Hai dòng thơ đầu khẳng định điều gì? Các từ ngữ “Nam quốc”, “Nam đế”, “tiệt nhiên”, “định phận”, “thiên thư” đóng vai trò gì trong việc khẳng định điều đó?
Dựa vào đoạn thơ sau và hiểu biết của bạn trả lời các câu hỏi:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Tiêu đề của bài thơ này là gì? Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh nào?
Đó là bài Nam Quốc sơn hà, gắn liền với cuộc kháng chiến chống Tống lần hai thời nhà Lý.
Nội dung của văn bản " Nam quốc sơn hà" gồm: *
a. Khẳng định vai trò của người đứng đầu đất nước.
b, Khẳng định điều hiển nhiên, rõ ràng đã được trời định sẵn đó là: Nước Nam là của người Nam.
c. Nêu lên một điều tất yếu: nếu quân giặc hung bạo kia đến xâm lược thì chúng phải chuốc lấy thất bại đau đớn và thảm hại
d. câu b và c đúng.
Em hãy trình bày cảm nhận về 2 câu thơ sau :
Nam quốc sơn hà , nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
2 câu thơ rất hay!
em doc xong 2 cau tho ma ko hieu gi
hai câu thơ có nghĩa :
" sông núi nc Nam , vua Nam ở
giới phận đó đã được định sẵn ở sách trời"
ý nói , nước Nam đã có chủ quyền và vua riêng
=> hai câu thơ khẳng định chủ quyền nước Nam
Viết đoạn văn khoẳng 10 câu trình bày suy nghĩ của em về 2 câu đầu bài của :
Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt nhiên phận định tại thiên thư
Tham khảo:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thu.
Hai câu thơ trên thuộc bài thơ " Nam Quốc Sơn Hà " của Lí Thường Kiệt. Trong câu thơ đầu tiên, tác giả bằng lời văn đanh thép và hào hùng đã nhấn mạnh một điều rằng đất Năm do chính vua Nam làm chủ. Và chính vì vua Nam làm chủ nên các nước khác không được coi đất Nam là một đất nước không có vua và có ý định xâm lược. Câu thơ đầu tiên đó cũng chính là lời tuyên bố, khẳng định lãnh thổ của đất nước ta. Trong câu thứ hai , tác giả đã lại một lần nữa khẳng định " đất Nam do vua Nam làm chủ " bằng cách nói đây là một điều, một quy luật tự nhiên được định sẵn ở " sách trời ". Như vậy, qua hai câu thơ đầu của bài thơ " Nam Quốc Sơn Hà " đã nêu ra và khẳng định nền độc lập, tự do và quyền bất khả xâm phạm về lãnh thổ của đất nước ta bằng giọng thơ đanh thép, hào hùng khiến lũ giặc phải sợ hãi.
Đọc ngữ liệu sau và trả lời các câu hỏi bên dưới: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư ...” (Ngữ văn 7- tập 1) Câu 1: Theo em vì sao bài thơ trên được mệnh danh là bài thơ thần. Việc bài thơ được mệnh danh là bài thơ thần có ý nghĩa gì?
Tham khảo:
* Theo em, việc bài thơ Nam quốc sơn hà được mệnh danh là bài thơ thần vì :
+ Bài thơ ra đời trong cuộc kháng chiến chống giặc Tống xâm lược đời Lý TKXITKXI. Sự ra đời của bài thơ gắn liền với truyền thuyết: Bài thơ được thần ngâm vang lên trong đêm tối ở đền thờ Trương Hống, Trương Hát trên sông Như Nguyệt. Vì vậy bài thơ này đựoc mệnh danh là bài thơ thần.
- Điều này có ý nghĩa:
+ Thiêng liêng hoá một tác phẩm văn học, qua đó thể hiện sự trân trọng của nhân dân đối với nội dung, tư tưởng của bài thơ.
+ Thể hiện sức sống lâu bền của bài thơ trong lòng mọi thế hệ người đọc.
Vì năm 1077, quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược nước ta. Vua Lí Nhân Tông sai Lí Thường Kiệt đem quân chặn giặc ở phòng tuyến sông Như Nguyệt. Bỗng trong một đem, quân sĩ chợt nghe tiếng ngâm thơ từ trong đền thờ hai anh em Trương Hống và Trương Hát làm cho quân giặc khiếp sợ. Vì vậy bài thơ “Nam quốc sơn hà” từng được gọi là “bài thơ thần”.
Ý nghĩa của nó thì mình không biết mong bạn thông cảm
Nam quốc sơn hà, Nam Đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Câu hỏi: Bài thơ có tên là gì? Thể thơ của nó?
sông núi nước nam
thất ngôn tứ tuyệt
- Bài thơ tên Nam Quốc Sơn Hà (Sông núi nước Nam)
- Thể thơ Thất ngôn tứ tuyệt
Hok tốt ^^
Tên: Nam quốc sơn hà
Thể loại: Thất ngôn tứ tuyệt
#Hok toots~~~
"Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên phận định tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư"
- Tìm 2 từ ghép Hán- Việt trong bài thơ trên
Qua hai câu đầu, tác giả muốn khẳng định điều gì? Từ đó, cho biết:
a. Tác dụng của cách dùng từ, ngắt nhịp trong câu: Nam quốc sơn hà Nam đế cư.
b. Tác dụng của việc nói đến “thiên thư” (sách trời) trong câu thơ thứ hai.
Hai câu đầu giới thiệu vấn đề chủ quyền và khẳng định tính tất yếu không thể thay đổi của chủ quyền đất nước.
a. Cách ngắt theo nhịp 4/3 hoặc 2/2/3, tạo âm điệu chậm rãi, trang nghiêm.
b. Tác dụng: cho thấy “tính pháp lí” của chủ quyền chủ quyền đã được ghi rõ, quy định rõ bằng văn bản của “nhà trời”.
a. Câu đầu có thể ngắt theo nhịp 4/3 hoặc 2/2/3. Cách ngắt nhịp trong câu theo nhịp 4/3 “Nam quốc sơn hà/ Nam để cư” hoặc “Nam quốc/ sơn hà/ Nam đế cư”: tỏ rõ hai vấn đề quan trọng nhất là “sông núi nước Nam”, và “vua nước Nam” đi liền với nhau ngay trong câu mở đầu của bài thơ. Đây là cách ngắt nhịp tiêu biểu của thơ thất ngôn tứ tuyệt luật Đường, tạo âm điệu chậm rãi, trang nghiêm.
b. Việc nói đến “thiên thư” (sách trời) trong câu thơ thứ hai cho thấy “tính pháp lí” của chủ quyền chủ quyền đã được ghi rõ, quy định rõ bằng văn bản của “nhà trời”, không phải chuyện người thường muốn mà thay đổi được và cũng không thể thay đổi được bằng hành vi xâm lược.
Câu thơ thứ tám bài thơ “Bạn đến chơi nhà” và riêng cụm từ "ta với ta" nói lên điều gì? Câu thơ này có vai trò khẳng định điều gì về tình bạn của nhà thơ ?
- Câu thứ 8 và cụm từ “ta với ta” nhấn mạnh tình cảm tri âm không cần phải vật chất đầy đủ mà chỉ cần cái tình chân thực thôi. Những người tri âm, tri kỉ có khi chỉ cần gặp nhau ngâm mấy câu thơ, đàn vài bản nhạc tâm sự chuyện đời, chuyện thế sự đã là niềm vui. Qua đó, tác giả muốn nhận mạnh đến một tình bạn thân thiết, vượt qua mọi cái nghèo khổ về vật chất trong cuộc sống.
“ Nam quốc sơn hà Nam đế cư / Tiệt nhiên định phận tại thiên thư / Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm / Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư” Ý nào dưới đây không phản ánh đúng nội dung của 4 câu thơ trên?
A.Đánh đòn tâm lý vào kẻ thù, khiến chúng hoang mang, lo sợ
B.Tự hào về chiến thắng của quân dân Đại Việt
C.Cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân dân Đại Việt
D.Khẳng định chủ quyền của dân tộc Đại Việt