Những câu hỏi liên quan
Lê Vy
Xem chi tiết
Smile
3 tháng 4 2021 lúc 19:20

Đường lối ngoại giao của Vua Quang Trung:

- Đối với nhà Thanh: Mềm dẻo nhưng cương quyết bảo vệ từng tấc đất của Tổ quốc.

- Đối với Lê Duy Chỉ ở phía Bắc, Nguyễn Ánh ở phía Nam: kiên quyết tiến quân, tiêu diệt hoàn toàn.

* Ý nghĩa:

- Tránh tình trạng nội chiến, chia cắt đất nước.

- Bảo vệ được toàn vẹn lãnh thổ, độc lập dân tộc, tạo hòa hiếu láng giềng với nhà Thanh.

- Thể hiện sức mạnh của đất nước Đại Việt thời đó.

Bình luận (0)
🙂T😃r😄a😆n😂g🤣
3 tháng 4 2021 lúc 19:22

* Đường lối ngoại giao của Vua Quang Trung:

- Đối với nhà Thanh: Mềm dẻo nhưng cương quyết bảo vệ từng tấc đất của Tổ quốc.

- Đối với Lê Duy Chỉ ở phía Bắc, Nguyễn Ánh ở phía Nam: kiên quyết tiến quân, tiêu diệt hoàn toàn.

* Ý nghĩa:

- Tránh tình trạng nội chiến, chia cắt đất nước.

- Bảo vệ được toàn vẹn lãnh thổ, độc lập dân tộc, tạo hòa hiếu láng giềng với nhà Thanh.

- Thể hiện sức mạnh của đất nước Đại Việt thời đó.

 

Bình luận (0)
Lê Vy
Xem chi tiết
datfsss
3 tháng 4 2021 lúc 18:56

- Tránh tình trạng nội chiến, chia cắt đất nước. - Bảo vệ được toàn vẹn lãnh thổ, độc lập dân tộc, tạo hòa hiếu láng giềng với nhà Thanh. - Thể hiện sức mạnh của đất nước Đại Việt thời đó.

Bình luận (2)
Lê Vy
3 tháng 4 2021 lúc 19:01

Liên hệ đến chính sách đối ngoại của nhà nước ta hiện nay? mn tl giúp e vs ạ , cho e thanks mn trc ạ

 

 

Bình luận (0)
Tôi đang bị đớ....
Xem chi tiết
Tôi đang bị đớ....
4 tháng 5 2022 lúc 11:21

Help

mik sẽ tick cho những ai nhanh nhất

Bình luận (0)
Chuu
4 tháng 5 2022 lúc 11:21

Tham khảo:

Câu 3

+ Mềm dẻo, khéo léo nhưng kiên quyết bảo vệ từng tấc đất của Tổ quốc.

+ Buộc nhà Thanh phải công nhận nước ta là 1 quốc gia độc lập có chủ quyền.

Câu 4

Biện pháp:

-Đặt ra điều lệ mọi người đều phải tham gia đắp đê chống lũ, đê được đắp suốt từ đầu nguồn các con sông lớn đến cửa biển.

-Hằng năm, khi có lũ lụt, tất cả mọi người đều phải tham gia bảo vệ đê điều.

Kết quả:

-Hệ thống đê đã hình thành dọc theo sông Hồng và các con sông lớn khác.

-Hệ thống đê điều này đã góp phần làm giảm lũ lụt, giúp cho nông nghiệp phát triển, đời sống nhân dân được no ấm.

Bình luận (0)
nam...
4 tháng 5 2022 lúc 18:25

ngừi đăng câu hỏi cho thêm từ ko tk nx thì ...

Bình luận (3)
Khoa Holly
Xem chi tiết
Nguyễn Thị Hoài An
27 tháng 7 2016 lúc 17:22

c5:

Có hai giai cấp chính : giai cấp thống trị và giai cấp bị trị với các tầng lớp quý tộc, địa chủ tư hữu (giai cấp thống trị), nông dân, thợ thủ công, thương nhân, nô tì. 
 

Bình luận (0)
Nguyễn Thị Hoài An
27 tháng 7 2016 lúc 17:26

c4:

Vì theo lược đồ đoạn sông rạch gầm xoài mút có nhiều cồn, cù lao, có nhiều cây cối kín đáo để dấu quân phục kích dành thế chủ động, bất ngờ tấn công tiêu diệt quân giặc
 

Bình luận (0)
Nguyễn Thị Hoài An
27 tháng 7 2016 lúc 17:28

c3: 

Chính sách ngụ binh ư nông của nhà Lý là trai tráng phải ra nhập quân đội và tham gia tập luyện để chống lại sự xâm lăng của ngoại bang, nhưng khi không có chiến tranh thì những người lính này lại tham gia sản xuất ra của cải vật chất như những người nông dân ! ( Ngụ binh: Ở trong quân ngũ, ư nông: tham gia công việc như nhà nông )  
Bình luận (0)
Nguyễn Hồng Ngọc
Xem chi tiết
Nguyễn Hà Chi
2 tháng 5 2021 lúc 8:25

Câu 1 :

Nguyên nhân thắng lợi:

+ Nhờ ý chí đấu tranh chống áp bức bóc lột, tinh thần yêu nước, đoàn kết và hi sinh cao cả của nhân dân ta.

+ Sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Quang Trung và bộ chỉ huy nghĩa quân. Quang Trung là anh hùng dân tộc vĩ đại.

- Ý nghĩa lịch sử:

+ Thắng lợi của phong trào Tây Sơn trong việc lật đổ chính quyền phong kiến thối nát Nguyễn - Trịnh - Lê đã xoá bỏ ranh giới chia cắt đất nước, đặt nền tảng cho việc thống nhất quốc gia.

+ Thắng lợi của phong trào Tây Sơn trong việc chống quân xâm lược Xiêm và Thanh có ý nghĩa lịch sử to lớn: giải phóng đất nước, giữ vững nền độc lập của Tổ quốc, một lần nữa đập tan tham vọng xâm lược nước ta của các đế chế quân chủ phương Bắc.

Quang Trung có vai trò rất quan trọng trong cuộc chiến:

-Thống nhất đất nước, xóa bỏ ranh giới đất nước.

-Bảo vệ nền độc lập dân tộc.

-Lật đổ các chính quyền phong kiến Lê-Trịnh-Nguyễn.

-Đuổi tan các quân xâm lược Xiêm-Thanh.

-Có nhiều chính sách để xây dựng nền kinh tế đất nước. Giữ gìn nền văn hóa độc lập dân tộc.

-Chính sách ngoại giao mềm dẻo. Chính sách quốc phồm đúng đắn.

-Đẩy mạnh tình hình chính trị, xã hội, văn hó, giáo dục,....

-> Vua Quang Trung đã góp nhiều công lao to lớn để xây dựng và giữ gìn đất nước.

Câu 2 :

* Chính trị, quân sự:

- Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi, lập ra triều Nguyễn, củng cố nhà nước quân chủ tập quyền. Nhà vua trực tiếp điều hành mọi việc hệ trọng trong nước, từ trung ương đến địa phương.

- Năm 1815, ban hành bộ luật Hoàng triều luật lệ (luật Gia Long). Đứng đầu mỗi tỉnh lớn là chức tổng đốc, còn các tỉnh nhỏ là chức tuần phủ.

- Chia cả nước làm 30 tỉnh và 1 phủ trực thuộc (Thừa Thiên).

- Xây dựng quân đội gồm nhiều binh chủng, ở kinh đô và các trấn, tỉnh đều xây dựng thành trì vững chắc. Xây dựng hệ thống trạm ngựa trong cả nước để kịp thời chuyển tin tức.

* Đối ngoại:

- Đối với nhà Thanh, các vua Nguyễn thuần phục, nhiều chính sách của nhà Thanh được vua Nguyễn lấy làm mẫu mực trị nước.

- Đối với các nước phương Tây, nhà Nguyễn khước từ mọi tiếp xúc.

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa
Hồ Việt Hà
Xem chi tiết
Hochocnuahocmai
31 tháng 5 2016 lúc 8:38

a. Đường lối ngoại giao của Vua Quang Trung:
- Đối với Lê Duy Chỉ ở phía Bắc, Nguyễn Ánh ở Gia Định: Kiên quyết tiến quân đánh dẹp (tiêu diệt)
- Đối với nhà Thanh: Mềm dẻo nhưng cương quyết bảo vệ từng tấc đất của Tổ quốc
b. Ý nghĩa chính sách ngoại giao:
- Tránh cho đất nước bị chia cắt, chiến tranh.
- Bảo vệ được toàn vẹn lãnh thổ dân tộc, tạo sự hòa hiếu láng giềng với nhà Thanh


 

Bình luận (5)
Quốc Đạt
31 tháng 5 2016 lúc 8:39

Câu trả lời hay nhất: Nước Đại Việt dưới triều đại Tây Sơn, có quan hệ ngoại giao với các nước Xiêm La và Trung Quốc ở triều Mãn Thanh. 

Nguyễn Huệ - tức vua Quang Trung - là một nhà cầm quân thành công trong lịch sử Việt Nam. Không những thế, ông cũng là vị vua giỏi về mặt ngoại giao. Đường lối chính Trị của vua Quang Trung đã được thể hiện một cách sinh động trên những văn từ giao thiệp với nhà Thanh, của những người dưới quyền ông, như: Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Vũ Văn Dũng, Vũ Huy Tấn... 

Đại Việt là một nước nhỏ giáp với những nước láng giềng quy mô, trình độ phát triển khác nhau, từ đế chế Trung Hoa hùng mạnh và bành trướng đến những nước nhỏ nhưng cũng có tham vọng bành trướng. Trong bối cảnh địa lý chính trị như thế, Đại Việt đã tự vạch cho mình một đường lối đối ngoại thích hợp được thực tế kiểm chứng để tồn tại và phát triển

Đường lối đối ngoại nhất quán của Đại Việt là giữ vững độc lập, chủ quyền, sống hoà mục với các nước, trước hết là các nước láng giềng, góp phần bảo vệ an ninh khu vực.

Bình luận (2)
Nguyễn Hữu Anh Tú
16 tháng 4 2018 lúc 16:17

Đường lối đối ngoại nhất quán của Đại Việt là giữ vững độc lập, chủ quyền, sống hoà mục với các nước, trước hết là các nước láng giềng, góp phần bảo vệ an ninh khu vực.

Bình luận (0)
Anh Thư
Xem chi tiết
Bé Vịt
4 tháng 4 2021 lúc 22:04

* Về chính trị
  - Năm 1028, Nguyễn Ánh lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Gia Long, chọn Phú Xuân làm kinh đô, lập ra triều Nguyễn; năm 1806 -> lên ngôi hoàng đế
  - Nhà Nguyễn lập lại chế độ phong kiến tập quyền: Vua trực tiếp điều hành mọi vc từ trung ương đến địa phương; ban hành bộ Hoàng triều luật lệ (luật Gia Long) năm 1815
  - Năm 1831-1832, nhà Nguyễn chia cả nước thành 30 tỉnh và 1 phủ trực thuộc (Thừa Thiên); quân đội bao gồm nhiều binh chủng, xây thành trì và thiết lập hệ thống trạm ngựa dọc theo chiều dài đất nc
  - Về ngoại thương: nói chung nhà nc hạn chế buôn bán vs nước ngoài
  - Về ngoại giao:
   + Các vua Nguyễn thán phục nhà Thanh. Nhiều chính sách của nhà Thanh đc vua Nguyễn lấy làm mẫu mực trị nước
   + Đối vs phương tây: nhà Nguyễn khước từ mọi tiếp xúc "bế quan, hỏa cảng". Điều đó, càng thúc đẩy việc Pháp chuẩn bị xâm lượn nước ta.

 Chúc bn học tốt nha :>

Bình luận (0)
Nguyễn Ngọc Bảo
Xem chi tiết
Nguyễn Tâm Như
8 tháng 5 2016 lúc 21:08

 - Về chính trị: 
+ Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua, đặt Niên hiệu là Gia Long, chọn Phú Xuân làm kinh đô, lập ra triều Nguyễn ; năm l806, lên ngôi Hoàng đế. 
+ Nhà Nguyễn lập lại chế độ phong kiến tập quyền : vua trực tiếp điều hành mọi việc từ trung ương đến địa phương ; ban hành bộ Hoàng triều luật lệ (Luật Gia Long) năm l8l5. 
- Các năm 183l- l832, nhà Nguyễn chia cả nước thành 30 tỉnh và một phủ trực thuộc (Thừa Thiên) ; quân đội bao gồm nhiều binh chủng, xây thành trì và thiết lập hệ thống trạm ngựa dọc theo chiều dài đất nước. 
- Về ngoại thương, nói chung nhà nước hạn chế buôn bán với nước ngoài. 
- Về ngoại giao: 
+ Các vua Nguyễn thán phục nhà Thanh. Nhiều chính sách của nhà Thanh được vua Nguyễn lấy làm mẫu mực trị nước. 
+ Đối với phương Tây: nhà Nguyễn khước từ mọi tiếp xúc 'bế quan, tỏa cảng". Điều đó, càng thúc đẩy việc Pháp chuẩn bị xâm lược nước ta.

Bình luận (1)
Nguyễn Quý Thành
6 tháng 4 2022 lúc 20:39

* Chính trị, quân sự:

- Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi, lập ra triều Nguyễn, củng cố nhà nước quân chủ tập quyền. Nhà vua trực tiếp điều hành mọi việc hệ trọng trong nước, từ trung ương đến địa phương.

- Năm 1815, ban hành bộ luật Hoàng triều luật lệ (luật Gia Long). Đứng đầu mỗi tỉnh lớn là chức tổng đốc, còn các tỉnh nhỏ là chức tuần phủ.

- Chia cả nước làm 30 tỉnh và 1 phủ trực thuộc (Thừa Thiên).

- Xây dựng quân đội gồm nhiều binh chủng, ở kinh đô và các trấn, tỉnh đều xây dựng thành trì vững chắc. Xây dựng hệ thống trạm ngựa trong cả nước để kịp thời chuyển tin tức.

* Đối ngoại:

- Đối với nhà Thanh, các vua Nguyễn thuần phục, nhiều chính sách của nhà Thanh được vua Nguyễn lấy làm mẫu mực trị nước.

- Đối với các nước phương Tây, nhà Nguyễn khước từ mọi tiếp xúc.

* Kinh tế:

- Nông nghiệp: Các vua Nguyễn rất chú ý đến việc khai hoang, thực hiện các biện pháp di dân lập ấp và lập đồn điền ở các tỉnh phía Bắc và phía Nam.

- Thủ công nghiệp: Nhà Nguyễn lập nhiều xưởng đúc tiền, đúc súng, đóng tàu ở kinh đô Huế, Hà Nội, Gia Định,… Thợ giỏi các địa phương được tập trung về sản xuất trong các xưởng của nhà nước.

- Thương nghiệp:

+ Các vua Nguyễn nhiều lần phái quan sang Trung Quốc, Xin-ga-po, Phi-lip-pin, Xiêm, In-đô-nê-xi-a bán gạo, đường, các lâm sản,… và mua về len dạ, đồ sứ, vũ khí,…

+ Đối với các nước phương Tây (Anh, Pháp, Mĩ) nhà Nguyễn không cho mở cửa hàng mà chỉ được ra vào một số cảng đã quy định.

* Xã hội:

- Đặt ra nhiều thứ thuế, quan lại tham nhũng, địa chủ, cương hào hoành hành, làm cho đời sống của nhân dân cực khổ.

- Tiến hành đàn áp các cuộc khởi nghĩa nông dân.


 

Bình luận (0)
Văn Toàn
Xem chi tiết
Cao Hoàng Minh Nguyệt
21 tháng 6 2016 lúc 11:25

Em ms lp 7 =_=

Bình luận (1)
Đỗ Nguyễn Như Bình
21 tháng 6 2016 lúc 17:58

em mới lớp 6 thui sorry 

Bình luận (3)
vũ tiến đạt
22 tháng 10 2017 lúc 15:33

Hầu hết các quan điểm đó đều bám lấy chiều hướng dài hạn trong chính sách đối ngoại của Mỹ, và nhiều trong số đó vẫn được Tổng thống Barack Obama thực hiện. Cho dù vị trí của nó có nằm ở đâu, thì cũng đã đến lúc nên đặt thời kỳ này trong một bối cảnh nhất định và đánh giá nó càng thận trọng càng tốt. Trước và sau 11-9 Trước ngày 11-9, chính quyền Bush tập trung chính sách đối ngoại của mình vào Trung Quốc và Nga; vào việc quyết định liệu việc giải quyết vấn đề hòa bình ở Trung Đông có thể thực hiện được; hay tập trung vào hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo; và xem xét cách thức quan hệ với các quốc gia “cứng đầu” như Iran, Iraq, Libya và Triều Tiên. Trong nhiều cuộc họp của Hội đồng Bảo an LHQ, các quan chức đã tranh cãi về cái thuận và không thuận khi áp đặt lệnh cấm vận mới lên chính quyền “độc tài” Saddam Hussein ở Baghdad; đồng thời thảo luận về những vấn đề tiếp theo nếu máy bay Mỹ thực hiện vùng cấm bay trên vùng trời Iraq. Tuy nhiên số ít những vấn đề đó nhận được sự ủng hộ. Các quan chức cấp cao không coi chủ nghĩa khủng bố hay chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan là ưu tiên hàng đầu. Richard Clarke, trưởng nhóm chuyên gia chống khủng bố của HĐBA đã lên tiếng mạnh mẽ trước mối nguy cơ này, Giám đốc CIA Director George Tenet cũng đã nâng mức báo động đỏ. Tuy nhiên Ngoại trưởng Mỹ Colin Powell, Bộ trưởng Quốc phòng Donald Rumsfeld và Cố vấn an ninh quốc gia Condoleezza Rice đã không thực sự quan tâm. Và ngay cả Tổng thống Mỹ Bush cũng vậy. Vào tháng 8-2001, ông Bush về nghỉ mát ở trang trại. Osama Bin laden chẳng phải là mối bận tâm lớn của Bush. Bush, Cheney và Rumsfeld thì cũng không tự nghĩ ra được cuộc chiến phủ đầu và đánh chặn, bởi chính sách đối ngoại của Mỹ được hình thành trong một thời gian dài lịch sử. Các chuyên gia cố vấn chính sách đối ngoại và quốc phòng của Bush đã cố xác định một khuôn khổ chiến lược và buộc quân đội Mỹ phải thích ứng vào cái gọi là “cách mạng” trong lĩnh vực quân đội. Tổng thống Mỹ lúc đó cũng nói nhiều về vấn đề tự do hóa thương mại và tái cơ cấu viện trợ nước ngoài của Mỹ. Trong suốt chiến dịch tranh cử, ông ta nói về một chính sách đối ngoại không nổi trội và việc thiết lập một hệ thống quốc phòng hùng mạnh, thậm chí cả cách thức mà ông dự tính hài hòa các mục tiêu vẫn còn không rõ ràng. Sự thật là, trọng tâm của ông Bush ở khắp nơi, ở trong nước, là vấn đề giảm thuế, cải cách giáo dục, chính sách năng lượng, và đột nhiên tai họa ập đến. Đáp lại các vụ tấn công ngày 11-9, chính quyền Bush đã tiến hành ngay một “cuộc chiến toàn cầu chống khủng bố”. Cuộc chiến không chỉ nhắm đến lực lượng Al Qaeda mà còn tập trung vào nguy cơ khủng bố toàn cầu nói chung. Cuộc chiến không chỉ hướng mục tiêu đến các chủ thể phi quốc gia nguy hiểm mà còn là các chế độ có ý định nuôi dưỡng hoặc viện trợ cho chúng. Để lấy được những thông tin có thể làm bằng chứng, Mỹ đã tìm cách giam cầm, buộc đầu hàng và trong một số trường hợp đã tra tấn tù binh. Chính quyền Bush đã loan tin về việc áp dụng một chính sách dự liệu tự phòng vệ - nói cách khác, đó là chiến tranh đánh đòn phủ đầu. Bush đã tuyên bố rằng ông ta sẽ thực hiện hành động cần thiết nhằm ngăn chặn không chỉ các nguy cơ sắp xảy đến mà còn tập hợp các nguy cơ đó, và sẽ hành động một mình nếu thấy cần thiết. Bush đã nhấn mạnh đến vấn đề dân chủ hóa và việc ghi nhận một nền hòa bình dân chủ. Những hành động này đã trở thành những thành tố cơ bản trong học thuyết Bush, đặc biệt sau khi Mỹ không thể tìm thấy vũ khí hủy diệt hàng loạt ở Iraq. Bush nói rằng “Các sự kiện và nhận thức chung đã đưa chúng ta đến kết luận cuối cùng”, và “Sự tồn tại của tự do ở Mỹ phụ thuộc vào thành tựu tự do ở các vùng đất khác”. Ba năm sau đó, khi chuẩn bị rời nhiệm sở, bà Rice đã giới thiệu vị trí của mình thông qua việc phát biểu rằng bà ta và đồng nghiệp đã nhận ra “việc xây dựng các quốc gia dân chủ là một trong những yếu tố cấp bách hợp thành lợi ích của Mỹ”. Sau ngày 11-9, Mỹ đã gia tăng xây dựng lực lượng quân sự và tình báo. Chi phí quốc phòng của nước này đã tăng một cách chóng mặt, các sáng kiến phản kích ngày càng mở rộng, các căn cứ mới được xây dựng từ Trung Á đến Tây Nam Á, thiết lập chỉ huy quân sự mới ở châu Phi. Cuộc chiến chống khủng bố trở thành mối bận tâm trong chính sách an ninh quốc gia của chính quyền Bush. Bên cạnh chính sách an ninh của mình, chính quyền Bush vẫn ấp ủ các thị trường tự do, tự do hóa thương mại và phát triển kinh tế. Mỹ đã tái cơ cấu và gia tăng cam kết viện trợ nước ngoài, tăng cường hỗ trợ kinh tế từ 13 tỷ USD Mỹ năm 2000 lên đến 34 tỷ USD năm 2008. Chính quyền Bush cũng tìm cách chống lại bệnh tật, trở thành nhà tài trợ lớn nhất cho Quỹ toàn cầu chống dịch bệnh AIDS, bệnh lao và sốt rét. Mỹ cũng đã đàm phán thương lượng trong việc cắt giảm đầu đạn chiến lược với Nga, tái định hình quan hệ Mỹ-Ấn, hòa nhã hơn trong quan hệ với Trung Quốc. Mỹ tiếp tục cố gây trở ngại việc phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, trong khi vẫn củng cố xây dựng hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo. Những nỗ lực đó phần nào bổ sung cho nhau, dù cho chính quyền Bush có ý định không muốn để việc phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt gây cản trở quyền tự do hành động trong khu vực mà Mỹ thấy là cần thiết. Mỹ cũng không muốn liều lĩnh với khả năng các quốc gia “cứng đầu” muốn bán hay trao đổi vũ khí hủy diệt hàng loạt cho các lực lượng khủng bố. Hầu hết các chính sách đó – bao gồm đánh phủ đầu (ngăn chặn), đơn phương, tạo uy thế quân sự, dân chủ hóa, tự do hóa thương mại, tăng trưởng kinh tế, tăng cường liên kết đồng minh và quan hệ đối tác giữa các cường quốc – đã được vạch ra trong Chiến lược an ninh quốc gia năm 2002 của chính quyền Bush. Ngày 11-9 đã “kích động” chính quyền Bush và buộc nó phải thay đổi trọng tâm của mình. Lo ngại đã dẫn đến hành động, điều thường thấy trong quyền lực của Mỹ, một “niềm tự hào” trong thể chế và giá trị quốc gia, tính trách nhiệm trước sự an toàn của công chúng, cảm giác tội lỗi khi để đất nước bị tấn công. Trước ngày đó, vị trí đứng đầu và an ninh của Mỹ được xem là lẽ dĩ nhiên phải thế. Nhưng sau sự kiện 11-9, Washington đã nhận thấy vấn đề của việc bảo vệ nước Mỹ, ủng hộ đồng minh, giám sát một nền kinh tế thế giới mở và truyền bá thể chế nước Mỹ. Ưu tiên của nước Mỹ Một số nhà học giả so sánh tác động của sự kiện 11-9 trong chính sách của Mỹ với tác động của chính sách của Mỹ trong cuộc tấn công của Triều Tiên vào Hàn Quốc năm 1950. Ngay sau đó, chính quyền Truman cũng bị choáng váng và đã đưa ra các ý tưởng mới, nhưng ông Truman lúc đó vẫn còn nói nhiều hơn làm. Ông đã thông qua báo cáo Hội đồng an ninh quốc gia, NSC-68, nhưng lại không sẵn sàng thực thi, việc xây dựng quân đội cũng không rõ ràng, tình hình Chiến tranh lạnh trên toàn cầu vẫn không được cải thiện. Tuy nhiên, Ngoại trưởng Mỹ lúc đó và giám đốc hoạch định chính sách của Bộ Ngoại giao Mỹ, Paul Nitze, hiểu rằng họ phải khẳng định ưu thế quyền lực của Mỹ, nhất là sau vụ Liên Xô thử thành công vụ nổ hạt nhân đầu tiên. Họ hiểu rằng họ phải tăng cường năng lực quân sự, giành lại được sự quả quyết của quốc gia, tránh thoái chí, đồng thời phải nhận lấy trách nhiệm dẫn dắt tự do thương mại toàn cầu và tái thiết nền kinh tế Tây Đức và Nhật Bản. Một điều không thể chối cãi là Bush và các cố vấn của ông ta đã bị bế tắc. Họ đã tìm cách duy trì và đánh giá lại vị thế vượt trội của Mỹ nhưng họ đã phải vất vả tìm cách ngăn chặn bất cứ một cuộc tấn công nào tiếp sau lên người dân hay lãnh thổ của Mỹ. Cũng giống như Acheson và Nitze, họ tự tin với cách họ bảo vệ cuộc sống, rằng việc định hình quyền lực trên trường quốc tế và giảm thiểu nguy cơ toàn cầu là tối quan trọng đối với việc duy trì tự do của Mỹ. Tuy nhiên các cố vấn của Bush đã gặp khó khăn trong việc đưa các yếu tố chính sách cần thiết của Mỹ vào một chiến lược thống nhất nhằm ngăn chặn thách thức mà họ coi là cấp bách nhất. Rõ ràng, nhiều sáng kiến trong chính sách đối ngoại, cùng với việc giảm thuế và bất đắc dĩ phải kêu gọi hy sinh trong nước, đã hạn chế lại mục tiêu mà họ muốn đạt được. Sự vượt trội của Mỹ đã bị tổn hại bởi sự thất bại trong việc tiến hành xâm lược Afghanisan và Iraq và bởi chủ nghĩa chống Mỹ đang ngày càng phổ biến. Các cuộc thăm dò dự luận trong thế giới Hồi giáo đã cho thấy, các hoạt động của Mỹ ở Iraq và sự ủng hộ đối với Israel là một sự kết hợp chết người. Khi sự tự do biến thành xâm lược và phản kích, nước Mỹ và quyền lực của nó ngày càng bị tai tiếng. Ưu thế vượt trội của Mỹ bị tổn thất bởi những chi phí không lường trước được của các cuộc chiến kéo dài, với 1,3 nghìn tỷ USD Mỹ, theo đánh giá của Cơ quan nghiên cứu Quốc hội Mỹ, kéo theo đó là các khoản nợ tích lũy dần từ hệ quả của việc cắt giảm thuế và tăng chi tiêu nội địa. Chi phí quốc phòng tăng từ 304 tỷ USD Mỹ năm 2001 lên đến 616 tỷ USD Mỹ năm 2008. Nợ liên bang tăng 32,5% năm 2001 lên 53,5% năm 2009. Trong khi đó, nợ của Mỹ do các chính phủ nước ngoài nắm giữ tăng đột biến, từ 13% vào thời điểm kết thúc Chiến tranh lạnh lên 30% vào thời điểm Bush hết nhiệm kỳ. Năng lực tài chính và tính linh hoạt của Mỹ đã bị xói mòn một cách trầm trọng. Thay vì việc ngăn chặn các đối thủ cạnh tranh nổi lên, sự can thiệp ở nước ngoài và nỗi lo kinh tế, ngân sách của Mỹ ở trong nước đang đặt Washington vào một vị trí bất lợi so với các đối thủ của nước này, đáng chú ý nhất Bắc Kinh. Trong khi các lực lượng của Mỹ đang sa lầy ở Tây Nam Á thì sự gia tăng năng lực quân sự của Trung Quốc, đặc biệt trong các lĩnh vực tàu ngầm và tên lửa hành trình, tên lửa đạn đạo đang đe dọa đến vị thế của Mỹ ở Đông Á và Đông Nam Á. Đồng thời, thâm hụt thương mại giữa Mỹ với Trung Quốc đã tăng từ 83 tỷ USD năm 2001 lên 273 tỷ USD năm 2003, tổng số nợ của Mỹ phải trả cho Trung Quốc đã tăng từ 78 tỷ USD năm 2001 lên 1,1 nghìn tỷ USD năm 2011. Thay vì việc duy trì cân bằng khu vực, các hoạt động của Mỹ đã gây đảo lộn cân bằng trong khu vực mà Mỹ có lợi ích nhất, đặc biệt ở vịnh Ba Tư và Trung Đông. Có thể thấy, sự tín nhiệm của Mỹ trong khu vực này đã héo mòn, Iraq phần lớn đã bị loại trừ trong đối trọng với Iran, khả năng của Iran trong việc can thiệp ra ngoài biên giới nước này ngày càng tăng, và năng lực của Mỹ trong việc hòa giải quan hệ Israel-Palestine ngày càng giảm rõ rệt. Thay vì việc ngăn chặn không phổ biến vũ khí hạt nhân, sự can thiệp của Mỹ nhằm thay đổi chế độ đã càng tạo cơ sở cho các quốc gia mà Mỹ coi là “cứng đầu” theo đuổi mục đích vũ khí hủy diệt hàng loạt. Các nhà lãnh đạo Iran và Triều Tiên có vẻ đã dự liệu được rằng sự tồn vong của đất nước họ phụ thuộc vào việc sở hữu vũ khí hủy diệt hàng loạt. Thay vì thúc đẩy thị trường tự do, những lo ngại về kinh tế của Mỹ đã khiến Mỹ phải thực hiện cách chính sách bảo hộ trong nước và gây phức tạp hóa đàm phán thương mại ngoài nước. Nỗ lực nhằm xúc tiến vòng đàm phán Đô-ha ngày càng trở nên chật vật, trong khi các hiệp định tự do song phương với Colombia và Hàn Quốc bị trì hoãn. Đó cũng không phải là sự thúc đẩy tự do mà chính là cuộc chiến chống khủng bố đi liền với sự vi phạm nghiêm trọng dân chủ trên toàn cầu. Và thay vì ngăn chặn khủng bố hay chủ nghĩa hồi giáo cực đoàn, các hoạt động của Mỹ đã gây kích động chúng. Trong suốt cuộc chiến chống khủng bố, con số các cuộc khủng bố và chiến binh hồi giáo cũng gia tăng. Báo cáo năm 2008 về chống khủng bố của một học giả trung lập ở Trung tâm đánh giá ngân sách và chiến lược, đã chỉ rõ “kể từ năm 2002 đến năm 2003, vai trò của Mỹ trong cuộc chiến này ngày càng trượt giảm. Mặc dù Mỹ đã bắt giữ và tiêu diệt được những kẻ cầm đầu các hoạt động khủng bố, phá hủy các mạng lưới khủng bố, tịch thu tài sản và xây dựng quan hệ đối tác với các cơ quan chống khủng bố ở nước ngoài, một điều đáng chú ý là những gì mà Mỹ đạt được lại là sự chuyển hướng của tổ chức Al Qaeda thành một phong trào toàn cầu, mở rộng và tăng cường tư tưởng Salafi-Jihadi, làm hồi sinh ảnh hưởng khu vực của Iran, gia tăng số lượng và ảnh hưởng của các đảng chính trị theo trào lưu Hồi giáo chính thống trên toàn thế giới. Có thể sự tiêu diệt Bin Laden sẽ đảo ngược khuynh hướng này, nhưng điều này không xóa được hoài nghi đang lan rộng về chủ nghĩa khủng bố. Những thành công đó phần nào che đi thất bại của Mỹ trong việc để được hầu hết các mục tiêu quan trọng. Nhưng những nhà chỉ trích đã sai khi nói rằng các chính sách đó đã thất bại hoàn toàn. Những chính sách này đều bắt nguồn từ trong quá khứ của nước Mỹ. Sau sự kiện 11-9, Mỹ đã phải đối mặt với một một loạt các thách thức và lựa chọn khó khăn. Trong bối cảnh lo sợ tột cùng và đe dọa thực sự, Mỹ cũng đã kiềm chế được Al Qaeda và các tổ chức khủng bố khác, ngăn chặn thành công một số cuộc tấn công, buộc Lybia phải từ bỏ theo đuổi chương trình hạt nhân, tạo lập quan hệ vững chắc với các cường quốc mới nổi như Ấn Độ, giữ được quan hệ với Trung Quốc và Nga ở mức độ cần thiết. Mỹ cũng đã cải tổ và tái thiết viện trợ nước ngoài, đẩy mạnh vai trò đi đầu toàn cầu trong cuộc chiến chống dịch bệnh truyền nhiễm, giữ vòng đàm phán Đô-ha theo hướng đi lên, thúc đẩy được dân chủ ở một số khía cạnh nhất định và đóng góp vào tình hình hiện tại ở Trung Đông. 11-9 trong cách nhìn lịch sử Các hành động đánh chặn và phủ đầu không phải do ông Bush, cố vấn tổng thống của ông, Dick Cheney hay Rumsfeld nghĩ ra mà chúng đã cómột lịch sử lâu dài trong chính sách đối ngoại của Mỹ. Một thế kỷ trước, “hệ quả” của Tổng thống Theodore Roosevelt từ Học thuyết Monroe là một chính sách can thiệp đánh chặn ở châu Mỹ, như một kết quả của các hành động chiếm đóng quân sự ở các nước như Haiti và Cộng hòa Dominica. Tiếp theo, Tổng thống Franklin Roosevelt đã điều chỉnh kế hoạch của ông nhằm phòng vệ ngăn chặn chống lại các tàu của Đức ở biển Đại tây dương đang hướng tới nước Mỹ trong Thế chiến thứ II bằng câu nói: “Khi bạn nhìn thấy một con rắn chuông mang nọc độc sẽ tấn công mình, thì hãy tiêu diệt nó trước khi nó tấn công bạn”. 20 năm sau, Tổng thống John F.Kenedy đã quyết định rằng ông không thể để Liên Xô dàn trận vũ khí tấn công cách bờ biển nước Mỹ 90 dặm, và ông đã đơn phương áp đặt lệnh cô lập - về cơ bản là lệnh phong tỏa bao vây và một hành động của sự thù địch - chung quanh Cuba trong suốt cuộc khủng hoảng tên lửa (1962). Trong quan điểm của Kenedy, đó là một bước ngăn chặn hợp lý, mặc dù thực tế là việc này đã đưa nước Mỹ tới bờ vực của chiến tranh hạt nhân. Đối phó với mối đe dọa của chủ nghĩa khủng bố vào giữa những năm 1990, Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã ký một tuyên bố hướng dẫn an ninh quốc gia rằng “nước Mỹ sẽ theo đuổi những nỗ lực mạnh mẽ để ngăn chặn và phủ đầu, bắt giữ và truy tố… những cá nhân phạm tội hay đặt kế hoạch các cuộc tấn công như vậy”. Vậy là, cả Roosevelts, Kenedy và Clinton trong suốt nhiệm kỳ của mình đều đồng ý với tuyên bố trong Chiến lược an ninh quốc gia 2002 của Bush, chiến lược nói tới bất kỳ một mối đe dọa hiện hữu nào, rằng “lịch sử sẽ phán xét khắc nghiệt với những kẻ đã thấy trước hiểm nguy mà không hành động. Trong một thế giới mới mà chúng ta đang sống, chỉ có một con đường an toàn duy nhất là con đường của hành động”. Hơn thế nữa, Bush và những cố vấn của ông ta, hiếm khi đơn độc trong việc tìm cách thay đổi chế độ bên ngoài sau cơn chấn động ngày 11-9. Hai tuần sau bài phát biểu “trục ma quỷ” của Tổng thống Bush vào tháng 1-2002, cựu Phó Tổng thống Al Gore tuyên bố, “Thực tế, đôi khi việc gạt vấn đề ngoại giao sang bên và chơi bài ngửa sẽ đặt ra một số vấn đề nhất định.”, “Thậm chí nếu chúng ta đưa việc phá hủy các mạng lưới khủng bố lên ưu tiên hàng đầu và nếu chúng ta thành công, sẽ vẫn có những chính phủ có thể mang lại mối hiểm họa to lớn.”và theo ông Al Gore, một trong số những chính phủ gây hiểm họa đó cho nước Mỹ là Iraq.Nhiều ngày sau đó, Nghị sĩ Joe Biden hay cựu cố vấn an ninh quốc gia dưới thời Bill Clinton, Sandy Berger cũng lên tiếng rằng Saddam phải bị lật đổ và đó là công việc của nước Mỹ. Người ta thường cho rằng các quan chức của đảng Dân chủ có thể đã hành động khác nhau sau sự kiện 11-9, và dường như họ đã quá mẫn cán trong việc hợp tác với những đồng minh của mình ở châu Âu. Song, việc sử dụng lực lượng của chính quyền Bush làm thay đổi chế độ ở các nước được coi là mối đe dọa sau vụ tấn công 11-9 phù hợp với hầu hết những nguyện vọng của người Mỹ vào thời điểm đó.Trong khi đó, việc tăng cường quân sự của chính quyền Bush không đặc biệt chú trọng cũng như không nổi bật. Việc tăng cường quân sự chỉ để tránh các đối thủ cạnh tranh ngang hàng giống với nỗ lực duy trì thế độc quyền nguyên tử của Mỹ sau Chiến tranh thế giới thứ II; để đạt được sự vượt trội quân sự trong bối cảnh cuộc chiến tranh Triều Tiên, duy trì ưu thế quân sự trong những năm cầm quyền của Kenned, giành lại thế ưu việt trong thời Reagan, và nuôi dưỡng trật tự đơn cực sau khi Liên bang Xô viết sụp đổ... Trong thời Clinton, không phải dưới thời Bush, Mỹ đã bắt đầu chi nhiều tiền hơn cho quốc phòng so với hầu như các quốc gia khác cộng lại. Các học giả và những nhà hoạt động đã thấy được tính liên tục hơn là sự khác biệt trong các mục tiêu chiến lược và các hoạt động quân sự của tất cả các chính quyền Mỹ hậu chiến tranh lạnh. Sự tương đồng giữa các chính quyền Mỹ thời hậu chiến tranh lạnh còn mở rộng sang cả lối nói hoa mỹ và tư tưởng ý thức hệ. Nó đã trở thành mốt trong chu trình phê phán ý thức hệ của chính quyền Bush. Tuy nhiên, việc khẳng định các giá trị dân chủ hầu như không mới mẻ. Các giá trị dân chủ kiểu Mỹ không thể thiếu trong những tầm nhìn thế giới Wilson và Acheson, hay của Henry Kissinger và Tổng thống Mỹ Richard Nixon. Ta phải nhớ lại bài phát biểu của Kenedy trước người dân Berlin hay Liên minh vì sự Tiến bộ, cách giải thích của Tổng thống Johnson về những hành độngcủa Mỹ ở Việt Nam, Tổng thống Jimmy Carter nói về nhân quyền, và Tổng thống Robald Reagan ca tụng vai trò của nước Mỹ trên thế giới. Những lối nói hoa mỹ của họ giống với những bài phát biểu gần đây của ông Bush hay ông Obama. Nhiều người tranh luận rằng chính sách của Mỹ sau sự kiện 11-9 khác biệt bởi học thuyết đơn phương. Song, bản năng hành động độc lập, và đơn phương lãnh đạo thế giới, là hoàn toàn phù hợp với lịch sử lâu dài của chính sách đối ngoại Mỹ, tồn tại từ Bản tuyên ngôn độc lập của George Washington và bài phát biểu nhậm chức đầu tiên của Tổng thống Thomas Jefferson. Trong suốt Chiến tranh lạnh, các quan chức Mỹ luôn duy trì quyền hành động đơn phương. Chiến lược an ninh quốc gia cuối cùng của Clinton, và Chiến lược an ninh quốc gia đầu tiên của ông Obama cũng tương tự như vậy. Có rất ít những nghi ngờ rằng các cố vấn của ông Bush,do sự sợ hãi và ngạo mạn cũng như ý thức trách nhiệm và sự day dứt tội lỗi, có xu hướng hành động đơn phương hơn những người tiền nhiệm hay những người kế nhiệm đảng Dân chủ. Chiến lược an ninh quốc gia 2002 của ông Bush, nổi tiếng với việc loại bỏ chính sách ngăn chặn và răn đe và theo đuổi việc tự vệ phủ đầu, cũng chứa đựng các phần dài thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn cầu, tăng cường thị trường tự do, mở cửa xã hội, và xây dựng cơ sở hạ tầng nền dân chủ. Những chính sách này của Mỹ có một di sản lâu dài, từ “những ghi chú mở cửa” của Ngoại trưởng Mỹ John Hay, Mười bốn điểm của Tổng thống Woodorow Wilson, và Hiến chương Đại Tây Dương của Franklin Roosevelt, và chúng đều là một cơ sở cho nhiều tuyên bố gần đây của ông Clinton hay ông Obama. Ý nghĩa lâu dài của sự kiện 11-9 trong chính sách đối ngoại của Mỹ, vì thế, không nên được đánh giá quá cao. Vụ tấn công ngày hôm đó là một thảm kịch kinh hoàng, một vụ tấn công phi nghĩa vào những người dân vô tội, và là một sự khiêu khích táo tợn. Nhưng chúng không làm thay đổi thế giới hay làm chuyển dịch hướng đi dài hạn trong chiến lược chính của nước Mỹ. Mục đích dành được sự vượt trội của Mỹ, tham vọng lãnh đạo thế giới của Mỹ, mong muốn các thị trường tự do và mở cửa của Mỹ, mối quan tâm với quyền quân sự tối cao của Mỹ, sẵn sàng hành động đơn phương khi xét thấy cần thiết của Mỹ, sự liên kết mở rộng các giá trị và lợi ích của Mỹ;… tất cả vẫn được duy trì, vẫn còn đó, và không thay đổi. Điều mà các vụ tấn công ngày hôm đó đã làm được là sự thay đổi quan niệm mối đe dọa của nước Mỹ và nhấn mạnh ý nghĩa toàn cầu của các chủ thể phi quốc gia và chủ nghĩa Hồi gi

Bình luận (0)