả lại chủ động gởi phẩm vật, nên cũng xao lãng không bức bách mà thả sức quấy nhiễu nhân dân trong vùng, Lê Lợi tranh thủ thời gian, càng cố gắng xây dựng lực lượng, tích trữ lương thảo, rèn khí cụ… Bấy giờ lại có tên ngụy quan Lương Nhữ Hốt tâu lên với giặc rằng: “Người chủ Lam Sơn chiêu nạp những kẽ vong mạng, và đãi ngộ sĩ tốt rất hậu, chí của người ấy không phải là nhỏ. Nếu không sớm tính đi, để cho con rồng có lúc gặp mây gặp mưa, thì khi ấy nó sẽ không còn là một con vật trong ao nữa đâu. Vậy xin trừ ngay đi, đừng để lưu tai vạ về sau này” (theo Đại Việt Thông Sử) Tướng Minh tin lời, lại đem quân đến vây đánh. Biết được tin ấy, Lê Lợi quyết định phất cờ khởi binh sớm hơn dự định. Ngày 7.2.1418, đúng dịp Tết Nguyên Đán, Lê Lợi xưng Bình Định vương làm lễ tế cờ, truyền hịch cho khắp muôn dân cùng đánh đuổi giặc Minh. Với khí thế và quyết tâm cao độ, nghĩa quân Lam Sơn chính thức bước vào cuộc chiến gian lao.