Hướng dẫn soạn bài Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh

Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài
Nguyễn Thế Bảo
30 tháng 4 2016 lúc 14:17

Dùng nhiệt kế để cân đong đo đếm độ nóng lạnh hay bình thường trong môi trường không khí gọi là nhiệt độ không khí.

Chúc bạn học tốt!hihi

ncjocsnoev
30 tháng 4 2016 lúc 14:31

Nhiệt độ không khí là nhiệt độ mặt đất hấp thụ từ mặt trời và bức xạ vào không khí → không khí nóng hoặc lạnh.

Cao Huệ Sang
30 tháng 4 2016 lúc 18:59

mình biết r k cần trl nữa

Cao Huệ Sang
Xem chi tiết
Takani Taichi
30 tháng 4 2016 lúc 20:37

Câu A 

ncjocsnoev
30 tháng 4 2016 lúc 23:23

 

Khúc Thừa Dụ dựng quyền tự chủ trong hoàn cảnh: Nhà Đường suy yếu.

Võ Thị Mỹ Duyên
1 tháng 5 2016 lúc 6:36

Khúc Thừa Dụ dựng quyền tự chủ trong hoàn cảnh: ​Nhà Đường suy yếu.

Cao Huệ Sang
Xem chi tiết
Trịnh Như Quỳnh
30 tháng 4 2016 lúc 20:32

905

 

ncjocsnoev
30 tháng 4 2016 lúc 23:22

 

Khúc Thừa Dụ tự xưng là Tiết lộ xứ năm 905.

Võ Thị Mỹ Duyên
1 tháng 5 2016 lúc 6:37

 

Khúc Thừa Dụ tự xưng là Tiết độ xứ năm 905

 

Cao Huệ Sang
Xem chi tiết
Takani Taichi
30 tháng 4 2016 lúc 20:37

Vua Đường buộc phải phong tiết độ sứ an nam đô hộ cho khúc thừa dụ vào ngày 7 tháng 2 năm 906

 
ncjocsnoev
30 tháng 4 2016 lúc 23:21

 

Vua Đường buộc phải phong tiết lộ sứ an nam đô hộ cho Khúc Thừa Dụ vào năm 906 , tháng 2 , ngày 7.

Võ Thị Mỹ Duyên
1 tháng 5 2016 lúc 6:39

 

Vua Đường buộc phải phong tiết độ sứ An nam đô hộ cho khúc thừa dụ năm 906, tháng 2, ngày 7

 

trinhnguyen
Xem chi tiết
Nguyễn Minh Anh
1 tháng 5 2016 lúc 11:10

Dương Đình Nghệ tự xưng là Tiết độ sứ, tiếp tục xây dựng nền tự chủ của nước ta vào năm 905

ncjocsnoev
1 tháng 5 2016 lúc 11:11

 

Dương Đình Nghệ tự xưng là Tiết độ sứ, tiếp tục xây dựng nền tự chủ của nước ta vào năm  905.

Nguyễn Minh Anh
1 tháng 5 2016 lúc 11:14

mình trả lời trước, tick cho mình nha

Nguyễn Thu Hằng
Xem chi tiết
Nguyễn Tâm Như
5 tháng 5 2016 lúc 13:24

Cây điệp già xòe rộng tán yêu thương 
Lá lấp lánh cười duyên cùng bóng nắng 
Giờ đang học, mảng sân vuông lặng vắng 
Chim chuyền cành buông tiếng lạnh bâng qươ. 

Chúng em ngồi nghe thầy giảng bình thơ 
Nắng ghé theo chồm lên ngồi bệ cửa 
Và cả gió cũng biết mê thơ nữa 
Thổi thoảng vào mát ngọt giọng thầy ngâm. 

Cả lớp say theo từng nhịp bổng trầm 
Điệp từng bông vàng ngây rơi xoay tít 
Ngày vẫn xuân, chim từng đôi ríu rít 
Sà xuống sân tắm nắng ấm màu xanh 

Em ngồi yên uống suối mật trong lành 
Thời gian như dừng trôi không bước nữa 
Không gian cũng nằm yên không dám cựa 
Ngại ngoài kia nắng ấm sẽ thôi vàng 

Sân trường căng rộng ngực đến thênh thang 
Kiêu hãng khoe trên mình màu nắng ấm 
Lời thơ thầy vẫn nhịp nhàng sâu lắng 
Nắng ấm hơn nhờ giọng ấm của người..

Nguyễn Thu Trà
5 tháng 5 2016 lúc 21:32
Trường cũ Đã lâu rồi không về thăm trường cũNhớ hàng cây nhớ ghế đá thân thươngNhớ thầy cô nhớ những buổi tan trườngNhớ lớp học ôi vô vàn thương nhớThời gian ơi xin hãy quay trở lạiMang em về kỷ niệm dấu yêuNgồi nơi đây mà nhớ lại bao điềuThầy cô đã mở đường em tiếp bướcNgày hôm nay những gì em có đượcNhờ thầy cô vun đắp kiến thức emThầy trồng cây cho bóng mát sau nàyCô ươm trái cho vườn xanh tươi mãiNgày xưa ơi nhớ những ngày thơ dạiVẫn có thầy và bạn mãi bên ta.
Thạch Bùi Việt Hà
20 tháng 10 2016 lúc 15:44

Cơn gió vô tình thổi mạnh sáng nay
Con bỗng thấy tóc thầy bạc trắng
Cứ tự nhủ rằng đó là bụi phấn
Mà sao lòng xao xuyến mãi không nguôi
Bao năm rồi ? Đã bao năm rồi hở ? Thầy ơi ...
Lớp học trò ra đi, còn thầy ở lại
Mái chèo đó là những viên phấn trắng
Và thầy là người đưa đò cần mẫn
Cho chúng con định hướng tương lai

Thời gian ơi xin dừng lại đừng trôi
Cho chúng con khoanh tay cúi đầu lần nữa
Gọi tiếng thầy với tất cả tin yêu ...

trannguyen
Xem chi tiết
Trần Thị Ngọc Ánh
7 tháng 11 2016 lúc 6:03

Cô ơi

Rời mái trường thân yêu
Bao năm rồi cô nhỉ?
Trong em luôn đọng lại
Lời dạy bảo của cô

Ngày ấy vào mùa thu
Bước chân em rộn rã...
Cô không lời từ giã
Xa trường tự lúc nào

Em ngỡ như chiêm bao
Cô về đâu, chẳng biết?
Vẫn vang lời tha thiết
Từ giọng cô dịu hiền

Thời gian bước triền miên
Cô chưa lần quay lại
Chúng em nhớ cô mãi
Mong thấy cô trở về

Lúc xưa cô vỗ về...
Nay chúng em khôn lớn
Ngày rời trường gần đến
Bao giờ gặp lại cô?



 

Nguyễn Xuân Yến Nhi
Xem chi tiết
Thảo Phương
9 tháng 10 2016 lúc 10:11

Tuy là một bài thơ ngắn chỉ 4 câu nhưng ở Trung Quốc hiểu tường tận bài thơ này vẫn có những ý kiến chưa thống nhất. Trước hết về thời gian sáng tác bài thơ này các sách đều ghi là “không xác định” chỉ biết Lý Bạch ban ngày đi chơi, ban đêm ngủ nhìn trăng sáng rồi nhớ quê hương như tứ một câu thơ của Đỗ Phủ “nguyệt thị cố hương mình” .Bài thơ mặc dù tác giả, cảnh và người là Trung Quốc nhưng nó được người dạy, học trong nhà trường phổ thông Việt Nam cảm nhận sâu sắc, có tác dụng trong việc giáo dục tình cảm yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước trong mỗi người Việt Nam.

Lê Dung
9 tháng 10 2016 lúc 10:09
Trong chương trình ngữ văn THCS có giảng hai bài thơ Đường ngắn của Lý Bạch (701-762) là bài Vọng Lư sơn bộc bốvà Tĩnh dạ tư. Bài Vọng Lư sơn bộc bố đơn giản, dễ hiểu ai nấy đều thống nhất. Riêng bài Tĩnh dạ tư tuy ngắn nhưng ở Việt Nam có vài điểm còn phân vân là đầu đề bài thơ nên đọc là Tĩnh dạ tứ hay Tĩnh dạ tư? Từ “tư” có 3 nghĩa là “suy nghĩ, nhớ nhung và ý tứ”.Ở đây phải đọc là Tĩnh dạ tư(Tưởng nhớ trong đêm yên tĩnh). Sách giáo khoa dịch làCảm nghĩ trong đêm yên tĩnh tuy chưa sát nhưng cũng được. Vì vậy không đọc là Tĩnh dạ tứ. Ở Trung Quốc bài thơ này rất nổi tiếng, từ trước đến nay trong các sách Đường thi nhất bách thủ, Đường thi tam bách thủhay Thiên gia thi đều có bài Tĩnh dạ tư của Lý Bạch và được coi là “vô ý vô công vô bất công” (không khéo mà không phải không khéo) hay “xảo tuyệt cố kim” (tuyệt diệu xưa nay) như lời Hồ Ứng Lân đời Minh đã nói.1. Tuy là một bài thơ ngắn chỉ 4 câu nhưng ở Trung Quốc hiểu tường tận bài thơ này vẫn có những ý kiến chưa thống nhất. Trước hết về thời gian sáng tác bài thơ này các sách đều ghi là “không xác định” chỉ biết Lý Bạch ban ngày đi chơi, ban đêm ngủ nhìn trăng sáng rồi nhớ quê hương như tứ một câu thơ của Đỗ Phủ “nguyệt thị cố hương mình” (trăng là ánh sáng của quê hương) hay “vọng nguyệt tư hương” (ngắm trăng nhớ quê). Nguyên văn bài thơ bằng chữ Hán như sau: Sàng tiền minh nguyệt quang/ Nghi thị địa thượng sương/ Cử đầu vọng minh nguyệt/ Đê đầu tư cố hương. Dịch thơ: Đầu giường ánh trăng rọi/ Ngỡ mặt đất phủ sương/ Ngẩng đầu nhìn trăng sáng/ Cúi đầu nhớ cố hương (Tương Như dịch).Mặc dù câu thơ đầu của bài thơ các bản thơ Đường đều chép là “Sàng tiền minh nguyệt quang” nhưng có người cho rằng không phải “minh nguyệt quang” (ánh trăng sáng) mà là “sơn nguyệt quang” (trăng sáng trên núi) vì dựa vào bài thơ Quan sơn nguyệt (Trăng nơi cửa ải) của Lý Bạch mà suy đoán như vậy. Riêng chữ “sàng” (giường) có nhiều ý kiến tranh luận rất khác nhau. Cuộc tranh luận bắt đầu từ những năm 80 của thế kỷ trước trên những tạp chí ngữ văn.Dưới đầu đề “ý kiến nhỏ về chữ “sàng” đăng trên tạp chí Ngữ Văn Nguyệt San số tháng 11-1984, tác giả đã giải thích chữ “sàng” trong bài Tĩnh dạ tưcủa Lý Bạch không phải là “giường nằm” mà là “đắng” có nghĩa là “ghế ngồi” (ghế không có tựa). Sở dĩ tác giả bài báo giải thích từ “sàng” là “ghế ngồi” vì trong Từ thư giải thích chữ “sàng” là “tọa cụ” (vật dụng để ngồi). Vì vậy câu thơ “Sàng tiền minh nguyệt quang, nghi thị địa thượng sương” có nghĩa là “trước ghế ánh trăng rọi, ngỡ mặt đất phủ sương” chứ không thể hiểu là “đầu giường ánh trăng rọi, ngỡ mặt đất phủ sương”. Nếu như chữ “sàng” mà hiểu là giường Lý Bạch nằm ngủ thì ông không thể tỉnh dậy để “ngẩng đầu” (cử đầu) và “cúi đầu” (đê đầu). Trong bài “Sàng” trong câu “Sàng tiều minh nguyệt quang” cuối cùng là “vật gì”? đăng trong tạp chí Học Tập Ngữ Văn số tháng 2-1994, tác giả bài viết cho rằng: “Sàng” là một loại “ghế ngồi” vì cùng dựa vào Từ thư giải thích. Tác giả lý luận “nó là một loại ghế sau đời Hán từ Tây vực truyền nhập vào thường gọi là “Hồ sàng”. Hồ là một ngoại tộc của Trung Quốc thời xưa vùng phía Tây. “Hồ sàng” là “ghế của người Hồ”. Loại ghế người Hồ thường dùng này đến thời nhà Nguyên thì phổ biến rộng rãi, đến thời kỳ lịch sử hòa nhập lớn như đời nhà Đường thì được sử dụng nhiều. Trong bài Giải thích chữ “sàng” đăng trên tạp chí Tri Thức Ngữ Văn số tháng 1 năm 1997 tác giả cho rằng: “Lấy chữ “sàng” trong thơ coi là chữ  chỉ “chiếc giường nằm ngủ” thì “thật là một sai lầm lớn”. Tác giả cho rằng nếu như nằm trên giường thì làm thế nào nhìn thấy ánh trăng sáng trên mặt đất rồi sau đó “ngẩng đầu” và “cúi đầu”. Cuối cùng tác giả cho rằng chữ “sàng” nên giải thích là “tỉnh sàng” là một loại “giường giếng”. Loại “tỉnh sàng” thường gọi là “lô lộc sàng” (loại giường lộc cộc)… Ngày nay ở nông thôn vùng Lỗ Bắc, Đại Nam (Trung Quốc) vẫn còn dùng loại giường thô sơ này.2. Quan điểm của các tác giả trên đây đều dựa vào chữ “sàng” có 3 ý nghĩa: Đó là chỉ “giường” nằm (ngọa cụ), “ghế” ngồi (tọa cụ) và “lan can giếng” (Tỉnh lan). Vì vậy chữ “sàng” trong bài thơ Tĩnh dạ tư của Lý Bạch chỉ còn lại hai nghĩa mà nhiều người thống nhất, đó là “giường” nằm (ngọa cụ) hay “ghế” ngồi (tọa cụ). Giữa “giường” nằm hay “ghế” ngồi thì đa số ý kiến vẫn cho rằng chữ “sàng” mà Lý Bạch dùng trong bài Tĩnh dạ tư là chữ “giường” nằm và đương nhiên Lý Bạch nằm trên giường để “ngẩng đầu” và “cúi đầu” thì cũng khó khăn, do đó cách lý giải này cũng không thỏa đáng. Vì vậy giải thích nghĩa của chữ “sàng” là vật dùng để nằm là sai. Một tác giả khác cho rằng động tác “ngẩng đầu” và “cúi đầu” không liên quan gì đến “giường nằm” (ngọa cụ), “ghế ngồi” (tọa cụ) và “lan can giếng” (tỉnh lan).Nếu giải thích “sàng” là giường nằm thì thiếu ý vị, vì lúc đó Lý Bạch đang ngủ và không liên tưởng gì đến trăng sáng, sương rơi trên mặt đất. Nếu giải thích “sàng” là ghế ngồi thì lúc đó Lý Bạch chưa nằm có thể là đang đứng trong nhà hay đi lại và cũng có thể ngồi trên ghế tựa mà “tức cảnh sinh tình” ngẩng đầu nhìn trăng sáng, cúi đầu nhớ cố hương”. Nếu như tưởng tượng Lý Bạch nằm ngủ trên giường thì cũng có thể lúc đó ông không chợp mắt và đi ra ngoài. Như vậy “ngẩng đầu” và “cúi đầu” là một biểu hiện tâm tư tự nhiên. Ở đây cần lưu ý đến yếu tố không gian và thời gian trong bài thơ. Liên hệ với bài Tuyệt cú của Đỗ Phủ để hiểu rõ hơn về vấn đề này. Nguyên văn bài Tuyệt cú của Đỗ Phủ như sau: Lưỡng cá hoàng mi minh thúy liễu/ Nhất hàng bạch lộ thướng thanh thiên/ Song hàm Tây Lĩnh thiên thu tuyết/ Môn bạc Đông Ngô vạn lý thuyền. Dịch thơ:Hai cái oanh vàng kêu liễu biếc/ Một hàng cò trắng vút trời xanh/ Nghìn năm tuyết núi song in sắc/ Muôn dặm thuyền Ngô cửa rập rình. (Tản Đà)Để miêu tả không gian, thời gian Đỗ Phủ nói đến “môn” (cửa), “bạc” (đậu) và “thuyền” (con thuyền). Trở lại bài thơ Tĩnh dạ tư của Lý Bạch cũng có mối liên hệ do không gian và thời gian như thế, đó là trăng sáng và sương rọi trên mặt đất.3. Cho dù “sàng” giải thích nghĩa của nó là “giường”, “ghế”, “lan can giếng” và Lý Bạch đi, đứng, ngồi, nằm thì vẫn không có liên quan gì đến động tác “ngẩng đầu” và “cúi đầu” để “nhớ cố hương”. Vì vậy, ý kiến tranh luận về chữ “sàng” trong bài Tĩnh dạ tư của Lý Bạch được tạm chấp nhận là “sàng” mà tác giả đặt bút xuống viết có nghĩa là “giường” nằm (ngọa cụ) với tư thế “nằm” rồi bất chợt nhìn lên thấy trăng sáng, cúi xuống thì thấy sương rơi trên mặt đất, để rồi “nhớ cố hương” (tư cố hương). Chữ “tư” (nhớ) ở câu cuối bài càng khẳng định đầu đề của bài Tĩnh dạ tư và đọc như thế là đúng. “Ý tại ngôn ngoại” của thơ Đường là vậy, dễ và khó cả ý lẫn lời. Mặc dù các nhà nghiên cứu Trung Quốc tranh luận như thế nhưng xét về nội dung và hình thức bài Tĩnh dạ tư của Lý Bạch trong sách giáo khoa từ trước đến nay người dạy và người học hiểu như thế là đúng. Bài thơ mặc dù tác giả, cảnh và người là Trung Quốc nhưng nó được người dạy, học trong nhà trường phổ thông Việt Nam cảm nhận sâu sắc, có tác dụng trong việc giáo dục tình cảm yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước trong mỗi người Việt Nam.
Lê Dung
9 tháng 10 2016 lúc 10:13

Thơ Đường là thành tựu tiêu biểu nhất của văn học Trung Quốc. Mọi phương diện của nó đều đạt đến trình độ cổ điển. Thi pháp thơ Đường tiêu biểu cho thi pháp thơ cổ điển của Trung Quốc. Do đó nó rất đa dạng, phong phú, phức tạp và sâu sắc. Vì vậy hiểu được nó một cách thâu đáo là một việc khó chưa nói đến việc giảng dạy như thế nào để học sinh cảm thụ được. Tôi nghĩ đó là vấn đề mà giáo viên đứng lớp như chúng tôi rất trăn trở. Với kiến thức hạn hẹp và với sự giúp đỡ của các thầy, cô giáo đồng nghiệp tôi có một số vấn đề muốn trao đổi về việc giảng dạy thơ Đường. Thơ Đường phản ánh một cách toàn diện xã hội đời Đường, thể hiện quan niệm nhận thức, tâm tư, .. của con người đời Đường một cách sâu sắc. Nội dung phong phú được thể hiện bằng hình thức thơ hoàn mỹ. Thành tựu trên các phương diện của thơ Đường đều đạt đến đỉnh cao. Thơ Đường là sự kế thừa và phát triển cao độ thơ ca cổ điển Trung Quốc. Nó là tập “Đại thành” cho nên những phương diện của thi pháp thơ cổ điển của Trung Quốc rất tiêu biểu. Thơ Đường rất phong phú cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Nhưng điều tôi trình baỳ ở đây chỉ là vài suy nghĩ của cá nhân về “một số phương pháp giảng dạy thơ Đường ở trường THPT”. Bộ phận văn học nước ngoài nói chung và thơ Đường nói riêng ở trường THPT là một mảng khó dạy đối với giáo viên. ở trường ĐH việc giảng dạy được chuyên môn hoá cao độ. Mỗi người chỉ phụ trách mỗi nền văn học. Thậm chí là một giai đoạn của chương trình nên có điều kiện đi sâu nắm bắt được chương trình Trong khi đó ở các trường THPT - chúng tôi những người giáo viên Ngữ văn phải đảm đương văn học Việt Nam lẫn văn học nước ngoài, vì vậy sẽ còn nhiều lúng túng khi giảng dạy cho học sinh đặc biệt với một giáo viên vừa ra trường như tôi làm sao có thể làm chủ văn học nước ngoài, mà đặc biệt là thơ Đường. Hàng rào ngôn ngữ đã là một trở ngại. Đã thế chương trình Ngữ văn THPT trong những năm gần đây có nhiều đổi mới qua đợt cải cách giáo dục, phân môn Văn học có nhiều bài khó nhưng chỉ dạy trong một tiết, thậm chí hai bài dạy chỉ trong một tiết...nên lại càng thêm khó khăn.. Trước tình hình ấy, để khắc phục những khó khăn đã nêu trên và đáp ứng yêu cầu giảng dạy. Tất nhiên giáo viên phải tìm hiểu bổ sung thêm kiến thức từ các sách nghiên cứu, đi sâu vào bài giảng để soạn giáo án và giảng dạy hướng dẫn học sinh học tập được tốt hơn. Thơ Đường là thành tựu rực rỡ nhất cuả văn học đời Đường (từ thế kỷ VII đến thế kỷ X) là một trong những thành tựu tiêu biểu của thơ cổ điển Trung Quốc, đồng thời là của nhân loại. Đối với lịch sử văn học, thơ Đường ra đời trước nền văn học trung đại Việt Nam gần 3 thế kỷ. Đối với bạn đọc Việt Nam, nhất là học sinh THPT, thơ Đường vừa là sản phẩm tinh thần vừa xa về khoảng cách thời gian vừa xưa về mặt ngôn từ..Nhưng học thơ Đưòng không phải chỉ chiêm ngưỡng các sản phẩm “cổ vật” mà chúng ta vẫn hiểu được tiếng nói của người xưa và vẫn rung cảm trước những tâm hồn cao đẹp. Việc đưa thơ Đường vào chương trình dạy học ở trường phổ thông không phải là vấn đề mới lạ với chúng ta. Song cái mói mà chúng ta thấy được đối tượng tiếp nhận. Sách giáo khoa Ngữ văn trung học đã đưa vào chương trình một lượng không nhiều, song tiếp nhận thơ Đường đối với lứa tuổi trung học thì quả là điều không hề đơn giản. Trong khi thơ Đường vốn rất hàm súc, nói ít gợi, ý tại ngôn ngoại, vừa có tính ước lệ, cổ kính, trang nghiêm, vừa có tính chặt chẽ niêm luật của thể loại. Chính vì vậy người giáo viên là chiếc cầu nối giúp các em cảm nhận được thơ Đường - một thành tựu của thơ ca nhân loại. II. NỘI DUNG: 1. Dịch nghĩa từ phiên âm sang tiếng Việt, đối chiếu dịch nghĩa, dịch thơ với phiên âm: Để giúp các em hiểu được văn bản, phân tích và cảm thụ văn bản thì giáo viên giúp học sinh dịch nghĩa từ phiên âm sang tiếng Việt. Hiểu nghĩa từng chữ trong nguyên bản, sau đó dịch nghĩa từng câu. Từ đó cho học sinh đối chiếu bản phiên âm dịch nghĩa và dịch thơ. Như vậy học sinh sẽ tích luỹ được vốn Hán - Việt,hiểu được nghĩa gốc cũng là điều kiện để xuất phát khám phá ra nội dung bên trong. Chẳng hạn khi phân tích bài thơ “Vọng lư sơn bộc bố” của Lí Bạch. “Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên Dan khan bộc bố quải tiền xuyên” (Nắng rọi Hương Lô khói tía bay Xa trônng dòng thác trước song này) Qua sự đối chiếu, giáo viên cho học sinh thấy được bản dịch thơ chưa sát nghĩa. Ơ câu một đã bỏ mất từ “sinh” làm cho quan hệ nhân quả của câu thơ trở nên mờ nhạt đi, làm cho tích chất gợi cảm không còn. Núi Hương Lô được mặt trời chiếu sáng làm nảy sinh làn khói tía, là một cảnh tượng hùng vĩ, rực rỡ và lộng lẫy. Với động từ “sinh” này dường như khi ánh mặt trời xuất hiện thì mọi vật sinh sôi nảy nở. Ơ câu hai, bản dịch thơ bỏ mất từ “quải”(treo) nên ấn tượng cho hình ảnh dòng thác gợi ra trở nên mờ nhạt và ảo giác về dải Ngân hà ở câu cuối cũng trở nên thiếu cơ sở. Nếu dịch được từ “quải” thì sẽ làm cho dòng thác trở nên sinh động hơn rất nhiều. Ở bài: “Tại Lầu Hoàng Hạc Tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng” “Cố nhân tây từ Hoàng Hạc Lâu’’ (Bạn từ Lầu Hạc lên đường), bản dịch nghĩa là “bạn cũ” nhưng ở phần dịch thơ chỉ còn là “bạn”. Điều đó chứng tỏ bản dịch thơ chưa chuyển tải hết ý thơ. Thơ xưa hay nói tới cố, cũ với tất cả sự gắn bó hoài niệm. Đó là cố hương, cố quốc, cố tri… và đây là “cố nhân” nó gói ghém trong đó bao nhiêu tình cảm quý trọng, thương mến của tác giả đối với Mạnh Hạo Nhiên. Chắc chắn hai người đã có một tình bạn tri ân, tri kỷ lắm rồi. Thực ra “Cô phàm” mà dịch là “cánh buồm”, “bích không tận” dịch là “bầu không” thì sự lẻ loi của cánh buồm và màu xanh bao la gợi cảm đã bị đánh mất. Chứng tỏ bản dịch thơ chỉ thông báo cho biết sự việc đã xảy ra còn nguyên tác với cách miêu tả đối lập vẻ như nhỏ bé, cô đơn của cánh buồm, với sự mênh mông, choáng ngợp của dòng sông, vẻ tỉnh lặng của màu xanh dòng Trường Giang. Trong bài thơ “Thu hứng”: Hai câu thơ đầu tả khung cảnh thu ở Quỳ Châu với các hình ảnh: sương móc trắng xoá làm tiêu điều, tang thương cả rừng phong. Từ núi Vu đến kẽm Vu, hơi thu hiu hắt, ảm đạm. (Bản dịch thơ đã chưa chọn ý hai từ “điêu thương” và “ tiêu sâm”). Tác giả miêu tả cảnh thu ở ba chiều không gian. + Chiều dài, rộng: Rừng phong + Chiều cao: núi Vu + Chiều sâu: Kẽm Vu (bản dịch thơ đã bỏ mất “Vu giáp”) Điều đó cho thấy tính chất tiêu điều, hiu hắt, bi thương lan toả khắp không gian, khác với không khí mơ màng của mùa thu thường thấy trong thơ ca truyền thống. Nhưng ở bài “Tĩnh dạ tứ” của Lí Bạch “Sáng tiền minh nguyệt quang Nghi thi địa thượng sương” (Đầu giường ánh trăng rọi Ngỡ mặc đất phủ sương) thì hai câu đầu nguyên văn chỉ có một động từ “nghi”(ngỡ) nhưng trong bản dịch thơ lại thêm hai động từ “rọi” và “phủ” làm cho chủ thể trữ tình bị mờ nhạt nên nhiều người lầm tưởng hai câu đầu chỉ chủ yếu là thuần tuý tả cảnh. 2. Giới thiệu kỹ thân thế của tác giả và hoàn cảnh ra đời cuả tác phẩm: Phân tích thơ trước hết phải bám vào ngôn từ của tác phẩm, tuy nhiên có nhiều trường hợp hiểu thân thế của tác giả và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm có thể giúp ích rất nhiều trong việc phân tích, cảm thụ cũng như xác định ý nghĩa giá trị của tác phẩm. Ví dụ: Đỗ Phủ làm thơ khi 7 tuổi, để lại trên 1400 bài thơ. “Thu hứng” là bài thơ mở đầu cho chùm thơ thu gồm 8 bài. Bài thơ được coi như “cương lĩnh sáng tác” cho 7 bài sau. Thời gian này Đỗ Phủ từ quan nhưng không về quê nhà được vì Hà Nam là nơi tranh chấp lúc ở Thành Đô lúc lại Quỳ Châu, thương tiếc và lo lắng, với “Nỗi lòng quê cũ” nhà thơ đã viết chùm “Thu hứng” (8 bài).Hoặc là Thôi Hiệu qua tác phẩm Hoàng Hạc Lâu, đỗ tiến sĩ năm 725. Và một ngày nọ ông đặt chân tới góc thành Tây Nam huyện Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc, ông thả bộ lên Lầu Hoàng Hạc. Bài thơ này tức cảnh sinh tình. Có thể xem bài thơ Hoàng Hạc Lâu là một “quả lạ trái mùa”. Trong tác phẩm “Hồi hương ngẫu thư” của Hạ Tri Chương. Ông đậu tiến sĩ, làm quan trên 50 năm dưới triều vua Đường Huyền Tông . Từ lúc trai trẻ đến năm 744 (tức là 86t), ông mới cáo quan trở về quê hương trong sự lưu lưyến của vua và bạn bè ở kinh thành. Với nhan đề “Ngẫu thư” (ngẫu nhiên viết) tức là tác giả không chủ định làm thơ ngay lúc đặt chân đến quê nhà, không chủ đích viết nhưng sao lại viết, bởi vì ở cuối bài thơ tác giả đã bị bọn trẻ làng gọi là là “khách”. Đó là “cú sốc” với tác giả nhưng lại là duyên cớ để tác giả viết bài thơ này. Ân đằng sau duyên cớ đó là tình cảm yêu quê hương luôn thường trực và bất cứ lúc nào cũng được thổ lộ. Hoặc với nhà thơ Lí Bạch, giáo viên dẫn dắt giới thiệu: Ông là người thông minh, biết làm thơ từ thưở nhỏ, giao du rộng rãi, thạo kiếm thuật. Từ trẻ ông đã xa gia đình đi du ngoạn tìm đường lập công danh sự nghiệp. Chính vì điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến phong cách thơ của ông: một tâm hồn phóng khoáng, tự do, hình ảnh thơ tươi sáng kỳ vĩ. 3. Chọn lọc một số chi tiết để phân tích và bình giá: Khi phân tích nên chọn một số chi tiết để bình giá và nâng cao Chẳng hạn trong bài thơ “Vọng Lư sơn bộc bố” (Xa ngắm thác núi Lư), chúng ta phải phân tích kĩ từ “quãi”(treo). Nhìn dòng thác từ xa, tác giả thấy như tấm lụa đào treo trước dòng sông, người Trung Quốc coi từ “quãi” là “nhãn tự”, bởi vì nó đã biến cảnh vật từ động sang tĩnh, dóng thác ầm ầm đổ xuống núi đã biến thành một dãi lụa trắng rũ xuống yên ắng và bất động, được treo lên giữa khoảng vách núi và dòng sông, một vẻ đẹp thiên nhiên vô cùng kì ảo., và tráng lệ. Phân tích sự thành công của tác giả trong việc dùng từ”nghi” (ngỡ), “lạc” (rơi xuống) và hình ảnh của dãi Ngân hà. Ngỡ là biết sự thật không phải vậy (làm sao vừa có cả mặt trời có cả dòng ngân hà) mà vẫn tin là có thật. Chữ “lạc” cũng dùng rất đắt vì dòng ngân hà vốn nằm theo chiều vắt ngang qua bầu trời, còn dòng thác lại đổ theo chiều thẳng đứng. Trong bài thơ, “Hoàng Hạc Lâu” của Thôi Hiệu khi phân tích chúng ta chú ý đến chữ “sầu” kết thúc bài thơ nhưng mở ra một tâm trạng, một nỗi lòng, một nỗi sầu dằng dặc. Từ “sầu” diễn tả nỗi sầu triền miên, nặng nề của người khách xa nhà trước cảnh mây khói mịt mùng. Khi phân tích bài thơ, “Tì bà hành” của Bạch Cư Dị, chúng ta chú ý phương diện miêu tả tiếng đàn. Tác giả miêu tả ba lần gảy đàn của người ca nữ một cách hợp lý. + Lần đầu: Không tả cụ thể vì nghe xa. + Lần thứ hai: Tả nhiều, tả kỷ vì giữa nhà thơ và người nghệ sỹ đã tìm thấy tiếng nói tri âm, đồng cảm sâu sắc: người nghe quên mình mà người gảy đàn cũng hết mình. + Lần thứ ba: khi tâm tư đã quá xúc động thì giọt nước mắt có giá trị “thanh lọc” đã thay cho mọi lời miêu tả, ngợi ca. Hoặc trong bài “Hồi hương ngẫu thư” của Hạ Tri Chương cần phân tích kỹ câu” “Hương âm vô cải mấn mao tồi” (tiếng nói không thay đổi, tóc mai đã rụng) và nghệ thuật đối. Nói cái thay đổi và cái không đổi để khẳng định sự bền bĩ chung thuỷ trong tình cảm của con người đối với quê hương. Và cũng cần phân tích kĩ tình huống khi trở về nơi chôn nhau cắt rốn lại bị gọi là khách từ đâu đến để thấy được tâm trạng của nhà thơ.Hồi hương ngẫu thư 4. So sánh đối chiếu văn bản với các thi liệu thơ phương Đông. Đơn cữ trong bài thơ “Vọng Lư sơn bộc bố” khi phân tích câu một làm khung nền cho bức tranh toàn cảnh, trước khi miêu tả vẻ đẹp của dòng thác nước. Nên so sánh đối chiếu với hai câu thơ của nhà sư Tuệ Viên(trước Lí Bạch 300 năm): “Khí bao trùm lên Hương Lô mịt mù như sương khói”. Cái mới của Lí Bạch là miêu tả vẻ đẹp của dòng Hương Lô dưới những tia nắng mặt trời, làn hơi nước phản quang, ánh sáng mặt trời chuyển thành một màu tím vừa rực rỡ vừa kỳ ảo. Sự thật hơi khói đã có từ trước, tồn tại thường xuyên song dưới ngòi bút của Lí Bạch, với động từ :sinh” đã làm cho khung cảnh trở nên huyền ảo Hoặc có thể so sánh với các bài thơ khác có chủ đề phổ biến “Vọng nguyệt hoài hương”như của Đỗ Phủ: “Lộ tòng kim dạ bạch Nguyệt thị cố hương minh” ( Sương đêm nay trắng xoá, Trăng là ánh sáng của quê nhà) Bạch Cư Dị: “Công khang mình nguyệt ưng thuỳ lệ Nhất phiến hương tâm ngũ xứ đồng” ( Xem trăng sáng có lẽ cùng rơi lệ Một mảnh tình quê , năm anh em ở năm nơi đều giống nhau) III. KẾT LUẬN: Thơ Đường là đỉnh cao của nền văn học Trung Quốc, là thành tựu của văn học nước ngoài có ảnh hưởng sâu đậm nhất đến nền văn học Việt Nam, đặc biệt thể thơ Đường luật này trở thành một thể thơ sáng tác quan trọng và quen thuộc của người Việt Nam ta. Thông qua những bài thơ Đường, nó đã góp phần hình thành ở con người niềm trân trọng mến yêu những vẻ đẹp dịu dàng trong sáng, những khát vọng vươn tới lý tưởng, tình yêu quê hương đất nước, yêu hoà bình, yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp, đồng thời qua thơ Đường giúp con người biết cảm thông trước những đau khổ của đồng loại, biết phẫn nộ trước những điều phi nghĩa bất công. Bởi vậy học và đọc thơ Đường chúng ta càng cảm thấy thú vị. Văn học nghệ thuật nói chung, thơ Đường nói riêng đã góp phần hình thành tính nhân văn của con người.

Nguyễn Xuân Yến Nhi
Xem chi tiết
Lê Dung
9 tháng 10 2016 lúc 11:33

Hai câu đầu tác giả đã dùng phép đối rất chỉnh về mặt nghĩa: - Ớ câu thứ nhất: Thiếu tiếu li gia >< lão đại hồi (tiểu >< đại, li >< hồi) - Câu thứ hai: Hương âm vô cải >< mấn mao tồi (hương âm >< mấn mao, vô cải >< tồi).  Phép đối ở câu thứ nhất tác giả đã khái quát một cách ngắn gọn cả một quãng thời gian dài rời xa quê hương của bản thân, ơ câu thứ hai nêu bật lên yếu tố thay đổi (mái tóc đã bạc) và khẳng định một yếu tố không thay đối (giọng quê). Cách diễn đạt đó vừa chân thực vừa làm nổi bật tình quê hương sâu sắc bền vững trong tâm hồn của nhà thơ.

 

Cao Thị Khánh Linh
21 tháng 10 2016 lúc 20:20

Tác dụng : Làm nổi bật tình yêu quê hương sâu nặng luôn thường trực trong tâm hồn của nhà thơ.

Triệu Yến Nhi
5 tháng 10 2018 lúc 15:50

câu hỏi này trong bài Cảm Nghĩ Trong Đêm Thanh Tĩnh màbanhbanhquahiha

Stellar Phan
Xem chi tiết
Thảo Phương
10 tháng 10 2016 lúc 17:46

Trong thơ ca, ánh trăng luôn là một đề tài được rất nhiều người sử dụng để làm nơi trút đầy những tâm tư, tình cảm của những thi nhân. Mỗi câu chữ, mỗi hình ảnh, ánh trăng lại mang những ý nghĩa khác nhau và đưa cho chúng ta những cảm xúc khác nhau. Và với Lý Bạch- người được coi là Thi tiên của Trung Quốc thì ánh trăng đối với ông lại là nguồn chỉ dẫn làm cho ông nhớ về quê hương của mình- nơi mình đã sinh ra và gắn bó trong suốt thời ấu thơ. Điều đó đã được thể hiện một cách rõ nét qua tác phẩm “ tĩnh dạ tứ”.Đêm khuya trăng sáng, nhà thơ trằn trọc không ngủ hoặc cũng có thể là đã ngủ rồi chợt tỉnh dậy và không ngủ lại được. Để tả trạng thái mơ màng ấy thì dùng chữ nghi (ngỡ là) và chữ sương là hợp lí. Ánh trăng trắng đục giống như sương là điều có thật mà trước Lí Bạch mấy trăm năm, nhà thơ Tiêu Cương đã viết: Dạ nguyệt tự thu sương (Trăng đêm giống như sương thu).Chi tiết trăng rọi sáng đầu giường là thực; còn ngỡ mặt đất phủ sương là ảo. Nhà thơ nhìn ánh trăng mà ngỡ là sương bởi ánh trăng được nhìn qua làn nước mắt nhớ thương, sầu muộn đang rớm quanh mi. Nỗi cô đơn tột đỉnh đang thấm lạnh cả tâm tình khiến sương dâng trong hồn, sương giăng trước mắt. Đọc hai câu thơ này, ta hiểu đằng sau từng chữ là cảm xúc bâng khuâng, da diết đang trỗi dậy trong lòng thi sĩ.Với bài thơ Tĩnh dạ tứ, nếu chỉ nói tác giả “xúc cảnh sinh tình” thì không đủ. “Tình” ở đây vừa là nhân, vừa là quả: Lí Bạch nhớ quê,  thao thức nhìn trăng sáng; Nhìn trăng sáng lại càng nhớ quê! Vọng minh nguyệt, tư cố hương thật ra chỉ là sự diễn đạt cụ thể hơn thành ngữ vọng nguyệt hoài hương dùng đã sáo mòn trong văn thơ cổ. Sáng tạo của Lí Bạch là đã đưa thêm vào hai cụm từ đôi nhau: cử đầu và đê đầu, để thể hiện cách vọng minh nguyệt và tư cố hương của mình. Những hành động ấy đều chất chứa tâm tư. Tình cảm thiết tha của nhà thơ gửi gắm cả trong từ vọng ấy và chỉ trong khoảnh khắc, cái tư thế Ngẩng đầu nhìn trăng sáng đã chuyển thành Cúi đầu nhớ cố hương. Hai tư thế đối lập nhau nhưng cùng thể hiện một tâm trạng. Niềm vui trước đêm trăng sáng có thể là dạt dào vô tận nhưng nỗi nhớ cố hương cũng day đứt khôn nguôi! Ánh trăng sáng đêm nay là tác nhân gợi nhớ đến vầng trăng xưa trên quê cũ thuở nào. Quả là nỗi nhớ quê hương thiết tha, khắc khoải… luôn ám ảnh trong lòng Lí Bạch.

Mai Thị Kim Liên
21 tháng 10 2016 lúc 10:23

Đây là bài cảm nhận của mình nè!

Quê hương là mảnh đất người ta chôn rau, cắt rốn. Ai ai trong chúng ta cũng đều phải có quê hương và gắn bó sâu sắc với quê hương dấu yêu của mình. Còn Lí Bạch, lúc 25 tuổi là ông đã phải xa quê,xa mãi mãi. Bởi vậy, cứ mỗi lần thấy trăng, ông lại ngậm ngùi nhớ tới quê nhà. Nhớ lúc nhỏ, ngày ngày, ông thường treo lên đỉnh núi Nga Mi ở quê để ngắm trăng. Nhưng giớ đây, ông sẽ chẳng bao giờ được nhìn thấy trăng ở quê nữa, sẽ chẳng bao giờ được trở lại mảnh đất mà ông đã gắn bó trong suốt 25 năm. Vậy nên, Lí Bạch là một nhà thơ tràn ngập ánh trăng. Hình ảnh trăng trong thơ của ông hết sức đa dạng, ý nghĩa vô cùng phong phú. Mỗi khi thấy trăng ở bất cứ nơi đâu, Lí Bạch chỉ biết đưa ánh trăng cùng với nỗi buồn nhớ của minh vào bài thơ.

Chúc bạn học tốt!

Lê Thị Bích Lan
20 tháng 10 2016 lúc 14:52
 Đầu giường ánh trăng rọi,
Ngỡ mặt đất phủ sương.
(Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương). Đây là bài thơ tứ tuyệt tương đối dễ hiểu. Song đơn giản, dễ hiểu không có nghĩa là hời hợt, nông cạn. Ngôn ngữ thơ ca bao giờ cũng chọn lọc và tinh luyện. Trong hai câu thơ đầu, ta đã thấy thấp thoáng bóng dáng nhân vật trữ tình. Ánh trăng dù đẹp đẽ và tràn ngập nơi nơi nhưng vẫn chỉ là đối tượng để thi sĩ cảm nhận. Đêm khuya trăng sáng, nhà thơ trằn trọc không ngủ hoặc cũng có thể là đã ngủ rồi chợt tỉnh dậy và không ngủ lại được. Để tả trạng thái mơ màng ấy thì dùng chữ nghi (ngỡ là) và chữ sương là hợp lí. Ánh trăng trắng đục giống như sương là điều có thật mà trước Lí Bạch mấy trăm năm, nhà thơ Tiêu Cương đã viết: Dạ nguyệt tự thu sương (Trăng đêm giống như sương thu). Chi tiết trăng rọi sáng đầu giường là thực; còn ngỡ mặt đất phủ sương là ảo. Nhà thơ nhìn ánh trăng mà ngỡ là sương bởi ánh trăng được nhìn qua làn nước mắt nhớ thương, sầu muộn đang rớm quanh mi. Nỗi cô đơn tột đỉnh đang thấm lạnh cả tâm tình khiến sương dâng trong hồn, sương giăng trước mắt. Đọc hai câu thơ này, ta hiểu đằng sau từng chữ là cảm xúc bâng khuâng, da diết đang trỗi dậy trong lòng thi sĩ. Trong thơ cổ có một biểu tượng truyền thống là trăng, vầng trăng tròn tượng trưng cho sự viên mãn đoàn tụ. Cho nên trăng càng sáng, càng tròn thì kẻ xa quê lại càng nhớ quê. Hình ảnh vầng trăng cô đơn trên bầu trời thăm thẳm trong đêm khuya thanh tĩnh thường gợi nên nỗi sầu xa xứ. Ánh trăng thu bàng bạc trong đêm lạnh lại càng khêu gợi tâm trạng buồn thương. Đêm khuya, thi sĩ trằn trọc không sao ngủ được. Mở mắt thấy ánh trăng rọi sáng đầu giường, mừng như gặp lại cố nhân sau bao ngày xa cách. Nhưng mới nhìn thấy ánh trăng bàng bạc như sương phủ trên mặt đất chứ chưa thấy trăng, nhà thơ cố tìm bằng được vầng trăng quen thuộc:
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương.
(Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương). Chỉ có ba chữ tả tình trực tiếp: tư cố hương, còn lại đều là tả cảnh, tả người: cử đầu, vọng minh nguyệt, đê đầu. Ngay trong tả cảnh, tình người vẫn được thể hiện rõ. Nỗi nhớ quê hương đã được thể hiện qua hành động. Khi thấy vầng trăng cũng đơn côi, lạnh lẽo như mình, một nỗi ngậm ngùi, chua xót bất chợt dâng lên trong lòng. Thi sĩ cúi đầu tưởng nhớ quê hương. Cái dáng ngồi bất động, chìm đắm trong suy tư ấy cho thấy tình cảm quê hương của nhà thơ sâu nặng biết chừng nào! Với bài thơ Tĩnh dạ tứ, nếu chỉ nói tác giả “xúc cảnh sinh tình” thì không đủ. “Tình” ở đây vừa là nhân, vừa là quả: Lí Bạch nhớ quê,  thao thức nhìn trăng sáng; Nhìn trăng sáng lại càng nhớ quê! Vọng minh nguyệt, tư cố hương thật ra chỉ là sự diễn đạt cụ thể hơn thành ngữ vọng nguyệt hoài hương dùng đã sáo mòn trong văn thơ cổ. Sáng tạo của Lí Bạch là đã đưa thêm vào hai cụm từ đôi nhau: cử đầu và đê đầu, để thể hiện cách vọng minh nguyệt và tư cố hương của mình. Những hành động ấy đều chất chứa tâm tư.