Những câu hỏi liên quan
Bảo Ngọc cute
Xem chi tiết
Diệu Huyền
8 tháng 10 2019 lúc 6:18

Tuy là một bài thơ ngắn chỉ 4 câu nhưng ở Trung Quốc hiểu tường tận bài thơ này vẫn có những ý kiến chưa thống nhất. Trước hết về thời gian sáng tác bài thơ này các sách đều ghi là “không xác định” chỉ biết Lý Bạch ban ngày đi chơi, ban đêm ngủ nhìn trăng sáng rồi nhớ quê hương như tứ một câu thơ của Đỗ Phủ “nguyệt thị cố hương mình.Bài thơ mặc dù tác giả, cảnh và người là Trung Quốc nhưng nó được người dạy, học trong nhà trường phổ thông Việt Nam cảm nhận sâu sắc, có tác dụng trong việc giáo dục tình cảm yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước trong mỗi người Việt Nam.

Bình luận (0)
Bảo Ngọc cute
26 tháng 10 2016 lúc 18:20

cảm xúc nhé

Bình luận (0)
Nguyen Ngoc Lien
26 tháng 10 2016 lúc 18:26

trầm tư, băn khoăn, bâng khuâng ...

Bình luận (0)
dương mai hoàng lan
Xem chi tiết
Diễm Dương
27 tháng 10 2016 lúc 19:52

Câu thơ thể hiện tình cảm của tác giả lúc ngắm trăng và nhớ đến quê nhà của mình.

Bình luận (0)
Khánh Ngọc Trần
18 tháng 10 2018 lúc 20:11

bài thơ thể hiện tình cảm nhớ quê hương của tác giả khi ngắm trăng

Bình luận (0)
gtrutykyu
Xem chi tiết
Lê Phan Bảo Như
15 tháng 10 2016 lúc 18:48

câu thơ nói đến nội dung cảm xúc : nhớ đến ánh trăng quê nhà
 

Bình luận (0)
Nguyễn Xuân Nhã Thi
20 tháng 10 2016 lúc 20:36

theo mình chỉ đơn giản là nhớ đến quê nhà khi ngắm trăng

Bình luận (0)
Nguyễn Thị Xuân Mai
22 tháng 10 2016 lúc 13:00

nội dung:

tả ánh trăng ở quê nhà rất sáng

cảm xúc:

nhớ quê, nhớ nhà, nhớ ánh trăng... của tác giả

Bình luận (0)
Nguyễn Xuân Yến Nhi
Xem chi tiết
Thảo Phương
9 tháng 10 2016 lúc 10:11

Tuy là một bài thơ ngắn chỉ 4 câu nhưng ở Trung Quốc hiểu tường tận bài thơ này vẫn có những ý kiến chưa thống nhất. Trước hết về thời gian sáng tác bài thơ này các sách đều ghi là “không xác định” chỉ biết Lý Bạch ban ngày đi chơi, ban đêm ngủ nhìn trăng sáng rồi nhớ quê hương như tứ một câu thơ của Đỗ Phủ “nguyệt thị cố hương mình” .Bài thơ mặc dù tác giả, cảnh và người là Trung Quốc nhưng nó được người dạy, học trong nhà trường phổ thông Việt Nam cảm nhận sâu sắc, có tác dụng trong việc giáo dục tình cảm yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước trong mỗi người Việt Nam.

Bình luận (2)
Lê Dung
9 tháng 10 2016 lúc 10:09
Trong chương trình ngữ văn THCS có giảng hai bài thơ Đường ngắn của Lý Bạch (701-762) là bài Vọng Lư sơn bộc bốvà Tĩnh dạ tư. Bài Vọng Lư sơn bộc bố đơn giản, dễ hiểu ai nấy đều thống nhất. Riêng bài Tĩnh dạ tư tuy ngắn nhưng ở Việt Nam có vài điểm còn phân vân là đầu đề bài thơ nên đọc là Tĩnh dạ tứ hay Tĩnh dạ tư? Từ “tư” có 3 nghĩa là “suy nghĩ, nhớ nhung và ý tứ”.Ở đây phải đọc là Tĩnh dạ tư(Tưởng nhớ trong đêm yên tĩnh). Sách giáo khoa dịch làCảm nghĩ trong đêm yên tĩnh tuy chưa sát nhưng cũng được. Vì vậy không đọc là Tĩnh dạ tứ. Ở Trung Quốc bài thơ này rất nổi tiếng, từ trước đến nay trong các sách Đường thi nhất bách thủ, Đường thi tam bách thủhay Thiên gia thi đều có bài Tĩnh dạ tư của Lý Bạch và được coi là “vô ý vô công vô bất công” (không khéo mà không phải không khéo) hay “xảo tuyệt cố kim” (tuyệt diệu xưa nay) như lời Hồ Ứng Lân đời Minh đã nói.1. Tuy là một bài thơ ngắn chỉ 4 câu nhưng ở Trung Quốc hiểu tường tận bài thơ này vẫn có những ý kiến chưa thống nhất. Trước hết về thời gian sáng tác bài thơ này các sách đều ghi là “không xác định” chỉ biết Lý Bạch ban ngày đi chơi, ban đêm ngủ nhìn trăng sáng rồi nhớ quê hương như tứ một câu thơ của Đỗ Phủ “nguyệt thị cố hương mình” (trăng là ánh sáng của quê hương) hay “vọng nguyệt tư hương” (ngắm trăng nhớ quê). Nguyên văn bài thơ bằng chữ Hán như sau: Sàng tiền minh nguyệt quang/ Nghi thị địa thượng sương/ Cử đầu vọng minh nguyệt/ Đê đầu tư cố hương. Dịch thơ: Đầu giường ánh trăng rọi/ Ngỡ mặt đất phủ sương/ Ngẩng đầu nhìn trăng sáng/ Cúi đầu nhớ cố hương (Tương Như dịch).Mặc dù câu thơ đầu của bài thơ các bản thơ Đường đều chép là “Sàng tiền minh nguyệt quang” nhưng có người cho rằng không phải “minh nguyệt quang” (ánh trăng sáng) mà là “sơn nguyệt quang” (trăng sáng trên núi) vì dựa vào bài thơ Quan sơn nguyệt (Trăng nơi cửa ải) của Lý Bạch mà suy đoán như vậy. Riêng chữ “sàng” (giường) có nhiều ý kiến tranh luận rất khác nhau. Cuộc tranh luận bắt đầu từ những năm 80 của thế kỷ trước trên những tạp chí ngữ văn.Dưới đầu đề “ý kiến nhỏ về chữ “sàng” đăng trên tạp chí Ngữ Văn Nguyệt San số tháng 11-1984, tác giả đã giải thích chữ “sàng” trong bài Tĩnh dạ tưcủa Lý Bạch không phải là “giường nằm” mà là “đắng” có nghĩa là “ghế ngồi” (ghế không có tựa). Sở dĩ tác giả bài báo giải thích từ “sàng” là “ghế ngồi” vì trong Từ thư giải thích chữ “sàng” là “tọa cụ” (vật dụng để ngồi). Vì vậy câu thơ “Sàng tiền minh nguyệt quang, nghi thị địa thượng sương” có nghĩa là “trước ghế ánh trăng rọi, ngỡ mặt đất phủ sương” chứ không thể hiểu là “đầu giường ánh trăng rọi, ngỡ mặt đất phủ sương”. Nếu như chữ “sàng” mà hiểu là giường Lý Bạch nằm ngủ thì ông không thể tỉnh dậy để “ngẩng đầu” (cử đầu) và “cúi đầu” (đê đầu). Trong bài “Sàng” trong câu “Sàng tiều minh nguyệt quang” cuối cùng là “vật gì”? đăng trong tạp chí Học Tập Ngữ Văn số tháng 2-1994, tác giả bài viết cho rằng: “Sàng” là một loại “ghế ngồi” vì cùng dựa vào Từ thư giải thích. Tác giả lý luận “nó là một loại ghế sau đời Hán từ Tây vực truyền nhập vào thường gọi là “Hồ sàng”. Hồ là một ngoại tộc của Trung Quốc thời xưa vùng phía Tây. “Hồ sàng” là “ghế của người Hồ”. Loại ghế người Hồ thường dùng này đến thời nhà Nguyên thì phổ biến rộng rãi, đến thời kỳ lịch sử hòa nhập lớn như đời nhà Đường thì được sử dụng nhiều. Trong bài Giải thích chữ “sàng” đăng trên tạp chí Tri Thức Ngữ Văn số tháng 1 năm 1997 tác giả cho rằng: “Lấy chữ “sàng” trong thơ coi là chữ  chỉ “chiếc giường nằm ngủ” thì “thật là một sai lầm lớn”. Tác giả cho rằng nếu như nằm trên giường thì làm thế nào nhìn thấy ánh trăng sáng trên mặt đất rồi sau đó “ngẩng đầu” và “cúi đầu”. Cuối cùng tác giả cho rằng chữ “sàng” nên giải thích là “tỉnh sàng” là một loại “giường giếng”. Loại “tỉnh sàng” thường gọi là “lô lộc sàng” (loại giường lộc cộc)… Ngày nay ở nông thôn vùng Lỗ Bắc, Đại Nam (Trung Quốc) vẫn còn dùng loại giường thô sơ này.2. Quan điểm của các tác giả trên đây đều dựa vào chữ “sàng” có 3 ý nghĩa: Đó là chỉ “giường” nằm (ngọa cụ), “ghế” ngồi (tọa cụ) và “lan can giếng” (Tỉnh lan). Vì vậy chữ “sàng” trong bài thơ Tĩnh dạ tư của Lý Bạch chỉ còn lại hai nghĩa mà nhiều người thống nhất, đó là “giường” nằm (ngọa cụ) hay “ghế” ngồi (tọa cụ). Giữa “giường” nằm hay “ghế” ngồi thì đa số ý kiến vẫn cho rằng chữ “sàng” mà Lý Bạch dùng trong bài Tĩnh dạ tư là chữ “giường” nằm và đương nhiên Lý Bạch nằm trên giường để “ngẩng đầu” và “cúi đầu” thì cũng khó khăn, do đó cách lý giải này cũng không thỏa đáng. Vì vậy giải thích nghĩa của chữ “sàng” là vật dùng để nằm là sai. Một tác giả khác cho rằng động tác “ngẩng đầu” và “cúi đầu” không liên quan gì đến “giường nằm” (ngọa cụ), “ghế ngồi” (tọa cụ) và “lan can giếng” (tỉnh lan).Nếu giải thích “sàng” là giường nằm thì thiếu ý vị, vì lúc đó Lý Bạch đang ngủ và không liên tưởng gì đến trăng sáng, sương rơi trên mặt đất. Nếu giải thích “sàng” là ghế ngồi thì lúc đó Lý Bạch chưa nằm có thể là đang đứng trong nhà hay đi lại và cũng có thể ngồi trên ghế tựa mà “tức cảnh sinh tình” ngẩng đầu nhìn trăng sáng, cúi đầu nhớ cố hương”. Nếu như tưởng tượng Lý Bạch nằm ngủ trên giường thì cũng có thể lúc đó ông không chợp mắt và đi ra ngoài. Như vậy “ngẩng đầu” và “cúi đầu” là một biểu hiện tâm tư tự nhiên. Ở đây cần lưu ý đến yếu tố không gian và thời gian trong bài thơ. Liên hệ với bài Tuyệt cú của Đỗ Phủ để hiểu rõ hơn về vấn đề này. Nguyên văn bài Tuyệt cú của Đỗ Phủ như sau: Lưỡng cá hoàng mi minh thúy liễu/ Nhất hàng bạch lộ thướng thanh thiên/ Song hàm Tây Lĩnh thiên thu tuyết/ Môn bạc Đông Ngô vạn lý thuyền. Dịch thơ:Hai cái oanh vàng kêu liễu biếc/ Một hàng cò trắng vút trời xanh/ Nghìn năm tuyết núi song in sắc/ Muôn dặm thuyền Ngô cửa rập rình. (Tản Đà)Để miêu tả không gian, thời gian Đỗ Phủ nói đến “môn” (cửa), “bạc” (đậu) và “thuyền” (con thuyền). Trở lại bài thơ Tĩnh dạ tư của Lý Bạch cũng có mối liên hệ do không gian và thời gian như thế, đó là trăng sáng và sương rọi trên mặt đất.3. Cho dù “sàng” giải thích nghĩa của nó là “giường”, “ghế”, “lan can giếng” và Lý Bạch đi, đứng, ngồi, nằm thì vẫn không có liên quan gì đến động tác “ngẩng đầu” và “cúi đầu” để “nhớ cố hương”. Vì vậy, ý kiến tranh luận về chữ “sàng” trong bài Tĩnh dạ tư của Lý Bạch được tạm chấp nhận là “sàng” mà tác giả đặt bút xuống viết có nghĩa là “giường” nằm (ngọa cụ) với tư thế “nằm” rồi bất chợt nhìn lên thấy trăng sáng, cúi xuống thì thấy sương rơi trên mặt đất, để rồi “nhớ cố hương” (tư cố hương). Chữ “tư” (nhớ) ở câu cuối bài càng khẳng định đầu đề của bài Tĩnh dạ tư và đọc như thế là đúng. “Ý tại ngôn ngoại” của thơ Đường là vậy, dễ và khó cả ý lẫn lời. Mặc dù các nhà nghiên cứu Trung Quốc tranh luận như thế nhưng xét về nội dung và hình thức bài Tĩnh dạ tư của Lý Bạch trong sách giáo khoa từ trước đến nay người dạy và người học hiểu như thế là đúng. Bài thơ mặc dù tác giả, cảnh và người là Trung Quốc nhưng nó được người dạy, học trong nhà trường phổ thông Việt Nam cảm nhận sâu sắc, có tác dụng trong việc giáo dục tình cảm yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước trong mỗi người Việt Nam.
Bình luận (0)
Lê Dung
9 tháng 10 2016 lúc 10:13

Thơ Đường là thành tựu tiêu biểu nhất của văn học Trung Quốc. Mọi phương diện của nó đều đạt đến trình độ cổ điển. Thi pháp thơ Đường tiêu biểu cho thi pháp thơ cổ điển của Trung Quốc. Do đó nó rất đa dạng, phong phú, phức tạp và sâu sắc. Vì vậy hiểu được nó một cách thâu đáo là một việc khó chưa nói đến việc giảng dạy như thế nào để học sinh cảm thụ được. Tôi nghĩ đó là vấn đề mà giáo viên đứng lớp như chúng tôi rất trăn trở. Với kiến thức hạn hẹp và với sự giúp đỡ của các thầy, cô giáo đồng nghiệp tôi có một số vấn đề muốn trao đổi về việc giảng dạy thơ Đường. Thơ Đường phản ánh một cách toàn diện xã hội đời Đường, thể hiện quan niệm nhận thức, tâm tư, .. của con người đời Đường một cách sâu sắc. Nội dung phong phú được thể hiện bằng hình thức thơ hoàn mỹ. Thành tựu trên các phương diện của thơ Đường đều đạt đến đỉnh cao. Thơ Đường là sự kế thừa và phát triển cao độ thơ ca cổ điển Trung Quốc. Nó là tập “Đại thành” cho nên những phương diện của thi pháp thơ cổ điển của Trung Quốc rất tiêu biểu. Thơ Đường rất phong phú cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Nhưng điều tôi trình baỳ ở đây chỉ là vài suy nghĩ của cá nhân về “một số phương pháp giảng dạy thơ Đường ở trường THPT”. Bộ phận văn học nước ngoài nói chung và thơ Đường nói riêng ở trường THPT là một mảng khó dạy đối với giáo viên. ở trường ĐH việc giảng dạy được chuyên môn hoá cao độ. Mỗi người chỉ phụ trách mỗi nền văn học. Thậm chí là một giai đoạn của chương trình nên có điều kiện đi sâu nắm bắt được chương trình Trong khi đó ở các trường THPT - chúng tôi những người giáo viên Ngữ văn phải đảm đương văn học Việt Nam lẫn văn học nước ngoài, vì vậy sẽ còn nhiều lúng túng khi giảng dạy cho học sinh đặc biệt với một giáo viên vừa ra trường như tôi làm sao có thể làm chủ văn học nước ngoài, mà đặc biệt là thơ Đường. Hàng rào ngôn ngữ đã là một trở ngại. Đã thế chương trình Ngữ văn THPT trong những năm gần đây có nhiều đổi mới qua đợt cải cách giáo dục, phân môn Văn học có nhiều bài khó nhưng chỉ dạy trong một tiết, thậm chí hai bài dạy chỉ trong một tiết...nên lại càng thêm khó khăn.. Trước tình hình ấy, để khắc phục những khó khăn đã nêu trên và đáp ứng yêu cầu giảng dạy. Tất nhiên giáo viên phải tìm hiểu bổ sung thêm kiến thức từ các sách nghiên cứu, đi sâu vào bài giảng để soạn giáo án và giảng dạy hướng dẫn học sinh học tập được tốt hơn. Thơ Đường là thành tựu rực rỡ nhất cuả văn học đời Đường (từ thế kỷ VII đến thế kỷ X) là một trong những thành tựu tiêu biểu của thơ cổ điển Trung Quốc, đồng thời là của nhân loại. Đối với lịch sử văn học, thơ Đường ra đời trước nền văn học trung đại Việt Nam gần 3 thế kỷ. Đối với bạn đọc Việt Nam, nhất là học sinh THPT, thơ Đường vừa là sản phẩm tinh thần vừa xa về khoảng cách thời gian vừa xưa về mặt ngôn từ..Nhưng học thơ Đưòng không phải chỉ chiêm ngưỡng các sản phẩm “cổ vật” mà chúng ta vẫn hiểu được tiếng nói của người xưa và vẫn rung cảm trước những tâm hồn cao đẹp. Việc đưa thơ Đường vào chương trình dạy học ở trường phổ thông không phải là vấn đề mới lạ với chúng ta. Song cái mói mà chúng ta thấy được đối tượng tiếp nhận. Sách giáo khoa Ngữ văn trung học đã đưa vào chương trình một lượng không nhiều, song tiếp nhận thơ Đường đối với lứa tuổi trung học thì quả là điều không hề đơn giản. Trong khi thơ Đường vốn rất hàm súc, nói ít gợi, ý tại ngôn ngoại, vừa có tính ước lệ, cổ kính, trang nghiêm, vừa có tính chặt chẽ niêm luật của thể loại. Chính vì vậy người giáo viên là chiếc cầu nối giúp các em cảm nhận được thơ Đường - một thành tựu của thơ ca nhân loại. II. NỘI DUNG: 1. Dịch nghĩa từ phiên âm sang tiếng Việt, đối chiếu dịch nghĩa, dịch thơ với phiên âm: Để giúp các em hiểu được văn bản, phân tích và cảm thụ văn bản thì giáo viên giúp học sinh dịch nghĩa từ phiên âm sang tiếng Việt. Hiểu nghĩa từng chữ trong nguyên bản, sau đó dịch nghĩa từng câu. Từ đó cho học sinh đối chiếu bản phiên âm dịch nghĩa và dịch thơ. Như vậy học sinh sẽ tích luỹ được vốn Hán - Việt,hiểu được nghĩa gốc cũng là điều kiện để xuất phát khám phá ra nội dung bên trong. Chẳng hạn khi phân tích bài thơ “Vọng lư sơn bộc bố” của Lí Bạch. “Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên Dan khan bộc bố quải tiền xuyên” (Nắng rọi Hương Lô khói tía bay Xa trônng dòng thác trước song này) Qua sự đối chiếu, giáo viên cho học sinh thấy được bản dịch thơ chưa sát nghĩa. Ơ câu một đã bỏ mất từ “sinh” làm cho quan hệ nhân quả của câu thơ trở nên mờ nhạt đi, làm cho tích chất gợi cảm không còn. Núi Hương Lô được mặt trời chiếu sáng làm nảy sinh làn khói tía, là một cảnh tượng hùng vĩ, rực rỡ và lộng lẫy. Với động từ “sinh” này dường như khi ánh mặt trời xuất hiện thì mọi vật sinh sôi nảy nở. Ơ câu hai, bản dịch thơ bỏ mất từ “quải”(treo) nên ấn tượng cho hình ảnh dòng thác gợi ra trở nên mờ nhạt và ảo giác về dải Ngân hà ở câu cuối cũng trở nên thiếu cơ sở. Nếu dịch được từ “quải” thì sẽ làm cho dòng thác trở nên sinh động hơn rất nhiều. Ở bài: “Tại Lầu Hoàng Hạc Tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng” “Cố nhân tây từ Hoàng Hạc Lâu’’ (Bạn từ Lầu Hạc lên đường), bản dịch nghĩa là “bạn cũ” nhưng ở phần dịch thơ chỉ còn là “bạn”. Điều đó chứng tỏ bản dịch thơ chưa chuyển tải hết ý thơ. Thơ xưa hay nói tới cố, cũ với tất cả sự gắn bó hoài niệm. Đó là cố hương, cố quốc, cố tri… và đây là “cố nhân” nó gói ghém trong đó bao nhiêu tình cảm quý trọng, thương mến của tác giả đối với Mạnh Hạo Nhiên. Chắc chắn hai người đã có một tình bạn tri ân, tri kỷ lắm rồi. Thực ra “Cô phàm” mà dịch là “cánh buồm”, “bích không tận” dịch là “bầu không” thì sự lẻ loi của cánh buồm và màu xanh bao la gợi cảm đã bị đánh mất. Chứng tỏ bản dịch thơ chỉ thông báo cho biết sự việc đã xảy ra còn nguyên tác với cách miêu tả đối lập vẻ như nhỏ bé, cô đơn của cánh buồm, với sự mênh mông, choáng ngợp của dòng sông, vẻ tỉnh lặng của màu xanh dòng Trường Giang. Trong bài thơ “Thu hứng”: Hai câu thơ đầu tả khung cảnh thu ở Quỳ Châu với các hình ảnh: sương móc trắng xoá làm tiêu điều, tang thương cả rừng phong. Từ núi Vu đến kẽm Vu, hơi thu hiu hắt, ảm đạm. (Bản dịch thơ đã chưa chọn ý hai từ “điêu thương” và “ tiêu sâm”). Tác giả miêu tả cảnh thu ở ba chiều không gian. + Chiều dài, rộng: Rừng phong + Chiều cao: núi Vu + Chiều sâu: Kẽm Vu (bản dịch thơ đã bỏ mất “Vu giáp”) Điều đó cho thấy tính chất tiêu điều, hiu hắt, bi thương lan toả khắp không gian, khác với không khí mơ màng của mùa thu thường thấy trong thơ ca truyền thống. Nhưng ở bài “Tĩnh dạ tứ” của Lí Bạch “Sáng tiền minh nguyệt quang Nghi thi địa thượng sương” (Đầu giường ánh trăng rọi Ngỡ mặc đất phủ sương) thì hai câu đầu nguyên văn chỉ có một động từ “nghi”(ngỡ) nhưng trong bản dịch thơ lại thêm hai động từ “rọi” và “phủ” làm cho chủ thể trữ tình bị mờ nhạt nên nhiều người lầm tưởng hai câu đầu chỉ chủ yếu là thuần tuý tả cảnh. 2. Giới thiệu kỹ thân thế của tác giả và hoàn cảnh ra đời cuả tác phẩm: Phân tích thơ trước hết phải bám vào ngôn từ của tác phẩm, tuy nhiên có nhiều trường hợp hiểu thân thế của tác giả và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm có thể giúp ích rất nhiều trong việc phân tích, cảm thụ cũng như xác định ý nghĩa giá trị của tác phẩm. Ví dụ: Đỗ Phủ làm thơ khi 7 tuổi, để lại trên 1400 bài thơ. “Thu hứng” là bài thơ mở đầu cho chùm thơ thu gồm 8 bài. Bài thơ được coi như “cương lĩnh sáng tác” cho 7 bài sau. Thời gian này Đỗ Phủ từ quan nhưng không về quê nhà được vì Hà Nam là nơi tranh chấp lúc ở Thành Đô lúc lại Quỳ Châu, thương tiếc và lo lắng, với “Nỗi lòng quê cũ” nhà thơ đã viết chùm “Thu hứng” (8 bài).Hoặc là Thôi Hiệu qua tác phẩm Hoàng Hạc Lâu, đỗ tiến sĩ năm 725. Và một ngày nọ ông đặt chân tới góc thành Tây Nam huyện Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc, ông thả bộ lên Lầu Hoàng Hạc. Bài thơ này tức cảnh sinh tình. Có thể xem bài thơ Hoàng Hạc Lâu là một “quả lạ trái mùa”. Trong tác phẩm “Hồi hương ngẫu thư” của Hạ Tri Chương. Ông đậu tiến sĩ, làm quan trên 50 năm dưới triều vua Đường Huyền Tông . Từ lúc trai trẻ đến năm 744 (tức là 86t), ông mới cáo quan trở về quê hương trong sự lưu lưyến của vua và bạn bè ở kinh thành. Với nhan đề “Ngẫu thư” (ngẫu nhiên viết) tức là tác giả không chủ định làm thơ ngay lúc đặt chân đến quê nhà, không chủ đích viết nhưng sao lại viết, bởi vì ở cuối bài thơ tác giả đã bị bọn trẻ làng gọi là là “khách”. Đó là “cú sốc” với tác giả nhưng lại là duyên cớ để tác giả viết bài thơ này. Ân đằng sau duyên cớ đó là tình cảm yêu quê hương luôn thường trực và bất cứ lúc nào cũng được thổ lộ. Hoặc với nhà thơ Lí Bạch, giáo viên dẫn dắt giới thiệu: Ông là người thông minh, biết làm thơ từ thưở nhỏ, giao du rộng rãi, thạo kiếm thuật. Từ trẻ ông đã xa gia đình đi du ngoạn tìm đường lập công danh sự nghiệp. Chính vì điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến phong cách thơ của ông: một tâm hồn phóng khoáng, tự do, hình ảnh thơ tươi sáng kỳ vĩ. 3. Chọn lọc một số chi tiết để phân tích và bình giá: Khi phân tích nên chọn một số chi tiết để bình giá và nâng cao Chẳng hạn trong bài thơ “Vọng Lư sơn bộc bố” (Xa ngắm thác núi Lư), chúng ta phải phân tích kĩ từ “quãi”(treo). Nhìn dòng thác từ xa, tác giả thấy như tấm lụa đào treo trước dòng sông, người Trung Quốc coi từ “quãi” là “nhãn tự”, bởi vì nó đã biến cảnh vật từ động sang tĩnh, dóng thác ầm ầm đổ xuống núi đã biến thành một dãi lụa trắng rũ xuống yên ắng và bất động, được treo lên giữa khoảng vách núi và dòng sông, một vẻ đẹp thiên nhiên vô cùng kì ảo., và tráng lệ. Phân tích sự thành công của tác giả trong việc dùng từ”nghi” (ngỡ), “lạc” (rơi xuống) và hình ảnh của dãi Ngân hà. Ngỡ là biết sự thật không phải vậy (làm sao vừa có cả mặt trời có cả dòng ngân hà) mà vẫn tin là có thật. Chữ “lạc” cũng dùng rất đắt vì dòng ngân hà vốn nằm theo chiều vắt ngang qua bầu trời, còn dòng thác lại đổ theo chiều thẳng đứng. Trong bài thơ, “Hoàng Hạc Lâu” của Thôi Hiệu khi phân tích chúng ta chú ý đến chữ “sầu” kết thúc bài thơ nhưng mở ra một tâm trạng, một nỗi lòng, một nỗi sầu dằng dặc. Từ “sầu” diễn tả nỗi sầu triền miên, nặng nề của người khách xa nhà trước cảnh mây khói mịt mùng. Khi phân tích bài thơ, “Tì bà hành” của Bạch Cư Dị, chúng ta chú ý phương diện miêu tả tiếng đàn. Tác giả miêu tả ba lần gảy đàn của người ca nữ một cách hợp lý. + Lần đầu: Không tả cụ thể vì nghe xa. + Lần thứ hai: Tả nhiều, tả kỷ vì giữa nhà thơ và người nghệ sỹ đã tìm thấy tiếng nói tri âm, đồng cảm sâu sắc: người nghe quên mình mà người gảy đàn cũng hết mình. + Lần thứ ba: khi tâm tư đã quá xúc động thì giọt nước mắt có giá trị “thanh lọc” đã thay cho mọi lời miêu tả, ngợi ca. Hoặc trong bài “Hồi hương ngẫu thư” của Hạ Tri Chương cần phân tích kỹ câu” “Hương âm vô cải mấn mao tồi” (tiếng nói không thay đổi, tóc mai đã rụng) và nghệ thuật đối. Nói cái thay đổi và cái không đổi để khẳng định sự bền bĩ chung thuỷ trong tình cảm của con người đối với quê hương. Và cũng cần phân tích kĩ tình huống khi trở về nơi chôn nhau cắt rốn lại bị gọi là khách từ đâu đến để thấy được tâm trạng của nhà thơ.Hồi hương ngẫu thư 4. So sánh đối chiếu văn bản với các thi liệu thơ phương Đông. Đơn cữ trong bài thơ “Vọng Lư sơn bộc bố” khi phân tích câu một làm khung nền cho bức tranh toàn cảnh, trước khi miêu tả vẻ đẹp của dòng thác nước. Nên so sánh đối chiếu với hai câu thơ của nhà sư Tuệ Viên(trước Lí Bạch 300 năm): “Khí bao trùm lên Hương Lô mịt mù như sương khói”. Cái mới của Lí Bạch là miêu tả vẻ đẹp của dòng Hương Lô dưới những tia nắng mặt trời, làn hơi nước phản quang, ánh sáng mặt trời chuyển thành một màu tím vừa rực rỡ vừa kỳ ảo. Sự thật hơi khói đã có từ trước, tồn tại thường xuyên song dưới ngòi bút của Lí Bạch, với động từ :sinh” đã làm cho khung cảnh trở nên huyền ảo Hoặc có thể so sánh với các bài thơ khác có chủ đề phổ biến “Vọng nguyệt hoài hương”như của Đỗ Phủ: “Lộ tòng kim dạ bạch Nguyệt thị cố hương minh” ( Sương đêm nay trắng xoá, Trăng là ánh sáng của quê nhà) Bạch Cư Dị: “Công khang mình nguyệt ưng thuỳ lệ Nhất phiến hương tâm ngũ xứ đồng” ( Xem trăng sáng có lẽ cùng rơi lệ Một mảnh tình quê , năm anh em ở năm nơi đều giống nhau) III. KẾT LUẬN: Thơ Đường là đỉnh cao của nền văn học Trung Quốc, là thành tựu của văn học nước ngoài có ảnh hưởng sâu đậm nhất đến nền văn học Việt Nam, đặc biệt thể thơ Đường luật này trở thành một thể thơ sáng tác quan trọng và quen thuộc của người Việt Nam ta. Thông qua những bài thơ Đường, nó đã góp phần hình thành ở con người niềm trân trọng mến yêu những vẻ đẹp dịu dàng trong sáng, những khát vọng vươn tới lý tưởng, tình yêu quê hương đất nước, yêu hoà bình, yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp, đồng thời qua thơ Đường giúp con người biết cảm thông trước những đau khổ của đồng loại, biết phẫn nộ trước những điều phi nghĩa bất công. Bởi vậy học và đọc thơ Đường chúng ta càng cảm thấy thú vị. Văn học nghệ thuật nói chung, thơ Đường nói riêng đã góp phần hình thành tính nhân văn của con người.

Bình luận (1)
Linh Lương
Xem chi tiết
Sáng Nguyễn
9 tháng 10 2016 lúc 19:42

Tuy là một bài thơ ngắn chỉ 4 câu nhưng ở Trung Quốc hiểu tường tận bài thơ này vẫn có những ý kiến chưa thống nhất. Trước hết về thời gian sáng tác bài thơ này các sách đều ghi là “không xác định” chỉ biết Lý Bạch ban ngày đi chơi, ban đêm ngủ nhìn trăng sáng rồi nhớ quê hương như tứ một câu thơ của Đỗ Phủ “nguyệt thị cố hương mình”. Bài thơ mặc dù tác giả, cảnh và người là Trung Quốc nhưng nó được người dạy, học trong nhà trường phổ thông Việt Nam cảm nhận sâu sắc, có tác dụng trong việc giáo dục tình cảm yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước trong mỗi người Việt Nam.

Bình luận (4)
Nguyễn Văn Dũng
9 tháng 10 2016 lúc 20:31

Tuy là một bài thơ ngắn chỉ 4 câu nhưng ở Trung Quốc hiểu tường tận bài thơ này vẫn có những ý kiến chưa thống nhất. Trước hết về thời gian sáng tác bài thơ này các sách đều ghi là “không xác định” chỉ biết Lý Bạch ban ngày đi chơi, ban đêm ngủ nhìn trăng sáng rồi nhớ quê hương như tứ một câu thơ của Đỗ Phủ “nguyệt thị cố hương mình”. Bài thơ mặc dù tác giả, cảnh và người là Trung Quốc nhưng nó được người dạy, học trong Tnhhuàgtọrnường phổ thông Việt Nam cảm nhận sâu sắc,

Bình luận (0)
Phuong Mai
11 tháng 10 2017 lúc 5:41

Tuy là bài thơ chỉ ngắn, nhưng ở Trung Quốc thì hiểu tường tận bài thơ này và vẫn có những ý kiến chưa thống nhất. Trước hết là thời gian sáng tác bài thơ này, các sách đều ghi lại là"không xác định" chỉ biết rằng Lý Bạch ban ngày đi chơi, ban đêm ngủ nhìn mặt trăng sáng rồi nhớ quê nhà. Bài thơ mặc dù tác giả, cảnh và người đều là Trung Quốc nhưng nó được người dạy,học trong nhà trường phổ thông Việt Nam cảm nhận sâu sắc, Có tác dụng trong việc giáo dục tình yêu thiên nhiên,quê hương

Chúc Các Bạn Học Tốt Nhé!

Bình luận (0)
Đinh Tấn Quốc
Xem chi tiết
P369 Ngọc Trân
Xem chi tiết
☞Tᖇì  ᑎGâᗰ ☜
5 tháng 4 2022 lúc 21:00

Tham khảo:

Quê hương là nguồn cảm hứng vô tận của nhiều nhà thơ Việt Nam và đặc biệt là Tế Hanh – một tác giả có mặt trong phong trào Thơ mới và sau cách mạng vẫn tiếp tục sáng tác dồi dào. Ông được biết đến qua những bài thơ về quê hương miền Nam yêu thương với tình cảm chân thành và vô cùng sâu lắng. Ta có thể bắt gặp trong thơ ông hơi thở nồng nàn của những người con đất biển, hay một dòng sông đầy nắng trong những buổi trưa gắn với tình yêu quê hương sâu sắc của nhà thơ. Bài thơ “Quê hương” là kỉ niệm sâu đậm thời niên thiếu, là tác phẩm mở đầu cho nguồn cảm hứng về quê hương trong thơ Tế Hanh, bài thơ đã được viết bằng tất cả tấm lòng yêu mến thiên nhiên thơ mộng và hùng tráng, yêu mến những con người lao động cần cù. Với tâm hồn bình dị, Tế Hanh xuất hiện trong phong trào Thơ mới nhưng lại không có những tư tưởng chán đời, thoát li với thực tại, chìm đắm trong cái tôi riêng tư như nhiều nhà thơ thời ấy. Thơ Tế Hanh là hồn thi sĩ đã hoà quyện cùng với hồn nhân dân, hồn dân tộc, hoà vào “cánh buồm giương to như mảnh hồn làng”.“Quê hương” – hai tiếng thân thương, quê hương – niềm tin và nỗi nhơ,ù trong tâm tưởng người con đấùt Quảng Ngãi thân yêu – Tế Hanh – đó là những gì thiêng liêng nhất, tươi sáng nhất. Bài thơ với âm điệu khoẻ khoắn, hình ảnh sinh động tạo cho người đọc cảm giác hứng khởi, ngôn ngữ giàu sức gợi vẽ lên một khung cảnh quê hương “rất Tế Hanh”.
 

Bình luận (0)
Hoàng Trần
Xem chi tiết
Nguyễn Dương Mỹ Lệ
7 tháng 2 2017 lúc 12:15

Mở bài
(Đây chỉ là một cách)
- Nửa đầu thế kỉ XX, đất nước ta rơi vào ách đô hộ của thực dân Pháp => nhiều bài thơ hay về tự do, về tinh thần đấu tranh ra đời, trong đó có Nhớ rừng của Thế Lữ và Khi con tu hú của Tố Hữu.
- Nhận xét về hai bài thơ này, có ý kiến cho rằng: “Cả hai bài thơ đều thể hiện lòng yêu nước và niềm khát khao tự do cháy bỏng của tầng lớp thanh niên trí thức. Tuy nhiên, thái độ đấu tranh cho tự do ở mỗi bài thơ lại hoàn toàn khác nhau”.
2. Thân bài
2.1. Hai bài thơ này đều thể hiện lòng yêu nước và khao khát tự do của tầng lớp thanh niên trí thức.
a. Bài thơ “Nhớ rừng”
- Nhớ rừng mượn lời con hổ trong vườn bách thú để gián tiếp thể hiện một cách kín đáo lòng yêu nước và khao khát tự do của thanh niên trí thức nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung thời kì đó.
+ Con hổ buồn bã, uất hận vì hiện tại tù túng, tầm thường, mất tự do.
Đối lập với tư thế là chúa sơn lâm, đầy oai hùng, kiêu hãnh, được vạn vật nể sợ.
+ Con hổ “nhớ rừng” – nhớ “cảnh nước non hùng vĩ” - ngôi nhà thân yêu, bao la và tự do mà nó được làm chủ; nhớ thời oanh liệt, huy hoàng của nó ở nơi ấy.
Vì thế, con hổ khát khao trở về, khát khao được tự do => nó gửi mình theo “giấc mộng ngàn to lớn// Để hồn ta được phảng phất gần ngươi// Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!”
Liên hệ, bài thơ ra đời năm 1936, hoàn cảnh đất nước ta bấy giờ, chịu đô hộ, mất tự do => nỗi lòng của người dân mất nước: yêu nước, uất hận, khao khát tự do.
KL: Qua việc thể hiện tâm sự, nỗi lòng của con hổ trong vườn bách thú, tác giả kín đáo bộc lộ tình yêu nước thiết tha của một thanh niên trí thức. Đồng thời, ta cũng thấy được sự uất hận, khao khát vươn tới cuộc sống tự do của toàn dân tộc.
b. Bài thơ “Khi con tu hú”
- Bài thơ sáng tác năm 1939, khi nhà thơ đang bị giam ở nhà lao Thừa Thiên. Khi con tu hú là lời bộc lộ tâm trạng mãnh liệt, sôi nổi của người chiến sĩ bị tù đày. Hoàn cảnh này cũng giống như con hổ trong vườn bách thú, bị tước mất tự do.
- Tình yêu nước và khao khát tự do của người chiến sĩ thể hiện qua:
+ Cảnh thiên nhiên: người chiến sĩ tinh tế và thiết tha với cuộc sống tự do bên ngoài mới có thể vẽ nên bức tranh đẹp và có sống động như vậy. Cuộc sống ấy tươi đẹp và bình dị vô cùng, nó gắn bó với tất cả con người Việt Nam.
“Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào tầng không”
+ Khát khao tự do: nhân vật trữ tình muốn bung phá, phản kháng lại sự tù túng, chật hẹp của hoàn cảnh. Khát vọng ấy mạnh mẽ, quyết liệt vô cùng (hành động “đạp tan phòng”).
“Ta nghe hè dậy bên lòng,
Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi.
Ngột làm sao, chết uất thôi,
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu”
+ Tố Hữu là nhà thơ chiến sĩ _ thơ ông là thứ thơ trữ tình - chính trị độc đáo. Do đó, nổi lên trong bài thơ này, ta thấy tình yêu đất nước tha thiết và khát khao tự do cháy bỏng của một chiến sĩ cách mạng.
2.2. Sự khác nhau trong thái độ đấu tranh cho tự do ở hai bài thơ
Hai bài thơ đều thể hiện lòng yêu nước và nhất là khát vọng tự do cháy bỏng, nhưng thái độ đấu tranh cho tự do lại hoàn toàn khác nhau.
* Nhớ rừng: con hổ bi quan, buồn bã trước hoàn cảnh tù đày, giải thoát bằng hoài niệm và mơ ước.
- “Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua …”
= > Thái độ chán nản, tuy đầy uất hận nhưng lại bế tắc, buông xuôi trước hoàn cảnh đó. Nó “nằm dài” trong cũi sắt để gặm nhấm “khối căm hờn” đã hóa đá trong lòng.
- Đối mặt với hoàn cảnh ấy, con hổ gửi hồn tìm về quá khứ oai hùng để nhớ tiếc, và nương theo giấc mộng để hồn được phảng phất gần cảnh nước non hùng vĩ xa xôi đó = > cách giải quyết theo tinh thần lãng mạn.
+ “Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Thủa tung hoành hống hách những ngày xưa”
+ “Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,
Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,
- Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!”
* Khi con tu hú: Thái độ quyết liệt, mạnh mẽ, không chịu buông xuôi trước hoàn cảnh. Tình yêu nước và khát khao tự do đã thôi thúc nhân vật trữ tình hành động, đấu tranh để giành lấy tự do.
+ Khổ cuối dồn nén tâm trạng của nhân vật trư tình:
“Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu”
= > Tiếng chim tu hú trở thành tiếng kèn xung trận, hồi trống giục giã tâm hồn con người. Người chiến sĩ khát khao hành động, muốn “đạp tan phòng”, phá vỡ sự giam hãm kia, ra ngoài để bảo vệ sự yên bình, tự do của dân tộc.
+ Cảnh thiên nhiên: bắp ngô, trái cây ngọt chín, tiếng chim tu hú, chim chóc, …
= > hiện thân của cuộc sống tự do mà yên bình, hạnh phúc. Đó là cuộc sống mà nguời chiến sĩ muốn bảo vệ. Dù hoàn cảnh hiện tại là đau khổ, tù đày nhưng không hề khiến anh buồn bã, chán nản, mà nó chỉ càng hun đúc thêm tinh thần chiến đấu sắt thép của anh.
• Lí giải nguyên nhân khác nhau:
+ Thế Lữ là một nhà thơ lãng mạn của trong phong trào Thơ mới 32- 45. Các nhà thơ mới với cái tôi cá nhân còn non trẻ, trước hiện thực nô lệ của nước nhà, họ đi sâu mãi vào cái bản thể, vào thế giới nội tâm để trốn tránh thực tại. Người thoát lên tiên cảnh, người tìm về quá vãng, hay say đắm trong tình yêu, …
Thế Lữ cũng không nằm ngoài xu hướng chung ấy. Với Nhớ rừng, ông không giống nói trực tiếp tâm tư, tình cảm của mình như Tố Hữu mà phải gián tiếp qua lời con hổ trong vườn bách thú. Trước hiện thực phũ phàng, cách giải quyết của ông theo khuynh hướng lãng mạn: là tìm quá khứ và mơ mộng.
+ Tố Hữu: là nhà thơ cách mạng. Vì thế, thơ ông là tiếng nói lạc quan, đậm tính sử thi. Bài thơ Khi con tu hú được sáng tác khi nhà thơ đang trong cảnh tù đầy, nhưng nó không làm bài thơ mang vẻ u sầu, tuyệt vọng. Ngời sáng lên vẫn là tinh thần lạc quan cách mạng, là khát khao tự do cháy bỏng và gắn liền với nó là khát khao hành động để giành lấy tự do:
“Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi”
3. KẾT BÀI
- Khẳng định đây là hai bài thơ hay, thể hiện tinh thần yêu nước của một thế hệ thanh niên trí thức hồi bấy giờ.
- Sự khác nhau trong thái độ tranh đấu cho tự do của tác phẩm góp phần làm nên nét riêng của thơ lãng mạn và thơ cách mạng; đồng thời cho chúng ta thấy phần nào phong cách riêng biệt của mỗi nhà thơ.

Bình luận (0)
Nhók Bướq Bỉnh
22 tháng 9 2016 lúc 13:03

hỏi từng câu 1 thôi pn ei

Bình luận (0)
Nguyễn Dương Mỹ Lệ
7 tháng 2 2017 lúc 12:09

Trong khi từng khắc của dòng thời gian bất tận trôi qua thì xã hội lại từng lúc một phát triển hơn. Từng bước đi lên vững chắc của xã hội chính là nhờ vào kho tàng kiến thức nhân loại đã đúc kết từ bao đời nay, mà sách chính là chiếc cầu tri thức đã nối giữa không gian này với không gian khác, giữa thời đại trước với thời đại sau. Không có cách giải trí nào rẻ hơn đọc sách, cũng không có sự thú vị nào bền lâu hơn đọc sách, cho nên khi nhận định về sách , M.Go-rơ-ki đã nói :”Hãy yêu sách, nó là nguồn kiến thức, chỉ có kiến thức mới là con đường sống”.

Sách là một kho tàng huyền bí làm kích thích sự tò mò của biết bao người . Vậy chính xác thì sách là gì? Sách là những trang giấy ghi lại các sự kiện đời sống, các phát minh khoa học, những diễn biến lịch sử, các kiến thức tự nhiên, các tác phẩm văn học,… của nhân loại. Tóm lại, sách là một kho tàng tri thức vô tận cung cấp cho ta mọi kiến thức trong cuộc sống. Nhưng kiến thức ở đây không chỉ là sự hiểu biết về thế giới xung quanh một cách khoa học mà còn là sự khai tâm mở trí cho tâm hồn con người để cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn. Do đó, sách còn là một phương tiện giúp chúng ta rèn luyện nhân cách con người thông qua các tư tưởng, chân lí đường đời mà lớp người đi trước đã tìm ra được.

Trong giai đoạn xã hội phát triển với tốc độ nhanh như hiện nay thì tri thức con người là tiền đề vô cùng quan trọng. Mà "không có sách thì không có tri thức", ngoài việc học ở trường lớp thì thực tế, sách là người bạn không thể thiếu của con người giúp chúng ta nâng cao trí thức lẫn nhân cách. Sách mở mang trí tuệ, hiểu biết cho ta, dẫn dắt ta vào những bí ẩn sâu sắc của thế giới xung quanh: từ sông ngòi, rừng núi cho tới vũ trụ bao la. Sách đưa ta vào thế giới cụa lớn như thiên hà, cực nhỏ như các hạt vật chất. Sách có sức sống phi thường vượt qua mọi giới hạn về không gian và thời gian đứa ta “trở về quá khứ”, tìm đến những biến cố lịch sử, những cuộc đấu tranh ác chiến của các triều đại xưa. Hoặc chắp cánh cho ta tưởng tượng tới ngày mai hoặc giúp ta hiểu sâu hơn hiện tại. Sách văn học đưa ta vào một thế giới của những tâm hồn con người đủ các thời đại để ta thông cảm với những cuộc đời, chia sẻ những niềm vui, nỗi đau dân tộc và nhân loại. Sách không chỉ giúp mở mang kiến thức mà con đem đến nguồn hạnh phúc,sự thanh thản cho tâm hồn. Chính nhờ có sách mà đôi khi, con người ta khám phá ra sức mạnh của bản thân, tìm ra chân lí thiết thực cho con đường đời của chinh mình, mở rộng thêm tầm hiểu biết về thế giới xung quanh,... Thực tế trong những trang sử nhân loại đã chứng minh được điều đó. Nhiều nhà phát minh, Bác học trên thế giới cũng thành công qua việc tự học, tự mài mò qua sách như Êđixơn, An-be Anh-xtanh,... Hay chính vị lãnh tụ vĩ đại của nước Việt Nam ta- Chủ tịch Hồ Chí Minh qua việc chịu khó đọc sách, đã phát hiện và ứng dụng chủ nghĩa Mác lê-nin vào con đường giải phóng dân tộc, cuối cùng đã thành công, giúp dân ta thoát khỏi cảnh nô lệ. Đó chẳng phải đều là những nhân chứng hùng hồn cho câu nói của M. Go-rơ-ki: :”Hãy yêu sách, nó là nguồn kiến thức, chỉ có kiến thức mới là con đường sống”. Từ đó ta thấy mỗi cuốn sách đều là một bậc thang nhỏ đưa ta tới gần quan niệm về cuộc sống tốt đẹp nhất.

Với vai trò lớn lao như thế, ta thấy sách là một vật nhỏ bé nhưng vĩ đại. Thế mà trong xã hội ngày nay, không ít những thành phần lười đọc sách, khinh chê và không tôn trọng sách. Họ không biết rằng sách chứa đựng kiến thức, kiến thức lại bao bọc thành công. Không một ai bước đi trên con đường thành đạt mà không song hành cùng kiến thức. Không có kiến thức, con người sẽ trở nên vô dụng, lạc hậu, thấp kém trong một xã hội hiện đại hóa như bây giờ. Thế giới này sẽ ra sao nếu không có sách, không có kiến thức? Mọi thứ sẽ bước vào một thời kì tăm tối của sự ngu ***. Lúc này chỉ có kiến thức mới là chiếc chìa khóa mở ra cánh cửa tương lai tốt đẹp, là con đường sống duy nhất của con người.

Sách là cây đèn thần soi sáng cho con người trên những nẻo đường xa xôi nhất và tăm tối nhất của cuộc đời. Vì vậy ta phải yêu sách. Phải chăm chỉ đọc sách mà thực sự hiểu nó, đam mê nó. Tuy nhiên, ta cần chọn lọc ra những kiến thức hữu dụng và đúng đắn- Một cuốn sách tốt mở ra thì gợi niềm hy vọng, khép lại thì đem lại điều hữu ích. Bên cạnh đó chúng ta cũng cần biến những kiến thức trong sách vở thành thực tế qua thực hành ứng dụng vào thực tiển cuộc sống. Quan trọng là thái độ của chúng ta đối với sách, cần yêu quý, giữ gìn và nâng niu sách như một báu vật.

Quả thật câu nói của M.Go-rơ-ki là một lời khuyên vô cùng chính xác. Sách đúng là kho tàng trí tuệ của nhân loại là giá trị vô giá của loài ngươi. Tuy sách rất quí nhưng không tự đến với con người mà con người phải tìm lấy sách để đọc. Chỉ có việc đọc sách mới đưa con người đến một tương lai tươi sáng và tốt đẹp hơn.

Bình luận (0)
Thùy Trang
Xem chi tiết
Anh PVP
31 tháng 3 2023 lúc 20:56

nek bn

1/ Mở bài: giới thiệu vấn đề, giới thiệu bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của nhà thơ Thanh Hải. 2/ Thân bài: 2.1. Giải thích: - Nghệ thuật: Là những đặc sắc về hình thức (ngôn ngữ, hình ảnh, giọng điệu...) - Trái tim: Là thế giới của đời sống tâm hồn, tình cảm, tâm nguyện... với những rung động thẩm mĩ nhạy cảm thể hiện thiên chức của người nghệ sĩ. - Để có những bài thơ hay đòi hỏi người nghệ sĩ vừa phải có tài, vừa phải có tâm. =>Đây là ý kiến nhằm khẳng định, đề cao thiên chức của nhà văn và quá trình sáng tạo nghệ thuật. 2.2. Làm sáng tỏ qua Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải: - Những đặc sắc về nghệ thuật: thể thơ năm tiếng, nhạc điệu trong sáng, tha thiết, hình ảnh thơ đẹp, giản dị, sáng tạo... - "Trái tim" của thi sĩ: mặc dù sống những ngày tháng cuối cùng của cuộc đời trên giường bệnh nhưng tiếng lòng nhà thơ vẫn tha thiết yêu mến và gắn bó với thiên nhiên, đất nước, với cuộc đời; ước nguyện chân thành được cống hiến, được góp một "mùa xuân nho nhỏ" vào mùa xuân lớn của dân tộc... 2.3. Đánh giá: - Mùa xuân nho nhỏ là một bài thơ vừa đặc sắc về nghệ thuật, vừa tiêu biểu cho "trái tim" của nhà thơ. -Ý kiến của Andre Chenien giúp ta cảm nhận sâu sắc và trân trọng tài năng, trái tim của người nghệ sĩ... 3/ Kết bài: Khẳng định vấn đề.

Bình luận (0)