Những câu hỏi liên quan
Trần Văn Tuấn Tú
Xem chi tiết
꧁༺β£ɑℭƙ £❍ζʊꜱ༻꧂
30 tháng 3 2021 lúc 21:27

Hoàn cảnh của hiệp ước Giáp Tuất 1874 như sau: 

Chiến thắng của nhân dân ở Cầu Giấy khiến quân Pháp hoang mang cực độ và tìm cách thương lượng, còn quân và dân ta phấn khởi, càng hăng hái đánh giặc.Ngược lại, triều đình phong kiến nhà Nguyễn thì lại lo sợ nên đã vội vã kí với quân Pháp bản Hiệp ước Giáp Tuất. Điều này trước mắt để quân Pháp rút khỏi Hà Nội cùng các tỉnh Bắc Kì, nhưng vẫn có điều kiện tiếp tục xây dựng cơ sở các bước xâm lược về sau.Bên cạnh đó, năm 1874 Hoàng Tá Viêm phối hợp với quân của Lưu Vĩnh Phúc đã giết chết Francis Garnier tại Hà Nội. Trước tình hình trên Pháp đồng ý nghị hòa bằng Hiệp ước Giáp Tuất.  

Nội dung:

+ Triều đình Huế thừa nhận 6 tỉnh Nam Kỳ là đất thuộc Pháp

+ Công nhận quyền đi lại, buôn bán, kiểm soát và điều tra tình hình của Pháp

+ Nền ngoại giao VN lệ thuộc vào đường lối đối ngoại của Pháp

-> Hoàn toàn biến nước ta thành nước nửa phong kiến, nửa thuộc địa, làm mất thêm một phần chủ quyền quan trọng về chủ quyền lãnh thổ, ngoại giao và thương mại Việt Nam.

Nhận xét 

- Trều đình đã chính thức đầu hàng , nhu nhược trước sự xâm lược của Pháp 

- Với việc làm đó thì trều đình đã từ bỏ 1 phần trách nhiệm trong việc tổ chức và lãnh đạo kháng chiến chống Pháp

- Đồng thời nó cũng thể hiện chỉ vì lợi ích riêng của triều đình phong kiến nên đã  phản bội lại một phần lợi ích dân tộc

- Có thể nói Triều đình sớm tỏ ra hoang mang và dao động trước Pháp nên dẫn đến nhữngvệc làm ngu ngốc và tội lỗi

- Cùng với nội dung kí kết đó triều đình đã lại tiếp tục phản bội lại lợi ích của dân tộc và lợi ích của nhân dân nên từ đó tạo đà cho Pháp có cơ hội lấn tới trên con đường xâm lược nước ta

Bình luận (0)
minh nguyet
30 tháng 3 2021 lúc 21:29

Ý 1:

 

Nguyên nhân dẫn đến hiệp ước Giáp Tuất:

- Thực dân Pháp gặp khó khăn sau thất bại ở Cầu Giấy( 1874)

- Nhà Nguyễn mang nặng tư tưởng thương thuyết với Pháp

Nội dung của Hiệp ước 

- Thừa nhận chủ quyền của Pháp ở 6 tỉnh Nam Kì

- Mở các cửa biển ở Thị Nại, Ninh Hải,...

- Người ngoại quốc muốn đi vào Việt Nam phải có giấy thông hành do Pháp cấp

Ý 2:

Từ năm 1858 đến năm 1884 là quá trình triều đình Huế đi từ đầu hàng từng bước đến đầu hàng toàn bộ trước quân xâm lược. Điều này thể hiện lần lượt qua nội dung các hiệp ước mà triều đình kí với Pháp:

- Hiệp ước Nhâm Tuất (5-6-1862): thừa nhận sự cai quản của Pháp ở 3 tỉnh miền Đông Nam Kì (Gia Định. Định Tường, Biên Hoà) và đảo côn Lôn; mở 3 cửa biển cho Pháp vào buôn bán,...

- Hiệp ước Giáp Tuất (15-3-1874): chính thức thừa nhận 6 tỉnh Nam Kì hoàn toàn thuộc Pháp.

- Hiệp ước Hác-măng (25-8-1883): Triều đình Huế chính thức thừa nhận nền bảo hộ của Pháp ở Bắc Kì và Trung Kì...; mọi việc giao thiệp với nước ngoài (kể cả với Trung Quốc) đều do Pháp nắm.

- Hiệp ước Pa-tơ-nốt (6-6-1884): Triều đình thừa nhận sự bảo hộ của nước Pháp.

=> Như vậy, qua những hiệp ước trên, ta thấy quá trình triều đình Huế từ chỗ cắt từng bộ phận lãnh thổ rồi đi đến thừa nhận nền thống trị của Pháp trên toàn bộ lãnh thổ nước ta. Thông qua các Hiệp ước cho thấy: các điều khoản, điều kiện này càng nặng nề, tính chất thỏa hiệp, đầu hàng ngày một nghiêm trọng hơn.

=> Việt Nam từ một nước phong kiến độc lập trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến.

 

Bình luận (0)
Queen
30 tháng 3 2021 lúc 21:30

*Nguyên nhân dẫn đến hiệp ước Giáp Tuất:

- Thực dân Pháp gặp khó khăn sau thất bại ở Cầu Giấy( 1874)

- Nhà Nguyễn mang nặng tư tưởng thương thuyết với Pháp

*Nội dung của Hiệp ước 

- Thừa nhận chủ quyền của Pháp ở 6 tỉnh Nam Kì

- Mở các cửa biển ở Thị Nại, Ninh Hải,...

- Người ngoại quốc muốn đi vào Việt Nam phải có giấy thông hành do Pháp cấp

*Đánh giá của bản thân

- Xâm phạm đến lãnh thổ chủ quyền và quyền lợi của Việt Nam 

- Gây sự bất bình trong nhân dân Việt Nam

 

Bình luận (0)
Lười Biếng
Xem chi tiết
phạm
8 tháng 3 2022 lúc 17:22

tham khảo : 

 

Hoàn cảnh kí hiệp ước Nhâm Tuất:

-Tháng 02/1861, Pháp tấn công Đại Đồn Chí Hoà, quân ta kháng cự quyết liệt nhưng do hỏa lực địch quá mạnh, Nguyễn Tri Phương buộc phải rút lui. Pháp thừa thắng đánh chiếm Định Tường, Biên Hoà, Vĩnh Long.

-Phong trào kháng chiến của nhân dân dâng cao, Pháp đang vô cùng bối rối thì triều Nguyễn đã kí với Pháp bản hiệp ước Nhâm Tuất (05/06/1862) gồm 12 điều khoản.

Bình luận (0)
Vũ Quang Huy
8 tháng 3 2022 lúc 17:22

tham khảo

- Ngày 23-2-1861, quân Pháp mở cuộc tấn công và chiếm được Đại đồn Chí Hòa. Thừa thắng, quân Pháp chiếm luôn Định Tường (12-4-1861), Biên Hòa (18-12-1861), Vĩnh Long (23-3-1862).

- Nhân dân ta vẫn tiến hành cuộc kháng chiến quyết liệt. Các toán nghĩa quân của Trương Định, Trần Thiện Chính, Lê Huy,… chiến đấu rất anh dũng, lập nhiều chiến công.

- Ngày 10-12-1861, đội quân của Nguyễn Trung Trực đánh chìm tàu chiến Ét-pê-răng (Hi vọng) của Pháp trên sông Vàm Cỏ Đông (đoạn chảy qua thôn Nhật Tảo) làm nức lòng quân dân ta.

- Giữa lúc phong trào kháng chiến của nhân dân đang ngày một dâng cao, khiến quân giặc vô cùng bối rối thì triều đình Huế kí với Pháp Hiệp ước Nhâm Tuất (5-6-1862).

Bình luận (0)
Hoàng Ngân Hà
8 tháng 3 2022 lúc 17:28

Tham khảo:

- Ngày 23-2-1861, quân Pháp mở cuộc tấn công và chiếm được Đại đồn Chí Hòa. Thừa thắng, quân Pháp chiếm luôn Định Tường (12-4-1861), Biên Hòa (18-12-1861), Vĩnh Long (23-3-1862).

- Nhân dân ta vẫn tiến hành cuộc kháng chiến quyết liệt. Các toán nghĩa quân của Trương Định, Trần Thiện Chính, Lê Huy,… chiến đấu rất anh dũng, lập nhiều chiến công.

- Ngày 10-12-1861, đội quân của Nguyễn Trung Trực đánh chìm tàu chiến Ét-pê-răng (Hi vọng) của Pháp trên sông Vàm Cỏ Đông (đoạn chảy qua thôn Nhật Tảo) làm nức lòng quân dân ta.

- Giữa lúc phong trào kháng chiến của nhân dân đang ngày một dâng cao, khiến quân giặc vô cùng bối rối thì triều đình Huế kí với Pháp Hiệp ước Nhâm Tuất (5-6-1862).

Bình luận (0)
Minh Thái
Xem chi tiết
Lê Phương Mai
14 tháng 3 2022 lúc 22:54

hmm..theo mình thì nội dung chính là phần diễn biến đó

Bình luận (3)
sky12
14 tháng 3 2022 lúc 22:56

Nội dung trong đây có ý là gì vậy bạn? 

Bình luận (2)
✎﹏ϯǜทɠ✯廴ěë︵☆
15 tháng 3 2022 lúc 10:11

Tham Khảo

 

Sau khi đánh thắng nhà Tây Sơn, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vua lấy niên hiệu Gia Long (1802). Trong suốt thời gian Gia Long trị vì (1802-1819)  về nội trị tương đối ổn định dù rằng có một số vùng dân chúng  nổi lên chống lại triều đình, nhất là ở khu vực Đàng Ngoài với cả hàng chục vụ, nhưng đây chỉ là những cuộc nổi dậy lẻ tẻ, thế lực quá yếu, chỉ quấy phá ở một vài phủ huyện chẳng bao lâu sau đã bị dẹp tắt ngay.  Nhưng sang đời vua Minh Mạng (1820-1840) đã có những  cuộc nổi dậy với quy mô rộng lớn  ở đất Bắc Kỳ như cuộc khởi nghĩa của Phan Bá Vành (1821-1827), cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Lương (1826-1833) ở Ninh Bình, Thanh Hóa, cuộc khởi nghĩa của Nông Văn Vân (1833-1835) nổi lên ở Cao Bằng quấy phá mấy tỉnh vùng Tuyên Quang, Thái Nguyên, Cao Bằng và Lạng Sơn và cuộc nổi loạn của Lê Văn Khôi ở đất lục tỉnh Nam Kỳ. Trong những cuộc khởi nghĩa kể trên, kiệt hiệt hơn cả, đó là cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi trong năm 1833, chỉ trong vòng 1 tháng trời, quân của Khôi đã chiếm trọn 6 tỉnh Nam Kỳ, Khôi tự phong là đại nguyên suý và phong chức tước cho các đồ đảng chẳng khác chi một triều đình và phải cần đến gần 3 năm quan quân của triều đình mới phá tan được cứ điểm cố thủ cuối cùng của loạn quân là thành Bát Quái (nay nằm trong địa phận Sài Gòn)! Vậy mà ca dao lịch sử hầu như không ghi lại câu nào gọi là để kỷ công cho Lê Văn Khôi mà ngày nay chúng ta chỉ được biết có mỗi một câu nêu rõ tên của Khôi nhưng lại là một câu tỏ ý trách móc :

                        Bao giờ bắt được giặc Khôi,

                        Cho yên giặc nước chồng tôi mới về !

 

            Cùng thời với câu ca dao trên còn một câu nữa cũng tỏ ý trách móc Lê Văn Khôi đã gây ra cuộc binh biến khiến cho quân lính đương thời phải vất vả mệt nhọc. Vào thời Minh Mạng (1820-1840), bến Trường Tiền và bến Bồ Đề thuộc kinh đô Phú Xuân là nơi đồn trú của 2 đội Thủy sư. Trong mấy năm đầu, quân triều đình tại các trấn Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận đều bị quân của Khôi đánh cho liểng xiểng. Để đối phó với tình thế, sau khi một tướng của Khôi là Thái Công Triều, nguyên là một vị quan của triều đình theo Khôi làm phản nhưng sau đó đã về qui phục Triều đình xin đới công chuộc tội, Minh Mạng đã điều động 2 toán quân Thủy sư tại kinh đô vào Nam tham chiến. Đội quân kinh đô được gọi là quân Trấn Vũ chưa từng chinh chiến nơi xa nên ra đi mà trong lòng lo sợ không yên:

Nơi bến Trường Tiền có cây đa bóng mát

Gần bến Bồ Đề có bãi cát phẳng lì

Trời ơi, sanh giặc làm chi

Để quân Trấn Vũ phải ra đi cơ hàn!

 

            Trước cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi hơn 10 năm, tại đất Nam Định xứ Đàng Ngoài  đã có cuộc khởi nghĩa của Phan Bá Vành.

Tháng giêng năm Minh Mạng thứ 2 (1821), Phan Bá Vành đã lãnh đạo nghĩa binh lập căn cứ ở Trà Lũ (Nam Định) nổi lên khởi nghĩa chống lại triều đình. Cuộc khởi nghĩa của Phan Bá Vành đã kéo dài gần 6 năm, hoạt động khắp các tỉnh ven biển từ Nam Định, Thái Bình đến Quảng Yên, có khi nghĩa quân hoạt động đến tận Sơn Tây, kéo vào đến Hòa Bình, Thanh Hóa. Đến năm Minh Mạng thứ 7 (1826), Phan Bá Vành lại liên kết với nghĩa binh của Võ Đức Cát và Nguyễn Hạnh đánh phá các phủ Trà Lý và Lân Hải (tháng 2 Bính Tuất, 1826), 2 quan thủ ngự của triều đình  là Đặng Đình Miễn và Nguyễn Trung Diễn đều bị hại. Quan trấn thủ Nam Định là Lê Mậu Diễn đem quân tiếp cứu cũng bị nghĩa binh giết chết. Thế của nghĩa quân mạnh như nước vỡ bờ, quân các trấn hiệp lực chống cự cũng rất khó khăn nhưng rồi đến cuối năm, một thủ lãnh của nghĩa quân là Lê Đức Cát bị thống chế Trương Phước Đặng vây bắt ở làng Đông Hào, Giao Thủy đem giết đi. Sau cái chết của Lê Đức Cát, Phan Bá Vành và Nguyễn Hạnh liên kết với giặc Khách đang hoành hành ngoài biển đem 5000 quân vây khổn 2 huyện Tiên Minh và Nghi Dương ở Hải Dương. Trước thế mạnh của quân khởi nghĩa, Minh Mạng sai 2 tướng tài là quan tham hiệp Thanh Hóa Nguyễn Công Trứ, quan tham hiệp Nghệ An Nguyễn Hữu Thận cùng quan quân 2 tỉnh Thanh Nghệ hiệp với quân của quan hiệp trấn Bắc Thành cố tiêu diệt cho được cuộc khởi nghĩa của Phan Bá Vành. Không nao núng trước lực lượng hùng hậu của triều đình, sang đầu năm Minh Mệnh thứ 8 (1827) Phan Bá Vành lại cho quân chiếm 2 phủ Xuân Trường và Kiến Xương (Nam Định), vây khổn quân của Phạm Đình Bửu ở Chợ Quán khiến Nguyễn Công Trứ và Phạm Văn Lý phải dốc toàn lực để giải vây. Trước sức phản công mãnh liệt của quân triều đình, cuối cùng Phan Bá Vành cùng bộ hạ lại kéo nhau trở về Trà Lũ đào hào, đắp thành cố thủ. Bị vây ngặt, Phan Bá Vành định lợi dụng đêm hôm tìm đường thoát thân ra biển nhưng rồi, vào tháng hai năm Đinh hợi (1827), sau hơn 1 tháng cố thủ, quan quân triều đình vây bắt được Phan Bá Vành cùng 760 đồ đảng đem về trị tội. Cuộc khởi nghĩa của Phan Bá Vành chấm dứt sau hơn 6 năm tung hoành trên địa bàn đất Bắc.

Như ta đã biết, trên đất Bắc, đồng thời với cuộc khởi nghĩa của Phan Bá Vành còn có những cuộc khởi nghĩa qui mô khác như của Lê Duy Lương, Nồng Văn Vân . . .Trong những câu ca dao được xem là ca dao lịch sử còn lưu truyền cho đến ngày nay, hầu như không có câu nào nhắc đến tên tuổi của các thủ lãnh kể trên, trong lúc đó thì cuộc khởi nghĩa của Phan Bá Vành ở đất Nam Định lại có nhiều câu ca dao nhắc đến hơn cả :

* Trên trời có ông sao Tua

Ở làng Nguyệt (Minh) Giám có vua Ba Vành

Phương Đông quật lũ hung tinh

Làm cho bảy viện tan tành ra tro

 

* Trên trời có ông sao Tua

Cầu Đông, bến Đá có vua Ba Vành

 

* Trên trời có ông sao Tua

Ở dưới mạn biển có vua Ba Vành

 

*Trên trời có ông sao Tua

Ba làng Trà Lũ có vua Ba Vành

 

Nhận xét đầu tiên của chúng ta là các câu trên đây đều có câu “lục” (tức câu thơ sáu chữ của thơ lục bát) giống nhau :

                        Trên trời có ông sao Tua !

 

            Đây là một hình thức cấu tạo những câu ca dao mới cùng chung với nội dung của câu đầu tiên hoặc phản bác với nội dung của câu đầu tiên.

 

Các câu ca dao trên có chung một nội dung “tiên tri” nhằm ca tụng Phan Bá Vành, thủ lãnh của một cuộc khởi nghĩa đã làm cho quan quân của triều đình Minh Mạng phải nhiều phen thất điên bát đảo! Quả thực, đây chỉ là một “tiên tri” mang tính chất tuyên truyền vì thực tế chưa bao giờ Phan Bá Vành là vua và trong suốt thời gian lãnh đạo khởi nghĩa, ông cũng chưa bao giờ tự xưng là vua!

 

            Các câu “bát” ở dưới đều xưng tụng Phan Bá Vành là “Vua” (Vua Ba Vành) và mỗi câu xuất hiện ở một địa phương nơi mà nghĩa quân Phan Bá Vành đã gây được nhiều thanh thế, tạo được nhiều chấn động nhân tâm trong quần chúng : làng Minh Giám hay làng Nguyệt Giám là làng sinh quán của Phan Bá Vành ; “Cầu Đông, Bến Đá” hay “Ở dưới mạn biển” là những vùng mà cuộc khởi nghĩa của Phan Bá Vành đã từng hoạt động ! “Ba làng Trà Lũ” tức các làng Trà Trung, Trà Bắc và Trà Đoài thuộc huyện Xuân Trường tỉnh Nam Định vừa là cứ điểm xuất phát, vừa là cứ điểm cố thủ cuối cùng của nghĩa quân Phan Bá Vành.

 

            Những câu ca dao trên đây lúc đầu chắc hẳn đã xuất hiện trong hàng ngũ  nghĩa quân Phan Bá Vành để làm công cụ tuyên truyền và cứ qua mỗi địa phương quan trọng, câu thơ tuyên truyền lại được thay đổi địa danh như ta đã thấy ở trên và có thể là trong buổi đầu, khi câu ca dao xuất hiện lần đầu tiên, nó được tuyên truyền như một “câu sấm” tiên tri Phan Bá Vành “sẽ là Vua”. Đây là một thủ đoạn chính trị mà các thủ lãnh khởi nghĩa đôi khi đã phải dùng để tự gây thanh thế cho mình như câu chuyện “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần” trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống giặc xâm lăng nhà Minh (1417-1427). Vả lại, trong thời đại phong kiến, các thủ lãnh khởi nghĩa chống lại triều đình đều nhằm mục đích tối hậu: hoặc khởi nghĩa vì mục đích cần vương (tức ủng hộ cho một dòng họ đã bị thoán đoạt quyền hành) như những cuộc khởi nghĩa lấy danh nghĩa phù Lê, hoặc chính thủ lãnh khởi nghĩa có tham vọng diệt triều đại thối nát đương quyền để tự mình lên ngôi cửu ngũ như cuộc khởi nghĩa của anh em Tây Sơn với sự lên ngôi của Nguyễn Nhạc và về sau là của Nguyễn Huệ. Và có như vậy, các thủ lãnh khởi nghiã mới kêu gọi được sự hợp tác của từng lớp sĩ phu và của cả dân chúng ;  và chúng ta có thể suy đoán câu ca dao đã xuất hiện gần như đồng thời với sự kiện nhằm mục đích gây thanh thế cho người thủ lãnh của phong trào tức Phan Bá Vành trong quảng đại quần chúng.

 

            Những câu ca dao mang tính tuyên truyền như trên đã ăn sâu vào tâm thức của quảng đại quần chúng đương thời, dù ít dù nhiều cũng đã gây được ảnh hưởng tốt trong dân chúng và nhờ vậy mà chúng đã được bảo lưu cho đến ngày nay.

 

            Câu ca dao sau đây cũng nhắc đến “vua Ba Vành” nhưng chắc hẳn nó đã không xuất hiện cùng thời với sự kiện Phan Bá Vành khởi nghĩa mà nó chỉ xuất hiện muộn về sau nhằm thẩm định giá trị của thủ lãnh Phan Bá Vành, và rõ ràng cuộc khởi nghĩa của ông tuy không thành công nhưng cũng đã để lại trong lòng dân chúng vùng quê hương ông một mối cảm tình tốt đẹp :

                        * Chẳng vui cũng thể hội chùa

Chẳng ngai, chẳng hốt cũng vua Ba Vành

 

Ngày nay, chúng ta đã có thể sưu tập hàng trăm câu ca dao được gọi là ca dao lịch sử. Trong hàng trăm câu đó, họa hoằn chúng ta mới bắt gặp dăm ba câu có nhắc đến tên một vài thủ lãnh khởi nghĩa một cách rõ ràng chính xác như mấy câu ca dao lịch sử trên đây. Đây cũng là một điều đáng để cho chúng ta lưu tâm tìm hiểu.

 

Như chúng ta có thể cảm nhận, dân tộc Việt Nam là một dân tộc bất khuất nhưng lại rất hiếu hòa. Bất khuất trước kẻ thù xâm lược, bất khuất trước những áp bức bất công, hà khắc của cường quyền, nhưng sau khi tinh thần bất khuất đã được biểu lộ hay đã tạo nên chiến thắng rồi thì tinh thần hiếu hòa lại là tinh thần chủ đạo trong cuộc sống. Họ không mấy khi nhắc đến chiến công. Họ không mấy khi miệt thị kẻ thù.

 

Thời nhà Lý (1010-1225), Lý Thường Kiệt đã đem quân đánh thẳng sang đất nước Trung Hoa hàng năm trăm dặm (1075), đã chiến thắng oanh liệt quân nhà Tống trên sông Như Nguyệt (1076) cũng chỉ được nhắc đến một cách nhẹ nhàng, không hận thù, không khoa trương:

            Nực cười châu chấu đá xe,

            Tưởng rằng chấu ngã, ai dè xe nghiêng!

 

Thời nhà Tây Sơn (1788-1802), Quang Trung Nguyễn Huệ đã lãnh đạo quân dân Đại Việt đánh thắng 20 vạn quân xâm lược Mãn Thanh, tạo nên chiến tích Đống Đa lừng lẫy (ngày 7 tháng Giêng năm Kỷ Dậu, 1789). “Vua Quang Trung vào thành Thăng Long, hạ lệnh chiêu an, phàm những người Tàu trốn tránh ở đâu ra thú tội, đều được cấp cho áo mặc, lương ăn” (VNSL, II, 134). Và về sau dân chúng còn lập cả đền thờ để thờ những linh hồn oan khuất của binh lính Mãn Thanh tử trận tại gò Đống Đa thuộc Hà Nội ngày nay:

            Đống Đa ghi dấu lại đây,

            Bên kia Thanh miếu, Bên này Bộc am!

Bình luận (0)
duy vĩ lê
Xem chi tiết
Phạm Thu Hương
18 tháng 6 2020 lúc 17:37

1.

Hiệp ước Nhâm Tuất:
- Về lãnh thổ: triều đình nhượng hẳn cho Pháp ba tỉnh miền Đông Nam Kì (Gia Định, Định Tường, Biên Hòa) và đảo Côn Lôn. Pháp trả lại Vĩnh Long khi nào triều đình buộc nhân dân ngừng kháng chiến.
- Về thông thương: mở 3 cửa biển Đà Nẵng, Ba Lạt, Quảng Yên cho Pháp vào tự do buôn bán.
- Về chiến phí: bồi thường cho Pháp 20 triệu quan (ước tính bằng 280 vạn lạng bạc).
+) hiệp ước Giáp Tuất:
+Triều đình Huế Thừa nhận 6 tỉnh Nam Kì là đất thuộc Pháp
+Công nhận quyền đi lại, buôn bán,kiểm soát và điều tra tình hình của Pháp
+Nền ngoại giao Việt Nam lệ thuộc vào đường lối đối ngoại của Pháp
+) hiệp ước Hác-măng:
-Triều đình Huế chính thức thừa nhận nền bảo hộ của Pháp ở Bắc Kì và Trung Kì, cắt tỉnh Bình Thuận ra khỏi Trung Kì để nhập vào đất Nam Kì thuộc Pháp.
-Ba tỉnh Thanh-Nghệ-Tĩnh được sáp nhập vào Bắc Kì.
-Triều đình chỉ được cai quản vùng đất trung kì nhưng mọi việc đều phải thông qua viên khâm sứ của Pháp ở Huế.
-Công sứ Pháp ở các tỉnh Bắc Kì thường xuyên kiểm soát những công việc của quan lại triều đình, nắm các quyền trị an và nội vụ.
-Mọi việc giao thiệp với nước ngoài ( kể cả với Trung Quốc ) đều do Pháp nắm.
-Triều đình Huế phải rút quân đội từ Bắc Kì về Trung Kì.
+) hiệp ước Pa-tơ-nốt:
Có nội dung cơ bản giống hiệp ước Hác-măng, chỉ sửa đổi đôi chút về ranh giới khu vực Trung kì nhằm xoa dịu dư luận và lấy lòng vua quan phong kiến bù nhìn.

Bình luận (0)
Phạm Thu Hương
18 tháng 6 2020 lúc 17:38

2.

-Thái độ và hành động của triều đình Huế trong việc để mất 3 tỉnh miền Tây Nam Kì:
+ Ngăn cản phong trào kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta ở Nam Kì và ra lệnh bãi binh.
+ Do thái độ cầu hòa của triều đình --> Pháp chiếm được 3 tỉnh miền Tây Nam Kì mà không tốn một viên đạn nào( t6.1867).
-Phong trào đấu tranh chống Pháp của nhân dân diễn ra sôi nổi với những hình thức phong phú:
+ Bất hợp tác với giặc, một số bộ phận nhân dân kiên quyết đấu tranh vũ trang --> nhiều trung tâm kháng chiến được thành lập ( Đồng Tháp Mười , Tây Ninh , Bến Tre..).
+ Một bộ phận dùng văn thơ lên án thực dân Pháp và tay sai, cổ vũ lòng yêu nuóc như Phan Văn Trị, Nguyễn Đình Chiểu.

Bình luận (0)
Phạm Thu Hương
18 tháng 6 2020 lúc 17:38

3. Vì

- Quy mô, địa bàn hoạt động rộng lớn, gồm 4 tỉnh bắc Trung Kì: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình.

- Trình độ tổ chức quy củ: gồm 15 quân thứ, mỗi quân thứ có từ 100 đến 500 người do các tướng lĩnh tài ba chỉ huy.

- Thời gian tồn tại dài nhất trong các cuộc khởi nghĩa của phong trào Cần Vương, 10 năm từ năm 1885 đến năm 1896.

- Khởi nghĩa thất bại đánh dấu mốc kết thúc của phong trào đấu tranh chống Pháp dưới ngọn cờ Cần Vương.

Bình luận (0)
Đỗ Văn Hưng
Xem chi tiết
Quang Nhân
22 tháng 5 2021 lúc 7:01

Em tham khảo nhé !

* Nội dung:

- Hoa Kỳ và các nước cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

- Hai bên ngừng bắn ở miền Nam lúc 24 giờ ngày 27-01-1973 và Hoa Kì cam kết chấm dứt mọi hoạt động chống phá miền Bắc Việt Nam.

Hoa Kỳ rút hết quân viễn chinh và quân đồng minh, hủy bỏ các ­căn cứ quân sự Mĩ, cam kết không tiếp tục can thiệp vào nội bộ của miền Nam Việt Nam.

- Nhân dân miền Nam tự quyết định tương lai chính trị thông qua tổng tuyển cử tự do, không có sự can thiệp của nước ngoài.

- Các bên công nhận thực tế miền Nam Việt Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát và ba lực lượng chính trị.

- Các bên ngừng bắn tại chỗ, trao trả cho nhau tù binh và dân thường bị bắt.

- Hoa Kỳ cam kết góp phần vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương.

* Ý nghĩa:

- Là thắng lợi của sự kết hợp giữa đấu tranh chính trị, quân sự, ngoại giao.

- Là kết quả của cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất của quân dân ta trên cả hai miền đất nước.

- Mở ra bước ngoặt mới cho cách mạng Việt Nam, Mĩ phải công nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, rút quân về nước tạo thời cơ thuận lợi để nhân dân ta tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Bình luận (0)
Sooshi
Xem chi tiết
Minh Hồng
13 tháng 1 2022 lúc 10:03

Vì Xi-pay là tên gọi những đội quân người ấn độ đánh thuê cho đế quốc anh. Họ là những người nghèo khổ phải đi lính để kiếm sống .Họ đã nổi dậy chống lại anh nên gọi là khởi nghĩa Xi-pay

Bình luận (0)
Phạm Lê Quỳnh Nga
Xem chi tiết
Nguyễn Thị Thu Trang
18 tháng 3 2016 lúc 17:35

tóm tắt cuộc khởi nghĩa :

Hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị là con gái lạc tướng huyện Mê LinhMùa xuân năm 40 hai bà trưng dựng cờ khởi nghĩa ở Hát MônNghĩa quân khắp nơi kéo về hưởng ứng cuộc khởi nghĩanghĩa quân đánh bại kẻ thù làm chủ được Mê Linh, Cổ Loa, Luy Lâu.

lực lượng tham ra cuộc khởi nghĩa đông

Bình luận (5)
Hà Như Thuỷ
18 tháng 3 2016 lúc 17:51

Tóm tắt khởi nghĩa Hai Bà Trưng:

Khởi nghĩa Hai Bà Trưng nổ ra năm 40 – 43 chống ách đô hộ của nhà Hán.

Trưng Trắc, Trưng Nhị là hai con gái của Lạc tướng ở huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay, thuộc dòng dõi Hùng Vương. Tháng 3 năm 40 sau Công nguyên, Trưng Trắc cùng Trưng Nhị phát động khởi nghĩa ở cửa sông Hát trên sông Hồng, thuộc huyện Phúc Thọ, Hà Tây ngày nay. Dưới sự lãnh đạo của hai Bà, nhiều cuộc khởi nghĩa địa phương được thống nhất thành một phong trào rộng lớn, từ miền xuôi đến miền núi, bao gồm người Việt và các dân tộc khác trong nước Âu Lạc cũ. Trong hàng ngũ tướng lĩnh của nghĩa quân có rất nhiều phụ nữ.

Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng giành được thắng lợi, nền độc lập dân tộc được phục hồi. Trưng Trắc được suy tôn làn vua (Trưng Vương) đóng đô ở Mê Linh, giữ được quyền tự chủ trong 3 năm.

- nhận xét gì về lực lượng tham gia cuộc khởi nghĩa: Lực lượng tham gia khởi nghĩa đông đảo,trong đó phụ nữ đóng vai trò quan trọng,có 5 chủ tướng chỉ huy là nữ.

Bình luận (3)
Nguyễn Trọng Thắng
18 tháng 3 2016 lúc 20:42

Khởi nghĩa Hai Bà Trưng:

Khởi nghĩa  Hai Bà Trưng:

a) Nguyên nhân;

- Do chính sách thống trị tàn bạo của triều đại phong kiến phương Bắc.

- Chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách bị Tô Định giết chết.

b) Diễn biến;

- Mùa xuân năm 40 ( tháng 3 dương lịch ). Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa ở Hát Môn ( Hà Nội ), nghĩa quân nhanh chóng làm chủ Mê Linh rồi tìm hiểu Cổ Loa, Luy Lâu.

- Tô Định hốt hoảng bỏ thành lẻn trốn về Nam Hả, quân Hán ở các quận khác bị đánh tan.

c) Kết quả: 

- Cuộc khởi nghĩa dành thắng lợi. 


Lực lượng tham gia khởi nghĩa đông đảo, trong đó có phụ nữ đóng vai trò quan trọng. có chủ tướng chỉ huy là phụy nữ

Bình luận (2)
Ngọc Dương
Xem chi tiết
Thúy Hà
Xem chi tiết
Như Nguyễn
9 tháng 5 2016 lúc 16:13

Nhân dân ta kiên trì đấu tranh giành lại độc lập cho Tổ quốc, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa : cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng năm 40 ; cuộc khởi nghĩa Bà Triệu năm 248, cuộc khởi nghĩa Lý Bí năm 542 - 602, cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan đầu thế kỉ XIII, cuộc khởi nghĩa Phùng Hưng trong khoảng những năm 776 - 791, cuộc khởi nghĩa của Khúc Thừa Dụ giành quyền tự chủ năm 905, Ngô Quyền đánh tan quân xâm lược Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938, kết thúc thời Bắc thuộc, mở ra thời kì mới, thời kì độc lập dân tộc.

Bình luận (0)