Tìm hiểu về những thành thị trung đại còn tồn tại đến bây giờ
Tìm hiểu và cho biết một số dấu ấn tiêu biểu của thành thị trung đại (các thành phố cổ, trường đại học,…) còn được bảo tồn, giữ gìn và phát triển đến ngày nay.
_Một số dấu ấn tiêu biểu của thành thị trung đại còn được bảo tồn, giữ gìn và phát triển đến ngày nay là:
+Thành phố cổ: Besalu (Tây Ban Nha), Carcassonne (Pháp), Bamberg (Đức), Obidos Bồ Đào Nha), Bruges (Bỉ), York (Anh), San Gimignano (Italia), Regensburg (Đức)
+Đại học lâu đời còn đến ngày nay: Bôlôna ở Italia, đại học Oxfdt (Oxford), đại học Pari, đại học Salamanca ở Tây Ban Nha, đại học Oóclêăng ở Pháp, đại học Kembrit (Cambridge) ở Anh, đại học Palét Mơ (Palermo) ở Italia …
Một số dấu ấn tiêu biểu của thành thị trung đại còn được bảo tồn, giữ gìn và phát triển đến ngày nay là:
Thành phố cổ: Besalu (Tây Ban Nha), Carcassonne (Pháp), Bamberg (Đức), Obidos Bồ Đào Nha), Bruges (Bỉ), York (Anh), San Gimignano (Italia), Regensburg (Đức)
Đại học lâu đời còn đến ngày nay: Bôlôna ở Italia, đại học Oxfdt (Oxford), đại học Pari, đại học Salamanca ở Tây Ban Nha, đại học Oóclêăng ở Pháp, đại học Kembrit (Cambridge) ở Anh, đại học Palét Mơ (Palermo) ở Italia …
Em hãy tìm ra những mâu thuẫn tồn tại trong lãnh địa phong kiến và thành thị trung đại?
3. Tìm hiểu về sự xuất hiện các thành thị ở châu Âu thời trung đại
Đọc thông tin kết hợp quan sát hình ảnh hãy:
Trình bày nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện thành thị thời trung đại
Miêu tả khung cảnh thành thị ở châu Âu thời trung đại. Chỉ ra những điểm khác nhau về kinh tế và thành phần cư dân trong thành thị với các lãnh địa
Cho biết sự xuất hiện các thành thị trung đại có vai trò như thế nào?
1/ Em hãy so sánh sự khác nhau giữa thành thị và lãnh địa phong kiến:
Lãnh địa phong kiến Thành thị trung đại
Tổ chức:
Đặc điểm kinh tế.:
2/ Em hãy tìm ra những mâu thuẫn tồn tại trong lãnh địa phong kiến và thành thị trung đại?
Câu 1:
Lãnh địa phong kiến:
- Tổ chức: kinh tế, chính trị mang tính tự cung cấp (tùy thuộc vào số lượng lương thực thực phẩm làm ra tại lãnh địa của các lãnh chúa). Các tầng lớp gồm lãnh chúa và nông nô.
- Đặc điểm kinh tế: nền kinh tế đóng kín, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp và theo hệ tự cung tự cấp.
Thành thị trung đại:
- Tổ chức: phố xá nhà của,... nơi đâu cũng là trung tâm để trao đổi mua bán, bao gồm các tầng lớp thợ thủ công và thương nhân.
- Đặc điểm kinh tế: nền kinh tế hàng hóa.
Câu 2: Những mâu thuẫn:
Về cư dân:
- Lãnh địa phong kiến:
+ Cư dân: thưa thơt, chủ yếu là nông nô.
- Thành thị trung đại:
+ Cư dân: tập trung đông đúc, chủ yếu là thợ thủ công và thương nhân.
Về đặc điểm kinh tế:
- Lãnh địa phong kiến:
+ Đặc điểm kinh tế: tự cung, tự cấp, tự lo.
- Thành thị trung đại:
+ Đặc điểm kinh tế: tự cung, tự cấp, tự lo.
+ Đặc điểm kinh tế: trao đổi, buôn bán.
Các ngày nay khoảng 6 000 năm, thế giới chỉ có một vài thành phố với dân số không đến 100 000 người sinh sống. Điều đó quả là khác xa với hiện tại. Ở bài học này các em sẽ tìm hiểu về lịch sử đô thị thời kì cổ trung đại: những điều kiện địa lí - lịch sử nào đã góp phần vào sự hình thành, phát triển của các đô thị đó. Giữa đô thị và cácnền văn minh cổ đại có mối quan hệ ra sao? Giới thương nhân có vai trò gì trong sự phát triển của đô thị châu Âu trung đại?
* Mối liên hệ giữa các đô thị cổ đại với các nền văn minh ở khu vực
- Vai trò của các đô thị ở phương Đông cổ đại:
+ Là trung tâm hành chính, quân sự, đầu mối kinh tế, giao thông của các quốc gia cổ đại.
+ Các đô thị gắn liền với sự hưng thịnh và suy tàn của các nền văn minh đầu tiên ở phương Đông.
- Vai trò của các đô thị ở phương tây cổ đại:
+ Là trung tâm kinh tế, chính trị của nhà nước
+ Đặt nền tảng cho sự hình thành và phát triển của các nền văn minh
+ Không khí dân chủ tại các đô thị đã tạo điều kiện cho những sáng tạo văn hóa.
* Vai trò của giới thương nhân đối với các đô thị trung đại ở châu Âu:
+ Hoạt động của thương nhân và thương hội đã thúc đẩy kinh tế hàng hóa phát triển, làm tan rã dần nền kinh tế tự nhiên, đóng kín trong các lãnh địa.
+ Hoạt động đấu tranh chống lãnh chúa phong kiến của thương nhân đã góp phần quan trọng vào việc xóa bỏ chế độ phong kiến phân quyền, hình thành chế độ phong kiến tập quyền ở châu Âu.
+ Nhu cầu tìm hiểu tri thức và giải trí của thị dân, đặc biệt là của thương nhân đã thúc đẩy sự phát triển của văn hóa, khoa học – kĩ thuật tại các đô thị trung đại.
Tìm hiểu thêm từ sách, báo và internet, hãy viết bài giới thiệu (khoảng 7 – 10 câu) về một thành tựu văn hóa Đại Việt thời Trần còn được bảo tồn và phát huy giá trị đến ngày nay.
Tháp Phổ Minh - đặc trưng kiến trúc nhà Trần
Tháp Phổ Minh được xây dựng trên một địa thế tách biệt với xóm làng, vốn tĩnh mịch, thâm nghiêm. Do công trình này mà chùa Phổ Minh còn được gọi là chùa Tháp. Tháp Phổ Minh được xây dựng vào năm 1305, dưới thời vua Trần Anh Tông, tháp hình vuông, cao 19,5m, có 14 tầng, lên cao thu hẹp dần và kết thúc bằng một chỏm nhọn hình bầu rượu có nhiều cạnh. Mỗi đầu viên gạch có dòng chữ “Hưng - Long thập tam niên”(1305) và khắc họa con rồng nổi thời Trần. Kết cấu của tháp ở các tầng đá chủ yếu dựa vào các mộng và keo vữa kết dính. Sau này, một thương nhân giàu có đã bỏ tiền trát vữa lên các mặt tháp.Tháp Phổ Minh là một trong số ít công trình còn giữ được tương đối toàn vẹn từ thời Trần.Những thành tựu nào của Trung Hoa thời kì cổ - trung đại còn được bảo tồn và phát huy giá trị đến ngày nay?
Tham khảo
- Ngôn ngữ và chữ viết: Ngôn ngữ Hán và chữ Hán đã tồn tại trong hàng ngàn năm và vẫn được sử dụng rộng rãi ở Trung Quốc cũng như trong cộng đồng người Hoa trên khắp thế giới. Chữ Hán cũng ảnh hưởng đến viết và ngôn ngữ của nhiều quốc gia châu Á khác nhau.
- Tri thức và văn hóa cổ điển: Các tác phẩm văn học và triết học của thời kỳ cổ đại như "Tả Thanh Hi" (Thơ Tịch), "Dược Sư Thâm" (Đạo đức) và "Lão Tử" (Đạo Lão) vẫn được nghiên cứu và truyền đạt cho thế hệ sau. Các triết gia như Khổng tử, Lão Tử và Mạnh Tử đã để lại một di sản về tri thức và đạo đức quan trọng.
- Kiến trúc cổ điển: Những công trình kiến trúc cổ điển như Cố đô Xi'an với cửa đại thành và lăng mộ Hoàng đế Qin Shi Huang, Cité Interdite ở Bắc Kinh, và Đền thờ Ngọc Hoàng ở Thành Đô vẫn là điểm đến phổ biến cho du khách và đại diện cho nghệ thuật kiến trúc phương Đông.
- Nghệ thuật và thủ công mỹ nghệ: Trung Quốc có một lịch sử lâu đời trong việc sản xuất nghệ thuật và thủ công mỹ nghệ, bao gồm sứ, lụa, giấy cỏ, và thêu. Nhiều loại nghệ thuật truyền thống này vẫn được thực hiện và trưng bày rộng rãi.
- Truyền thống âm nhạc và opera: Trung Quốc có nhiều loại nhạc cụ truyền thống như guqin (cầm quyền), pipa (đàn tỳ bà), và erhu (đàn hồ). Ngoài ra, nền opera Trung Hoa có nhiều biến thể như Peking opera và Cantonese opera, vẫn còn được biểu diễn và coi là một phần quan trọng của văn hóa truyền thống.
- Truyền thống tôn giáo và tín ngưỡng: Đạo Phật và Đạo Khổng đã có sự ảnh hưởng lớn đối với văn hóa và tôn giáo của Trung Quốc. Các ngôi chùa, đền thờ và di tích tôn giáo vẫn được du khách và người dân địa phương thăm viếng và tôn vinh.
- Truyền thống nghiên cứu và y học: Trung Quốc có một lịch sử dài đối với nghiên cứu và y học truyền thống, bao gồm nghiên cứu về thảo dược, và các phương pháp điều trị như kim tiêm và bấm huyệt vẫn được sử dụng và nghiên cứu trong y học hiện đại.
Những thành tựu này là một phần quan trọng của di sản văn hóa và lịch sử của Trung Quốc và vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển đối với ngày nay.
Trung Quốc từ thời cổ đại đến thế kỉ VII đã sáng tạo ra những thành tựu văn hóa tiêu biểu. hãy kể tên những thành tựu văn hóa còn sử dụng hoặc bảo tồn đến ngày nay
- Kiểu chữ viết Hán
- Giấy, thuốc nổ, la bàn, kĩ thuật in
- Một số công trình lớn như Vạn Lý Trường Thành
TÌM những thành tựu nổi bật về văn hóa của cư dân phương Đông và Phương Tây còn tồn tại đến ngày nay .
NHANH MIK TICK CHO .
Lịch sử thế giới hay còn gọi là lịch sử loài người, bắt đầu từ thời đại đồ đá cũ. Khác với lịch sử Trái Đất (nó gồm cả lịch sử địa chất Trái Đất và lịch sử tiến hóa sự sống trước khi có sự xuất hiện của con người). Lịch sử thế giới được nghiên cứu qua khảo cổ học và các ghi chép, truyền miệng còn sót lại từ thuở xưa. Lịch sử cổ đại được lưu giữ lần đầu tiên qua các tài liệu lưu trữ[1][2]
Tuy nhiên gốc rễ của nền văn minh loài người trải rộng ra từ trước khi có sự xuất hiện của chữ viết.
Thời tiền sử mở đầu từ kỷ Paleolithic (hay thời đại đồ đá cũ), tiếp sau là kỷ Neolithic (hay thời đại đồ đá mới) và chuyển tiếp dân số thời đại đồ đá mới (Neolithic Revolution) (hay cuộc cách mạng nông nghiệp) (khoảng 8000 đến 5000 năm trước Công nguyên) tại vùng đồng bằng trăng lưỡi liềm (Fertile Crescent). Cuộc cách mạng nông nghiệp là mốc dấu thay đổi lịch sử loài người, con người bắt đầu tìm ra phương pháp làm nông nghiệp với những cây trồng trong tự nhiên và động vật thuần hóa từ hoang dã[3][4][5].
Sự tăng trưởng của nông nghiệp dẫn đến việc con người chuyển dần từ lối sống du mục sang định cư lâu dài. Lối sống du mục vẫn duy trì tại nhiều nơi khác, đặc biệt tại những vùng lãnh thổ bị tách biệt do tự nhiên với vài loài súc vật và thực vật.[6]
Nhu cầu liên kết tự vệ và sự gia tăng sản phẩm nông nghiệp đã cho phép các cộng đồng người mở rộng thành các đơn vị ngày càng lớn hơn, càng được thúc đẩy hơn bởi sự phát triển của giao thông vận tải.
Khi nông nghiệp phát triển, canh tác cây lương thực trở nên phức tạp hơn và thúc đẩy việc phân công lao động để tích trữ sản phẩm lương thực dư thừa giữa các mùa cây trồng sinh trưởng. Phân công lao động dẫn đến có nhiều thời gian nhàn hạ cho lớp người thượng lưu và sự phát triển của các thành phố. Xã hội ngày càng phức tạp của con người đòi hỏi phải có hệ thống chữ viết và kế toán[7].
Nhiều thành phố phát triển cạnh hồ và sông. Khoảng đầu năm 3000 TCN, có những điểm nổi bật đầu tiên, các khu định cư ở vùng đồng bằng Lưỡng Hà (Mesopotamia)[8], vùng bờ sông Nin [9][10][11] và thung lũng sông Indus mọc lên và phát triển mạnh mẽ. Nền văn minh tương tự có lẽ cũng phát triển dọc các sông chính tại Trung Quốc nhưng thiếu bằng chứng khảo cổ học thuyết phục về khu vực xây dựng đô thị.
Lịch sử của cựu thế giới (đặc biệt ở châu Âu và vùng Địa Trung Hải) thông thường chia thành lịch sử cổ đại (Antiquity), đến năm 476 CE; Trung Cổ[12][13] từ thế kỷ thứ 5 đến thế kỷ 15, gồm thời đại hoàng kim của đạo Hồi (750 CE- 1258 CE) và giai đoạn đầu thời kỳ Phục Hưng (bắt đầu từ khoảng 1300 CE)[14][15]; thời kỳ cận đại[16] (từ TK 15 đến cuối TK 18), bao gồm Thời kỳ khai sáng (Age of Enlightenment); và thời kỳ hiện đại, từ cuộc cách mạng công nghiệp đến hiện tại, gồm cả lịch sử đương đại.
Văn minh Tây Á[17][18][19], Hy Lạp cổ đại, La Mã cổ đại là những văn minh nổi bật trong thời kỳ cổ đại.
Trong lịch sử của nền văn minh Tây Âu, sự sụp đổ của đế quốc Tây La Mã dưới thời trị vì của hoàng đế Romulus Augustulus năm 476 do sự tấn công của các bộ tộc German, nó được coi là mốc đánh dấu kết thúc thời kỳ cổ đại và là khởi đầu của thời kỳ Trung Cổ. Trong khi đó vùng Đông Âu trải qua sự chuyển tiếp từ đế quốc La Mã sang đế quốc Byzantine, đế chế này còn tồn tại vài thế kỷ mới suy tàn.
Vào khoảng giữa thế kỷ 15, Johannes Gutenberg phát minh ra máy in ấn hiện đại [20], sử dụng đầu mô di động (Movable type) làm nên cuộc cách mạng về truyền tin, là nhân tố kết thúc thời kỳ Trung Cổ, báo hiệu sự khởi đầu của cuộc cách mạng khoa học[21]. Đến thế kỷ 18, sự tích lũy tri thức và công nghệ, đặc biệt là ở châu Âu, đã đạt đến khối lượng tới hạn (Crial mass) dẫn đến cuộc cách mạng công nghiệp[22].
Lịch sử châu Âu mô tả những sự kiện của con người đã diễn ra trên lục địa châu Âu. Từ thời tiền sử tới thời hiện đại. Châu Âu có một lịch sử dài, nhiều biến động và đậm nét văn hóa.
Lịch sử châu Âu thời tiền sử bắt đầu với công cuộc định cư của người vượn đứng thẳng, giống Neanderthal, và loài người hiện đại. Vào thời kỳ cổ đại, nền văn minh Cổ Hy Lạp nở rộ ở châu Âu, mở đầu với hai nền văn minh Minos và Mycenae, và phát triển hoàng kim từ thế kỷ thứ 8 trước Công Nguyên, với chiến thắng của nhân dân Hy Lạp trước các cuộc xâm lược của Đế quốc Ba Tư, trong thời này thị quốc Athena giàu mạnh đã có nền dân chủ[1], cho đến khi một nước Hy hóa lân cận là Macedonia làm bá chủ Hy Lạp. Với vua Alexandros Đại Đế, người Macedonia đã mở mang nền văn minh Hy Lạp đến tận Á châu, mở ra thời kỳ Hy Lạp hóa.[2] Sau đó, vào năm 31 trước Công Nguyên, Hoàng đế Augustus sau khi chiến thắng Vương triều Hy hóa của Ai Cập, đã lập nên Đế quốc La Mã.[3] với cương thổ rộng lớn trải dọc từ Thổ Nhĩ Kỳ tới Tây Ban Nha, từ Bắc Phi tới Scotland. Sự bành trướng của đế chế La Mã đặt nền tảng cho sự ra đời của hàng loạt đế chế mà chưa bao giờ được thấy trước đó ở châu Âu. Sau sự thoái trào của Đế quốc Tây La Mã vào năm 476, lịch sử châu Âu bước vào thời kỳ đen tối, đánh dấu bằng sự tàn tạ trong giáo dục, trong tổ chức xã hội và bởi những sự xâu xé của rất nhiều quân xâm lược man di, đặc biệt là người Viking, Avar, Magyar và người Ả Rập.
Châu Âu năm 814.
Giai đoạn Trung Cổ được đánh dấu bằng sự tái thiết xã hội có tổ chức, chủ yếu là theo chế độ phong kiến, và sự thống trị ở phương Bắc của Giáo hội Công giáo Rôma. Ở phía đông, Đế quốc Đông La Mã hưng thịnh, với các Hoàng đế tài ba như Heraclius, là một chiến tướng kiệt xuất đánh bại quân Ba Tư vào thập niên 620. Song, chính ngay từ thời điểm này người Ả Rập Hồi giáo càn quét châu Âu và không ít khi đánh thắng Heraclius, dù rằng người Đông La Mã vẫn mạnh lên dưới triều Hoàng đế Basil II, và trong trận Tours (732), Vương quốc Frank (người German) đã đánh tan tác quân Ả Rập.[4] Vào năm 800, sau khi đã bành trướng nước Frank cường thịnh, chinh phạt các tộc German khác, vua Karl Đại đế được Giáo hoàng Lêô III phong làm Hoàng đế Công giáo ở phương Tây đối trọng với Đông La Mã. Tuy Đế quốc tan rã sau khi Karl Đại Đế mất, Vương quốc Đông Frank - nước Đức - dưới các triều vua Heinrich der Finkler và Otto Đại đế đã lớn mạnh, đánh tan tành quân Magyar điều này dẫn đến việc Otto Đại Đế lên làm Hoàng đế của Đế quốc La Mã Thần thánh.[5] Trước sức mạnh của đạo Hồi, các cuộc Thập tự chinh bùng nổ, và cuối cùng Đế quốc Ottoman của người Thổ Nhĩ Kỳ hưng thịnh lên và chinh phạt kinh thành Constantinopolis vào năm 1453, làm cho Đế quốc Đông La Mã diệt vong.[6] Trong khi đó, Anh Quốc kể từ đời vua Edward III đánh nhau với Pháp trong suốt cuộc Chiến tranh Trăm Năm tàn khốc.[7] Thời Trung Cổ được tiếp nối bởi công cuộc Phục hưng, một sự tái khám phá giá trị và tri thức cổ điển, với sự hồi sinh của hai nền văn hóa Hy Lạp cổ,[8] và làm bàn đạp cho phong trào Cải cách Kháng Cách, một phong trào tôn giáo và chính trị đã chứng kiến phần lớn Bắc Âu từ bỏ Giáo hội Công giáo Rôma đồng thời tái xác định văn hóa cũng như các khối liên minh ở khắp lục địa, trào lưu tôn giáo này mở đầu với nhà thần học Martin Luther người Đức khi ông lên án hệ thống Giáo hội Công giáo Rôma vào năm 1517. Ông kiên quyết bảo vệ luận điểm của mình,[9] Thời kỳ này cũng chính là nền tảng cho sự phát triển của bành trướng thuộc địa, củng cố sức mạnh ở các quốc gia thuộc Đại Tây Dươngcủa Anh Quốc, Pháp, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đồng thời mở rộng tầm ảnh hưởng của châu Âu tới châu Mỹ, châu Phi, Ấn Độ và phương Đông. Thời kỳ này là bước ngoặt cho cuộc cách mạng công nghiệp và một thời kỳ tri thức được gọi là trào lưu Khai sáng.
Nửa cuối thế kỷ 17 chứng kiến Vương quốc Pháp của vua Louis XIV vươn lên thành liệt cường quân sự hùng mạnh, với dã tâm xâm phãm các nước láng giềng, song ông ta bị vua William III nước Anh chặn đứng.[10]Song vào thế kỷ 18, ảnh hưởng của cả Anh Quốc và Pháp tại châu Âu suy sụp dần đi, và các Vương triều Đông Âu vươn lên thành các liệt cường.[11] Với vị Hoàng đế hùng mạnh Pyotr Đại Đế, Đế quốc Nga - nước rộng lớn nhất của Âu châu - đánh thắng Vương quốc Thụy Điển, và lên làm bá chủ của miền Bắc Âu. Bên cạnh đó, Vương quốc Phổ - một quốc gia bé nhỏ khi đó - cũng phát triển cường thịnh, với vị Quốc vương lỗi lạc Friedrich II Đại Đế, nhiều trận thắng của ông trước liên quân hùng hậu Áo - Nga - Pháp - Thụy Điển đã trở thành kinh điển, làm nước Phổ trở nên phi thường trong mắt người Âu.[12][13] Ngay từ thế kỷ 17, rất nhiều các quốc gia ở châu Âu thực hiện hàng loạt những cuộc cách mạng, trong đó nổi bật nhất là cách mạng Pháp, cuộc cách mạng mở đầu cho hàng loạt cuộc chinh phạt của Napoléon Bonaparte. Việc phá hủy các quốc gia đang tồn tại của Napoléon Bonaparte và sau đó tái tổ chức châu Âu với hội nghị Viên đã tiếp sức cho chủ nghĩa dân tộc đang phát triển, dẫn đến sự ra đời của đế quốc Áo-Hung sau đó, sự thống nhất của nước Đức, sự thống nhất của Ý và những căng thẳng tại vùng Balkan, cũng như những cải cách mạnh mẽ trong đế quốc Nga. Rồi Anh và Pháp, phần nào đó là Đế quốc Ottoman, những quốc gia được biết đến là cường quốc. Các căng thẳng không giải quyết được tại Balkan, và một hệ thống những khối đồng minh được gọi là Đồng minh ba nước (1882) và khối đồng minh ba nước chính là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, bản thân nó cũng mở đường cho cách mạng Nga và chỉ kết thúc với sự tham gia của Hoa Kỳ. Hiệp ước đình chiến đã để lại cho Đức gánh nặng bồi thường thiệt hại, gánh nặng này, kết hợp với Đại suy thoái (Great Depression), đã tạo điều kiện để đảng Phát xít của Adolf Hitler cầm quyền, mở đầu cho sự ra đời của Đệ tam Quốc xã cũng như sự xuất hiện của những đảng Phát Xít tại Tây Ban Nha (xem Nội chiến Tây Ban Nha) và Ý. Cuộc xâm chiếm Ba Lan, Bỉ và Pháp của Hitler là tín hiệu cho sự khởi đầu của Chiến tranh thế giới lần thứ hai.
Chiến thắng của Phe Đồng Minh tại châu Âu và sự đầu hàng của Nhật Bản đã chứng kiến việc quyền lực tại Trung Âu được chia sẻ giữa Liên bang Xô Viết, Anh Quốc, Hoa Kỳ và Pháp. Tuy nhiên, điều này nhanh chóng dẫn đến sự hình thành các khối Đông-Tây trong Chiến tranh Lạnh khi mà khối Warszawa do Liên Xô đứng đầu đối mặt với khối NATO do Mỹ cầm đầu và được ngăn cách qua cái gọi là Bức màn sắt, biểu tượng tiêu biểu là Bức tường Berlin. Tây Âu sau đó trải qua giai đoạn phát triển kinh tế ổn định và mạnh mẽ, thành lập ra Cộng đồng Kinh tế châu Âu và sau đó là Liên minh châu Âu. Trong khi đó, khối Warszawa tụt hậu, sau cùng dẫn đến cuộc cải tổ Nga, khối Warszawa tan vỡ và bức tường Berlin sụp đổ. Sau chiến tranh lạnh ở châu Âu thì sự kiện chính nổi lên là cuộc chiến sắc tộc tại Balkan, nổi bật tại Serbia, Bosnia và Kosovo, cùng với sự can thiệp của NATO sau đó. Từ sự kiện 11 tháng 9, chính sách đối ngoại của NATO bị gia tăng sự chi phối do phản ứng của nó với thế giới Hồi giáo, và nổi bật hơn cả là những quan điểm mâu thuận về cuộc chiến ở Iraq, trong khi đó thì liên minh châu Âu cũng kết nạp thêm phần lớn những thành viên của khối Warszawa cũ cũng như các quốc gia vùng Bal.
Trình bày một số thành tựu về văn hoá của Hy Lạp và La Mã cổ đại ( Văn học, chữ viết , khoa học ) thành tựu nào còn tồn tại đến ngày nay
Bạn có thể tìm hiểu chi tiết ở đường link này nhé :
https://hoatieu.vn/hoc-tap/mot-so-thanh-tuu-van-hoa-tieu-bieu-cua-hy-lap-va-la-ma-co-dai-210258#:~:text=M%E1%BB%99t%20s%E1%BB%91%20t%C3%A1c%20gi%E1%BA%A3%20ti%C3%AAu,ut%20v%E1%BB%9Bi%20b%E1%BB%99%20Th%C3%B4ng%20s%E1%BB%AD
Những thành tựu văn hóa của Hy Lạp và La Mã cổ đại còn được bảo tồn đến ngày nay: – Con người vẫn sử dụng dương lịch để tính ngày. – Sử dụng hệ thống chữ cái và chữ số La Mã – Áp dụng các định lí như ta-lét, Pi-ta-go, Ơ-clit, Ác-si-mét,....
tui chỉ liệt kê vài cái thôi