Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài

Những câu hỏi liên quan
Huỳnh Đức
Xem chi tiết
Vũ Gia Hưng
Xem chi tiết
Đào Ngọc Huyền
7 tháng 3 2023 lúc 21:52

A.Hát môn(Phúc Thọ-Hà Nội)

 

Bùi Thị Thu Mến
7 tháng 3 2023 lúc 21:54

Tháng 2 năm Canh tý (năm 40) Hai Bà Trưng đã phất cờ khởi nghĩa ở cửa sông Hát ( thuộc địa phận huyện Phúc Thọ - Hà Nội) 

Giáp Quang Bảo
20 tháng 3 lúc 19:17

Đáp án b

lytutrong thachhaht
Xem chi tiết
Thạch Bùi Việt Hà
9 tháng 11 2016 lúc 19:53

oe lytutrong thachhaht

tút tút
Xem chi tiết
tút tút
10 tháng 2 2022 lúc 21:56

nhanh nhanh giúp mk vs

 

Đỗ Tuệ Lâm
10 tháng 2 2022 lúc 21:58

Mỗi người sinh ra đều có trong mình một mảnh đất để thương, để nhớ. Và tôi cũng vậy. Tôi yêu tha thiết quê hương Thanh HÓa. Yêu từng hình ảnh dãy núi, cánh đồng, hàng tre xanh. Quê hương yên bình nơi tôi sinh ra lớn lên có biết bao con người giàu nghĩa tình, thân thiện, tốt bụng. Thanh Hóa, mảnh đất xứ Thanh cho tôi bình yên, cho tôi bao rạo rực, đắm say. Hình ảnh nem chua, hình ảnh Thanh Hóa quê tôi dân dã và thơm ngon, mà độc đáo, ấn tượng. Tôi hiểu mỗi người đều có một quê hương và tự hào về nơi đó. Với tôi, hơn cả quê hương, Thanh Hóa là người tôi yêu da diết, đắm say và mãi mãi tự hào. 

⚚ßé Só¡⁀ᶦᵈᵒᶫ
10 tháng 2 2022 lúc 21:59

Tham khảo:

Nếu cho tôi được chọn nơi để được sinh ra một lần nữa thì đó vẫn là quê hương bây giờ của tôi - mảnh đất mang tên Thanh Hóa.

Tôi yêu quê tôi bằng niềm tự hào về truyền thống lịch sử hào hùng. Đó là mảnh đất thiêng liêng, anh hùng, quê hương của vị anh hùng dân tộc Lê Lợi, người đã cùng nghĩa quân Lam Sơn làm nên chiến thắng vẻ vang của dân tộc trước quân Minh xâm lược. Đất nước bị xâm lăng, toàn thể dân tộc Việt Nam, hàng triệu trái tim như một, cháy lên tình yêu mãnh liệt dành cho tổ quốc và lòng căm thù giặc sâu sắc. Ở đó cũng có triệu triệu trái tim của những người con mang tên Thanh Hóa. Đó cũng là mảnh đất của tình yêu thương: là căn cứ cách mạng, là quê hương của những người mẹ nuôi bộ đội đã đi vào thơ Tố Hữu:

“…Con đã về đây, ơi mẹ Tơm
Hỡi người mẹ khổ đã dành cơm
Cho con, cho Đảng ngày xưa ấy
Không sợ tù gông, chấp súng gươm

Thương người cộng sản, căm Tây-Nhật
Buồng mẹ - buồng tim - giấu chúng con
Đêm đêm chó sủa… Làng bên động?
Bóng mẹ ngồi canh lẫn bóng cồn…”

Thiên nhiên quê tôi, tôi yêu bằng tất cả tâm hồn tôi. Mảnh đất đầy nắng và gió. Nhưng tôi yêu biết bao cái nắng gắt của khí hậu quê tôi. Tôi còn nhớ trước đây, lần đầu tiên mà tôi ở Hà Nội lâu nhất là trong một đợt tình nguyện cùng bạn bè quốc tế trong thời gian hai tuần. Hà Nội nắng nhẹ, nhưng tôi vẫn cảm thấy có chút khó chịu. Có lẽ vì tôi chưa quen! Lúc ấy tôi chỉ ước được chạy nhanh về quê, đứng một lát để tắm cái nắng gắt ấy rồi đi. Cái nắng đến “cháy da, cháy thịt” những bác nông dân đi làm đồng, nhưng đã gắn bó rồi thì chẳng ai quên được.

Các bạn có biết tôi đã hạnh phúc như thế nào khi lần đầu tiên được bạn đồng nghiệp đưa đi ngắm biển với cái tên cũng có một chữ biển: Hải Hòa (Tĩnh Gia) không. Đó không phải là một bãi biển du lịch. Thật tuyệt vời vì nó đúng với mong ước của tôi, bởi tôi không thích sự ồn ào. Không gian thoáng và rộng mênh mông, từng đợt gió ùa vào mát rượi. Tôi đã có thể hét thật to và cảm nhận âm thanh giọng nói mình trở nên bé nhỏ giữa cái không gian ấy. Và tôi được nghe cả tiếng sóng vỗ. Nó khiến tôi liên tưởng đến “Sóng” của nữ sĩ Xuân Quỳnh với tất cả vẻ đẹp của nó. Đúng như vậy, sóng là sự sống của biển, là nhịp đập của biển khơi. Không khi nào sóng thôi xô bờ, cũng như tình yêu trên đời này chẳng bao giờ kết thúc.

Tôi chưa được đến nhiều nơi của đất nước mình. Nhưng tôi là một người rất dễ “Wow!” thật to khi bắt gặp đâu đó một cảnh thiên nhiên mà với tôi là đẹp và bình dị. Trong chuyến đi vào Vinh dự hội thảo cùng một cô giáo người Nhật, tôi đã không ngừng thuyết minh với cô về sự giống nhau đến kỳ lạ của cảnh vật hai bên đường đi trên con đường từ thành phố Thanh Hóa vào Vinh. Phải chăng do sự đồng điệu của tâm hồn của con người, tuy họ ở những vùng miền khác nhau nên mới có sự tương đồng ấy. Giản dị và bình yên như chính cuộc sống và tâm hồn họ vậy.

Tôi cũng đã đến với Ninh Bình trong một chuyến đi thực tập môn Cơ sở văn hóa Việt Nam cùng với lớp vào khoảng năm 2009. Tam Cốc - Bích Động thực sự là một vẻ đẹp tuyệt vời mà thiên nhiên ban tặng cho các bạn đấy, Ninh Bình! Tôi không nhớ rõ lắm cảm giác của mình khi đi qua các động nước tối như mực, mà qua đó chúng tôi còn phải choàng áo mưa. Chỉ biết bây giờ vẫn thấy sợ và rùng rợn với ý nghĩ nếu như mình bị mắc kẹt ở đó thì sẽ như thế nào. Nhưng đi qua mỗi động lại càng làm tôi thấy yêu hơn cái thứ ánh sáng của tự nhiên và mùi hương cây cỏ của đồi núi hai bên.

Thuyền trôi lững lờ trong không gian mênh mông của nước và bầu trời, và lòng tôi khi ấy cũng mang một cảm giác hạnh phúc mơ hồ khó tả. Vào buổi trưa, chúng tôi đến với chùa Bái Đính - bây giờ là khu tâm linh lớn nhất Đông Nam Á. Đoàn chúng tôi đã đi bộ suốt một chặng đường dài, leo lên các quả đồi nơi có các khu điện thờ, có nơi cầu thang gần như dựng đứng. Có người vì mệt quá mà không thể leo lên được. Năm đó, chùa Bái Đính vẫn đang trong thời gian được xây dựng. Nhưng chỉ với những gì đang có thôi, tôi đã hiểu vì sao những nơi ấy lại là niềm tự hào của các bạn.

Tôi cũng đã đến Hà Nội. Tôi đã lặng đi khi đứng trước Hồ Gươm mà tôi mới chỉ được biết đến trong truyền thuyết về vua Lê Lợi và trong khoảnh khắc ấy tôi đã quên đi những gì gọi là lo toan và bộn bề của cuộc sống.

Và Thanh Hóa quê tôi cũng có: Một sông Mã đã đi vào thơ ca:     

“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”                                                                

Theo đó, dòng sông là chứng tích của lịch sự, là minh chứng cho sự hy sinh, mất mát của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ. Có lẽ tôi yêu sông Hương hơn cũng vì đọc những trang tùy bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của bác Hoàng Phủ Ngọc Tường. Và nếu như tôi yêu và tự hào về con sông quê hương ấy của ông bao nhiêu thì cũng là bấy nhiêu tình yêu và niềm tự hào tôi dành cho dòng sông Mã quê hương tôi. Nếu như sông Hương là nơi sinh thành của hai dòng nhạc cung đình và dân gian, một nét rất riêng của dòng sông, thì sông Mã cũng vang ngân những câu hò dân gian của những người dân chài.

Một thành nhà Hồ (hay còn được gọi là thành An Tôn, Tây Giai, Tây Đô hay Tây Kinh), đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới, là minh chứng của một triều đại lịch sử của đất nước trên mảnh đất xứ Thanh. Đó đã trở thành niềm tự hào của mỗi người dân Việt Nam với bạn bè quốc tế. Tất cả đều thật đẹp, thật nên thơ. Có lẽ vì thế mà nhà thơ Tố Hữu đã phải thốt lên: “Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi!”

Và nếp sống của bà con quê tôi sẽ luôn đi theo tôi đến suốt cuộc đời. Tôi nhớ da diết mùi thơm của đậu, vị béo của dừa và vị bùi của vừng trong chiếc bánh gai Tứ Trụ (Thọ Xuân), vị cay của chiếc nem chua mà gần đây nhất mẹ mới mua cho tôi ăn trước khi tôi lại phải xa nhà đi học. Tôi yêu chúng không chỉ vì chúng thực sự rất ngon mà còn vì chúng mang đậm nét lối sống của bà con quê tôi - một nét khẩu vị mang tên Thanh Hóa. Phải gắn bó lắm, phải yêu lắm thì bà con quê tôi mới có thể làm nên được những món ăn mà ngay đến những người con của chính xứ sở đó vẫn không bao giờ thấy chán, mà trái lại, hễ xa là nhớ.

Quê hương tôi cũng bình dị như bao miền quê khác: cũng bình yên với nhịp sống thôn quê và cũng tấp nập, vội vã với mỗi bước đi của cuộc sống thành thị. Tôi mới chỉ đến một vài thành phố lớn như Hà Nội, Vinh… và cũng đã đi qua một vài nơi khác tuy không phải thành phố lớn. Nhưng dù ở đâu, tôi cũng thấy một nét năng động của nhịp sống ở những nơi ấy, cũng cảm nhận được sự gặp gỡ của thành phố quê mình với những nơi ấy. Và lại thấy nhớ quê da diết. Tôi cũng đã thấy những dòng người hối hả trên đường, những làn đường chật kín người khi giờ cao điểm. Và có lúc tôi cũng ở trong số đó! Những lúc ấy, càng thấy quý biết bao một khoảnh khắc được lặng mình giữa cái yên tĩnh và trong lành của một miền quê.

Nhắc đến thôn quê, chắc hẳn trong chúng ta, ai cũng thấy thấp thoáng trong tâm trí mình hình ảnh những người nông dân lam lũ ngoài đồng ruộng, những người dân chài vất vả cực nhọc ngoài khơi xa với những chuyến đánh bắt cá. Tôi thương bà con quê tôi vất vả giữa những lo lắng đời thường, những khi phải chống chọi với thiên tai, bão lũ. Ai không xót xa khi nhìn những ruộng lúa đang vào mùa gặt bị ngã rạp vì gió và mưa bão, những gương mặt mang nặng nỗi lo của bà con quê mình? Khó khăn là thế, cực khổ là thế, nhưng chẳng ai muốn phải rời xa.

“Quê hương nếu ai không nhớ, sẽ không lớn nổi thành người”. Đến muôn đời, tiếng gọi “quê hương” vẫn luôn gieo vào lòng mỗi người con của mình một tình yêu tha thiết. Nó như ngọn nguồn sự sống của mỗi người vậy! Khi cháy bỏng, thiết tha, khi thì âm thầm lặng lẽ. Và với tôi, qua tất cả những điều ấy, tôi muốn nói rằng: "Tôi yêu và tự hào về quê hương tôi - Thanh Hóa!".

Nguyễn Thiên Lộc Thần th...
Xem chi tiết
Đại Tiểu Thư
Xem chi tiết
『ʏɪɴɢʏᴜᴇ』
27 tháng 3 2022 lúc 13:28

D

★彡✿ทợท彡★
27 tháng 3 2022 lúc 13:28
『ʏɪɴɢʏᴜᴇ』
27 tháng 3 2022 lúc 13:29
Nguyen Tuan Anh
Xem chi tiết
Nguyễn Thanh Hằng
Xem chi tiết
Phạm Thị Diệu Hằng
6 tháng 3 2017 lúc 4:08

Đáp án: A

MoonNoCute
Xem chi tiết
Minh Nhân
10 tháng 6 2021 lúc 16:25

Em tham khảo nhé !

Nếu có dịp về với mảnh đất Hà Tĩnh, chắc hẳn ai cũng đã thưởng thức đặc sản truyền thống nơi đây, đó chính là kẹo “Cu Đơ” - loại kẹo mà ai nghe đến cũng phải “ồ” lên vì cái tên lạ và gợi nhiều tò mò này. Khi thưởng thức kẹo Cu Đơ, chắc chắn bạn sẽ được trải nghiệm hương vị độc đáo từ món kẹo giản dị mà vẫn nổi tiếng này. Đó chính là hương vị ngọt ngào từ mật mía, vị bùi bùi của bánh tráng, cộng với cái béo từ lạc và mùi thơm nồng của gừng. Tất cả những nguyên liệu làm nên kẹo Cu Đơ hòa quyện với nhau, tạo nên một hương vị đặc trưng mà chỉ loại kẹo này mới có.

Theo những người dân ở đây thì kẹo Cu Đơ xuất phát từ vùng Hương Sơn, Hà Tĩnh. Mới đầu, người ta chỉ gọi là kẹo lạc cụ Hai, vì cụ là người đầu tiên làm ra loại kẹo này. Dân gian thường giải thích rằng chính người Pháp đã tạo nên tên gọi kẹo Cu Đơ, vì người Pháp đọc từ “cụ” là “cu”, từ “hai” (số 2) đọc là “đơ” (deux).

Theo nhà thơ, nguyên giảng viên Đại học Tổng hợp Huế Nguyễn Hồng Trân, người ta thường truyền cho nhau câu chuyện rằng từ thời Pháp thuộc, có một vị người Pháp đi qua Hà Tĩnh, những người dân ở đây đã mời ông uống một bát nước chè xanh nóng và ăn một miếng kẹo được bọc trong lá chuối khô. Ông Pháp đó cũng cầm miếng kẹo ăn ngon lành, vừa ăn vừa uống nước chè xanh, rồi thốt lên: “Délicieux” (ngon tuyệt vời). Sau đó ông dò hỏi về loại kẹo ngon kì lạ này, người dân đã chỉ cho ông nhà cụ Hai (làng Thịnh Xá, Hương Sơn) - nơi đã sản xuất ra loại kẹo này. Vị người Pháp tìm về nhà cụ Hai và mua hết thảy số kẹo mà cụ đang có để làm quà cho bạn bè và người thân. Ông ta bỏ vào hộp và đề là Gâteau de Cu DEUX (bánh CU ĐƠ) lên trên mỗi hộp và gửi tặng bạn bè ở Paris. Từ “de” trong tiếng Pháp dưới tên dòng tộc như là biểu hiện dòng dõi quý tộc. Từ đó lan truyền ra cái tên kẹo Cu Đơ ngộ ngộ, vui vui này.

Kẹo Cu Đơ ngon là kẹo mà khi ăn phải hội đủ các vị béo bùi của lạc, ngọt ngào của đường mía, hương vị thơm nồng cay cay của gừng tươi, pha một chút chua nhẹ của chanh cùng với bánh tráng được nướng đúng độ, tạo nên hỗn hợp bánh giòn tan và ngọt bùi.

Để làm ra miếng kẹo Cu Đơ vừa thơm vừa giòn thì không phải ai cũng có thể làm được. Trước tiên phải chọn mật mía nguyên chất, vàng óng. Rồi lạc phải là loại lạc nhỏ hạt, không bị lép hay mốc, không được để trầy hết vỏ lụa ngoài của lạc. Và cuối cùng là bánh tráng - khuôn làm bánh nhỏ hơn kiểu bánh thường, chuyên dành làm kẹo; bánh tráng có các mép quăn đều, lõm giữa, khi nướng không được để nứt, thủng, vỡ và phải chín đều. Tuy nhiên, điều quyết định chiếc kẹo Cu Đơ ngon chính là kỹ thuật nấu. Mật được đun thật sôi, cho một ít gừng thái nhỏ và lạc rang vào rồi khuấy đều để lạc không bị chìm xuống đáy nồi và bị cháy. Cứ khuấy đều tay đến khi nào ngửi thấy mùi thơm, người thợ làm kẹo sẽ dùng đũa lấy một ít mật nhỏ vào nước lạnh, nhìn thấy giọt mật rơi vào nước không bị bẹp và không tan loãng ra là đạt yêu cầu.

Nơi nổi tiếng làm kẹo Cu Đơ là phường Đại Nài, Hà Tĩnh. Phường này nằm ở gần Cầu Phủ nên được gọi là “Cu Đơ Cầu Phủ” và đã tạo thành thương hiệu riêng. Những hộ dân ở đây hầu như nhà nào cũng nấu kẹo nên người ta gọi phường này là “Làng Cu Đơ”.

Bạn Hà Giang quê ở Hà Tĩnh, hiện đang học tập và làm việc tại thành phố Hồ Chí Minh, tự hào khi nói về kẹo Cu Đơ quê hương: “Mỗi lần có dịp về quê, bạn bè ở trong ni đều dặn nhất định phải mang kẹo Cu Đơ vào. Cho nên, lần nào về mình cũng mang đi vài túi kẹo để làm quà cho mọi người. Có rất nhiều chỗ bán kẹo Cu Đơ, nhưng đối với mình thì Cu Đơ Thư Viện của Cầu Phủ là ngon nhất, tuy giá có cao hơn những điểm khác, nhưng vẫn rất đông người mua.”

Bạn Thái Văn Chính, sinh viên năm 3, trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội cũng hào hứng kể: “Mình từ Hà Tĩnh ra Hà Nội học. Ngày đầu nhập học, mình mang theo kẹo Cu Đơ để làm quà quê. Lúc đầu, đám bạn còn ngại không muốn ăn, nhưng khi đã nếm thử thì đều tấm tắc khen ngon. Sau vài lần ăn kẹo Cu Đơ, các bạn mình đâm “nghiện” cái vị ngọt ngọt, bùi bùi lại thơm nữa. Nên khi mình về quê, việc mang Cu Đơ làm quà là điều không thể thiếu”.

Du khách khi đến Hà Tĩnh thường ghé qua các cửa hàng bán kẹo nổi tiếng để thưởng thức kẹo Cu Đơ và mua về làm quà cho người thân, bạn bè. Với những người con quê hương Hà Tĩnh, cứ mỗi lần đi xa lại mang theo vài bịch kẹo Cu Đơ để làm quà cho bạn bè hay để gửi cho những người con nơi xa xứ đang ngóng về quê mẹ. Bởi vì, người Hà Tĩnh xem kẹo Cu Đơ như là linh hồn của quê hương, vừa giản dị, chân phương, lại ngọt ngào tình quê. Nó gợi lại trong tâm hồn những người con xa xứ bao cảm xúc về mảnh đất khô cằn sỏi đá nhưng vô cùng ấm áp và bình dị này.

Bánh táo
10 tháng 6 2021 lúc 16:34

tham khảo ạ!

 

Văn hoá văn nghệ dân gian Hà Tĩnh trong vùng văn hoá văn nghệ dân gian xứ Nghệ hay Nghệ Tĩnh, nói cách khác là giữa 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, chỉ cách nhau có con sông Lam và mới tách tỉnh 180 năm nay; vậy, có gì đồng nhất và có gì khác biệt.

Được vinh dự mời viết bài tham dự hội thảo khoa học với đề tài nói trên trong dịp kỉ niệm 180 năm (1831-2011) tỉnh Hà Tĩnh ra đời, tôi thấy khó viết quá. Bởi tôi đã khẳng định rằng: Trong cả một quá trình lịch sử, Nghệ An và Hà Tĩnh đã bao đời đổi thay, khi là một huyện, một quận, một châu, một trại, một thừa tuyên, một xứ, một trấn, một tỉnh… khi là hai lộ, hai trại, hai phủ, hai châu, hai tỉnh,… địa vực có khi rộng khi hẹp, khi tên này khi tên khác nhưng nó vẫn là một dải đất trải dài từ khe Nước Lạnh cho đến đèo Ngang với hơn 200 km bờ biển, với vùng đồng trung du rộng lớn, với miền núi mênh mông, giàu sản vật, chiếm hơn 2/3 toàn bộ diện tích… gắn bó với nhau về tất cả các mặt: địa lý, lịch sử, kinh tế, văn hoá, phong tục tập quán, ngôn ngữ,… mà sông Lam núi Hồng là tượng trưng cho tinh thần gan góc hiên ngang, cho tinh thần hiếu học, trọng đạo lý làm người của những con người yêu nước, yêu quê hương đã bao đời khai khẩn, sinh sống, chiến đấu dũng cảm, lao động cần cù, luôn có sức sáng tạo mãnh liệt về mặt văn hoá, văn nghệ để bảo vệ và xây dựng quê hương, đất nước, muốn làm cho quê hương xứ sở rạng rỡ về mặt tài hoa, mặt học vấn.

Nằm chung trong khối thống nhất của đất nước Việt Nam từ Nam chí Bắc, vùng Nghệ Tĩnh cũng như một số vùng khác trong cả nước, có một số nét đặc thù. Những nét đặc thù này không đè lên, không làm mờ đi những đặc điểm chung của cả nước mà chỉ làm phong phú thêm, đa dạng thêm, tô đậm thêm những đặc điểm, những nét thuộc về bản sắc của văn hoá dân tộc Việt Nam.

Xứ Nghệ không được tạo vật cưu đương, đồng bằng cằn cỗi, khí hậu khắc nghiệt, đã từng là biên trấn, trấn địa, đất căn cứ, đất lập nước của nhiều đời,.. song về mặt văn hoá, văn nghệ dân gian lại rất phong phú, phong phú vào bậc nhất, so với tất cả cá cđịa phương khác trên toàn quốc. Đã bao đời rồi, cái gia tài vô giá ấy là ngọn nguồn nuôi dưỡng tinh thần, là cơ sở văn hoá, là trí tuệ và tài năng, là sức mạnh vật chất, là động lực phát triển của bà con xứ Nghệ.

Với văn nghệ dân gian, ở cái đất Hoan Diễn này có tất cả các loại hình từ ca dao, dân ca, câu đối, tục ngữ, thành ngữ, vè, truyện kể,… như văn nghệ dân gian toàn quốc. Có thể nói đó là một gia tài văn nghệ dân gian hoàn chỉnh.

Hoàn chỉnh không phải về thể loại, mà còn hoàn chỉnh về nội dung, về mức độ phản ánh các sinh hoạt xã hội, về đấu tranh chống ngoại xâm và các lực lượng hắc ám; về thể hiện nội tâm, tình cảm; về đạo lý và các mối quan hệ trong cuộc sống,… đó là nét chung nhất.

Nhưng giữa 2 tỉnh, Hà Tĩnh có những nét gì khác?

Thứ nhất là về mặt ngôn ngữ, trong hai tỉnh không phát âm sáu thanh như ngôn ngữ phổ thông mà thương chỉ có 5 thanh, thậm chí chỉ 4 thanh, 3 thanh. Song ở Hà Tĩnh, bức tranh thổ ngữ khá đa dạng. Tiếng nói của người Nghi Xuân tựa như tiếng người Nghi Lộc ở Nghệ An. Tiếng nói của người Can Lộc, Thanh Hà,… còn mang khá nhiều từ cổ, có người cho đó là ngôn ngữ Việt - Mường như Kẻ Trù, Chợ Lù (ở xã Phù Lưu cũ). Tiếng nói của người Đức Thọ thường có âm đôi như ôông/ông, sôống/sống,… và các từ khác như eng/anh; bọ/bố,.. vấn đề này đã được nhiều người đề cấp.

Thứ hai, trên địa bàn Hà Tĩnh không có hoặc có ít các dân tộc thiểu số, chỉ người Chứt ở Hương Khê, mà người Chứt cũng nằm trong ngữ hệ Việt - Mường, còn trên địa bàn Nghệ An có 5 dân tộc thiểu số chung sống. Đó là các dân tộc: Thái, Thổ, Khơ Mú, Ơ Đu, H’mông. Đông nhất là người Thái, Hà Tĩnh cũng có người Thái cư trú nhưng chỉ có 2 bản ở Sơn Lâm và Sơn Kim thuộc huyện Hương Sơn. Các dân tộc thiểu số nói trên, dù dân số ít nhiều, đều có một gia tài văn hoá, văn nghệ dân gian nhất định. Gia tài văn hoá văn nghệ dân gian của các dân tộc thiểu số ấy đã cùng với gia tài văn hoá văn nghệ dân gian của người Việt làm cho gia tài văn hoá văn nghệ dân gian Nghệ An phong phú hơn, nhiều sắc thái văn hoá hơn.

Thứ ba, hai thổ sản đặc biệt của xứ Nghệ là hát ví và hát giặm. Hát ví phổ biến ở cả Hà Tĩnh và Nghệ An, song đậm đà nhất là ở Nam Đàn và thượng Can Lộc, Hát giặm, nhất là hát giặm trai gái phần lớn thường chỉ lưu hành ở các huyện Can Lộc, Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh.

Nhưng trước hết, hát giặm là gì? Có người cho rằng giặm là giẫm chân và hát giặm là lối hát có đánh nhịp bằng chân. Lại có người cho rằng, tiếng giặm xuất phát từ tính phân đoạn trong một bài hát giặm. Còn có người cho rằng, giặm là giắm vào, điền vào như Giắm lúa. Ý kiến này căn cứ vào những câu lãy trong một bài hát giặm.

Cố giáo sư Nguyễn Đổng Chi cho rằng hát giặm có hai làn điệu là hát nói và hát ngâm, chủ yếu là hát nói. Hát nói của hát giặm tạo cho người nghe một cẩm giác đều đều, chắc gọn, nặng nề. Phương ngữ xứ Nghệ có câu:

Dại nhất là thổi tù và,

Thứ nhì hát giặm, thứ ba thả diều.

Mặc dù có vần, có âm, có điệu. Nó phản ảnh một loại dân ca ở trình độ còn thô sơ. Cách hát của giặm thường có ngâm mà không rung nghe đều đều mà mặt mũi không được tròn trĩnh xinh tươi cho lắm nên phương ngữ xứ Nghệ còn có câu: hát giặm đồng đôi, mạt to như cái nồi, còn ngồi hát giặm”, nghe nhiều thường nhàm chán. Giáo sư cho rằng: “Hát giặm phản ánh một thứ lao động nào đó tương đối mệt nhọc, đều đều như đi đường, giã gạo, leo núi,v.v… hoặc phải chăng nó ảnh hưởng của một công cuộc sinh hoạt hãy còn thô sơ, đơn điệu ở chỗ núi rừng”. Đúng là như vậy nhất là câu láy. Câu láy không phải là giắm vào như giắm lúa, hay điền vào như điền vài đoạn nan trong cái rổ bị rách. Theo chúng tôi, câu láy là tiếng vang lại (é cho) của tiếng nói nơi núi rừng. Khi chúng ta đi vào nơi núi rừng có nhiều vách đá thẳng tắp cheo leo; nói to một câu chúng ta thường nghe vọng lại tiếng nói của chính mình. Câu láy lại của câu cuối một đoạn hay một khúc của bài giặm có thể là tiếng vọng đó. Vùng phía nam Hà Tĩnh xưa kia núi rừng nhiều, mà hát giặm thường lưu hành mấy huyện phía Hà Tĩnh, như đã nói trên, cho nên có thể nói Hà Tĩnh là quê hương, là nơi xuất phát ban đầu của hát giặm. Tóm lại với địa hình của mình, Hà Tĩnh đã cung cấp cho gia tài dân ca xứ Nghệ, dân ca toàn quốc một loại hình hát giặm độc đáo mà sức sống của nó tồn tại mãi đến hôm nay.

Thứ tư, Hà Tĩnh có nhiều nhà thơ nhà văn làm sáng rực lâu dài văn học dân tộc như đại thi hào Nguyễn Du và truyện Kiều, Nguyễn Huy Tự với Hoa tiên truyện, Nguyễn Công Trứ tài hoa với những bài ca trù,… và bao danh sĩ khác nữa. Họ đều đi chơi hát ví nhất là hát ví phường vải. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn gọi họ là “Văn phái Hồng Sơn”. Giáo sư cho rằng: “Hát ví nói chung, hát phường vải nói riêng bằng văn lục bát không những có ảnh hưởng đến văn phái Hồng Sơn mà còn cho ta thấy sự phôi thai của áng văn kiệt tác là văn Kiều”. Ông Nguyễn Tất Thứ trên “Tiểu thuyết thứ bảy” số tháng 6 năm 1944, cũng đánh một tiếng chuông thứ hai để hoạ lại cái chính kiến của Giáo sư Hoàng Xuân Hãn. Ông nói: “Theo tôi thì từ Hoa tiên truyện, Mai Đình mộng ký đến Đoạn Trường Tân Thanh, văn phái Hồng Sơn là một con bướm vàng rực rỡ đã được dạo qua làn hương phấn của chùm hoa phong dao”. Hai ông ấy đã nói đúng. Nhân dân với tài năng sáng tạo của mình đã sáng tạo nên ca dao, dân ca, hát ví phường vải về mặt ngôn ngữ đã xây dựng nền nghệ thuật về ngữ ngôn. Nhà văn nhà thơ tiếp thu nó một cách đầy đủ và tiêu hoá nó đến sáng tạo nên những lời ca, câu thơ bất hủ. Có thể nói nhân dân là tác giả ban đầu đã thầm lặng giúp đỡ những nhà thơ như Nguyễn Du về cả hai mặt ngôn ngữ nghệ thuật và cả tư tưởng tình cảm. Đương nhiên chúng ta không phủ nhận tài năng sáng tác của cá nhân nghệ sĩ, nghệ sĩ phải có tài năng sáng tác thật sự, phải có cá tính sáng tạo rõ ràng thì trong sáng tác nghệ thuật của mình mới có tác phẩm lớn được. Trường hợp Nguyễn Du và nhiều nhà văn cổ điển khác trong Văn phái Hồng Sơn đã được sự giúp đỡ thầm lặng và có phần trực tiếp nữa khá nhiều của nhân dân Hà Tĩnh qua hát giặm, hát ví như hát ví phường vải, hát ví phường nón, hát ví phường đan,… Đó là nét gắn bó hữu cơ và khá nổi trội của văn nghệ dân gian Hà Tĩnh với các nhà văn chuyên nghiệp. Ở Nghệ An chưa thấy rõ điều đó.

Thứ năm là thời gian và không gian văn hoá của một cuộc hát ví hay hát giặm cũng như thủ tục một cuộc hát ví, hát giặm ở Hà Tĩnh có vẻ cơ động hơn, linh hoạt hơn. Về thời gian và không gian văn hoá, không nhất thiết phải là ban đêm và trong nhà, trong sân với ngoài ngõ, ngoài đường và đủ ba chặng bảy bước. Xứ xem xuốn Hát giặm Nghệ Tĩnh của giáo sư Nguyễn Đổng Chi thì rõ, trai gái đi củi hay đi làm đồng về, nghỉ đâu đó thì địa điểm nghỉ ngơi ấy cũng là không gian văn hoá của một cuộc hát ví giặm như tại khe Giao, truông Bát,… chẳng hạn.

Tôi có thể giới thiệu vài ba nét dị biệt nữa giữa văn hoá văn nghệ dân gian Hà Tĩnh với văn hoá văn nghệ dân gian Nghệ An. Qua 9 tập trong “Kho tàng vè xứ Nghệ”, 4 tập trong “Kho tàng truyện kể xứ Nghệ”, 2 tập trong “Kho tàng ca dao xứ Nghệ” và một số tập sách khác viết về văn hoá, văn nghệ dân gian xứ Nghệ”, đó đây tôi đã đề cập ít nhiều. Giờ đây tôi không muốn viết lại, xin các bạn lượng thứ.

Lê Nguyễn Huyền Anh
Xem chi tiết