Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài

Những câu hỏi liên quan
Trương Việt Bình
Xem chi tiết
Vũ Nguyễn Gia Hiển
28 tháng 2 2016 lúc 17:21

* Vấn đề thủy lợi có ý nghĩa hàng đầu :

- Nhiều công trình thủy lợi đã được xây dựng : Dầu Tiếng trên thượng lưu sông Sài Gòn (tỉnh Tây Ninh) là công trình thủy lợi lớn nhất nước ta hiện nay. Dự án thủy lợi Phước Hòa (Bình Dương - Bình Phước) đang được thực thi

- Nhờ giải quyết nước tưới cho các vùng khô hạn về mùa khô và tiêu nước cho các vùng thấp dọc sông Đồng Nai và sông La Ngà, diện tích đất trồng trọt tăng lên, hệ số sử dụng đất hàng năm cũng tăng và khả năng đảm bảo lương thực thực phẩm của vùng cũng khá hơn

 * Việc thay đổi cơ cấu cây trồng đang nâng cao hơn vị trí của vùng như là vùng chuyên canh cây công nghiệp lớn của cả nước.

- Những vườn cây cao su già cỗi, năng suất mủ thấp, được thay thế bằng các giống cao su cho năng suất cao và ứng dụng công nghệ mới

- Đông Nam Bộ cũng đang trở thành vùng sản xuất hàng đầu chủ yếu là cà phê, hồ tiêu, điều. Cây mía và đậu tương vẫn chiếm vị trí hàng đầu trong các cây công nghiệp ngắn ngày.

* Cần bảo vệ vốn rừng trên vùng thượng lưu của các sông, cứu các cánh rừng ngập mặn. Các vườn quốc gia, khu dự trữ sinh quyển cần được bảo vệ nghiêm ngặt

Henry.
Xem chi tiết
Khai thác ảnh hưởng đến môi trường như thế nào?Khai thác đề cập đến quá trình chiết xuất kim loại và khoáng chất từ Trái Đất. Vàng, bạc, kim cương, sắt, than đá và urani chỉ là một vài trong số rất nhiều kim loại và khoáng chất thu được từ quá trình này. Hoạt động khai thác đòi hỏi phải làm sạch các khu đất rộng lớn. Các hóa chất được sử dụng trong quá trình khai thác thường xâm nhập vào môi trường gây ô nhiễm quy mô lớn.Trên thực tế, khai thác là nguồn gốc của tất cả các chất không thể thu được bằng các quá trình công nghiệp hoặc thông qua nông nghiệp. Khai thác gặt hái lợi nhuận khổng lồ cho các công ty sở hữu chúng và cung cấp việc làm cho một số lượng lớn người dân. Đây cũng là một nguồn thu lớn cho chính phủ. Mặc dù tầm quan trọng kinh tế của nó, các tác động của khai thác trên môi trường là một vấn đề bức xúc.
 
Khai thác ảnh hưởng đến môi trường
 Ảnh hưởng của khai thác đối với môi trường
Việc khai thác đòi hỏi diện tích rừng lớn phải được giải tỏa để đất có thể được đào bởi các thợ mỏ. Vì lý do này nên việc phá rừng quy mô lớn được yêu cầu phải được thực hiện tại các khu vực khai thác mỏ phải được thực hiện.

Bên cạnh việc làm sạch khu vực khai thác, thảm thực vật ở các khu vực lân cận cũng cần phải được cắt để xây dựng đường xá và các công trình dân cư cho công nhân mỏ. Dân số con người mang theo cùng với các hoạt động khác gây hại cho môi trường. Ví dụ, các hoạt động khác nhau tại các mỏ than phát tán bụi và khí vào không khí. Vì vậy, khai thác mỏ là một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm.
 Ô nhiễm nguồn nước
Trước đây, các sunphua kim loại bị chôn vùi được phơi nhiễm trong các hoạt động khai thác mỏ. Khi chúng tiếp xúc với oxy trong khí quyển, chúng được chuyển thành axit sulfuric mạnh và các oxit kim loại. Các hợp chất này bị lẫn lộn trong các tuyến đường thủy địa phương và gây ô nhiễm các con sông địa phương với các kim loại nặng. Các hóa chất như thủy ngân, xianua, axit sulfuric, asen và metyl thủy ngân được sử dụng trong các giai đoạn khai thác khác nhau. 
 
Ảnh hưởng của khai thác đối với môi trường
Hầu hết các hóa chất được thải vào các vùng nước gần đó và gây ô nhiễm nguồn nước. Mặc dù các chất thải (đường ống) được sử dụng để xử lý các hóa chất này vào trong các nguồn nước, luôn có khả năng rò rỉ. Khi các hóa chất từ từ thấm qua các lớp đất, chúng tiếp cận với nước ngầm và gây ô nhiễm nó.

Việc giải phóng các hóa chất độc hại vào trong nước rõ ràng là có hại cho hệ thực vật và động vật của các vùng nước. Bên cạnh ô nhiễm, quá trình khai thác cần nước từ các nguồn nước lân cận. Ví dụ, nước được sử dụng để rửa tạp chất từ than đá. Kết quả là hàm lượng nước của sông hoặc hồ mà từ đó nước đang được sử dụng sẽ giảm đi. Các sinh vật trong các khu vực nước này không có đủ nước để sinh tồn.
 Nạo vét sông là một phương pháp được  hợp khai thác vàng. Trong phương pháp này, sỏi và bùn được hút từ một khu vực cụ thể của dòng sông. Sau khi các mảnh vàng được lọc ra, bùn và sỏi còn lại được thả trở lại sông, mặc dù, tại một địa điểm khác với nơi chúng đã được lấy đi. Điều này làm gián đoạn dòng chảy tự nhiên của dòng sông có thể làm cho cá và các sinh vật khác chết.
 
Ô nhiễm nguồn nước
 Mặc dù các biện pháp được đưa ra để giải phóng chất thải hóa học trong các con sông gần đó thông qua đường ống, một lượng lớn hóa chất vẫn rò rỉ ra ngoài đất. Điều này làm thay đổi thành phần hóa học của đất. Bên cạnh đó, vì các hóa chất độc hại, chúng làm cho đất không phù hợp với cây trồng. Ngoài ra, các sinh vật sống trong đất nhận thấy môi trường ô nhiễm là kẻ thù cho sự sống còn của chúng.

Lây lan bệnh

Đôi khi chất thải lỏng được tạo ra sau khi các kim loại hoặc khoáng chất đã được chiết xuất và được xử lý trong một hố khai thác. Khi hố được lấp đầy bởi các chất thải, chúng trở thành một hồ nước đọng lại. Điều này trở thành nơi sinh sản của các bệnh do nước gây ra, gây ra côn trùng và sinh vật như muỗi phát triển mạnh.

Mất đa dạng sinh học

Các khu rừng được khai thác cho mục đích khai thác là nhà của một số lượng lớn các sinh vật. Việc khai hoang bừa bãi của rừng dẫn đến mất môi trường sống của một số lượng lớn động vật. Điều này đặt sự tồn tại của một số lượng lớn các loài động vật bị đe dọa. Việc cắt giảm các cây là một mối đe dọa lớn đối với một số loài thực vật, cây cối, chim và động vật sống trong rừng.
 Ví dụ về tác động môi trường của khai thác mỏ 
Môi trường đất cũng bị ảnh hưởng do ô nhiễm
 Rừng nhiệt đới là nguồn cung cấp oxy, gỗ và thuốc lớn nhất trên Trái Đất này. Rừng mưa Amazon được biết đến với các mỏ vàng phù sa. Vàng được tìm thấy cả trong các kênh sông và ở bờ sông sau lũ lụt. Kỹ thuật khai thác thủy lực được sử dụng để khai thác vàng. 

Phương pháp này liên quan đến nổ mìn ở bờ sông. Điều này đã gây ra thiệt hại cho cây cối, chim và động vật. Trong khi tách trầm tích và thủy ngân khỏi các mỏ trầm tích có năng suất vàng, các thợ mỏ quy mô nhỏ, những người ít trang bị hơn các thợ mỏ công nghiệp, có thể sẽ phóng thích một số thủy ngân xuống sông. Thủy ngân này đi vào chuỗi thức ăn thông qua động vật thủy sinh và động vật ăn thịt của chúng.

Hợp chất có độc tính cao 'xianua' cũng được sử dụng để tách vàng khỏi trầm tích và đá. Mặc dù tất cả các biện pháp phòng ngừa, đôi khi vẫn không thể tránh khỏi bởi môi trường xung quanh chúng cũng bị ô nhiễm. Những người ăn cá có nhiều nguy cơ bị nhiễm chất độc như vậy.

Năm 1995, ở Guyana, hơn bốn tỷ lít nước thải chứa xianua, được chuyển vào một nhánh của Essequibo; khi các đập thải được đổ đầy chất thải xianua, bị sập. Tất cả những con cá trên sông chết, thực vật và động vật đã bị phá hủy hoàn toàn và đất ngập nước bị nhiễm độc nặng, khiến đất đai trở nên vô dụng đối với nông nghiệp.  
Tác động môi trường của khai thác mỏ
 ​Nguồn nước uống chính cho người dân địa phương cũng bị ô nhiễm. Đây là một trở ngại lớn cho ngành du lịch sinh thái trên sông. Khi cây bị chặt (làm sạch rừng để xây dựng đường, gỗ cho người di cư, công nhân,...) và nguồn nước bị ô nhiễm, quần thể động vật di cư hoặc chết. Hơn nữa, thợ săn được thuê để nuôi những người làm việc tại các địa điểm khai thác mỏ.
Công viên quốc gia Kahuzi-Biega, Congo, được tuyên bố là 'Di sản thế giới' vào năm 1980 vì sự đa dạng sinh học phong phú của nó. Bảo tồn một số loại động vật và thực vật là mục tiêu đằng sau điều này. Khi hàng ngàn người bắt đầu chiết xuất tantali và cassiterite tại hàng trăm địa điểm trên khắp công viên, hầu hết các loài động vật lớn đã bị giết trong vòng 15-20 năm.

Số lượng khỉ đột của Grauer, loài chỉ được tìm thấy trong khu vực này, giảm đáng kể. Thống kê cho thấy bây giờ, chỉ còn 2-3 nghìn gorilla Grauer còn lại.

Chính phủ Indonesia đã kiện một công ty khai thác vàng đã vứt bỏ chất thải độc hại, chẳng hạn như asen và thủy ngân vào vịnh Buyat. Cá trong vịnh đã bị chết. Người dân ở khu vực xung quanh không còn có thể ăn cá nữa. Họ đã bị các bệnh khác nhau như nhức đầu liên tục, phát ban da, khối u và khó thở.
 Động vật cũng bị ảnh hưởng do ô nhiễm
Động vật cũng bị ảnh hưởng do ô nhiễm
 Ảnh hưởng của khai thác môi trường có thể không được hiển nhiên ngay lập tức, chúng thường được nhận thấy sau một vài năm. Mặc dù các nước phát triển có các tiêu chuẩn chặt chẽ về khai thác mỏ, các quy tắc như vậy có thể dễ dàng bị sai lệch ở các nước thiếu giám sát nghiêm ngặt các thủ tục đang được khai thác.

Các hiệu ứng trong những trường hợp như vậy có thể tàn phá môi trường. Có thể là do sự thiếu hiểu biết của các quy định hay chỉ là một tai nạn quái dị, những sự cố như vụ tràn Guyana năm 1995 có thể xảy ra lần nữa. Điều này làm nổi bật thực tế rằng các vấn đề như hiệu ứng khai thác trên môi trường có giá trị một số cân nhắc nghiêm túc.

Tags: ảnh hưởng của khai thác than đến môi trường, ảnh hưởng của khai thác khoáng sản đến môi trường đất, thực trạng ảnh hưởng của khai thác mỏ đến môi trường ở việt nam, ảnh hưởng tiêu cực của con người đến môi trường, hậu quả của việc khai thác tài nguyên khoáng sản bừa bãi, ảnh hưởng của tài nguyên khoáng sản đến kinh tế, biện pháp khắc phục khai thác khoáng sản, khai thác than như thế nào
Ngọc
Xem chi tiết
ha xuan duong
Xem chi tiết
Nguyễn  Việt Dũng
15 tháng 10 2023 lúc 14:33

Câu 1:
 

Trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của Pháp, chính sách của họ trong các ngành nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp và giao thông vận tải có những đặc điểm như sau:

1. Ngành nông nghiệp: Pháp đã áp dụng chính sách thuế cao và hạn chế trồng cây màu, giúp họ kiểm soát sản xuất và xuất khẩu hàng hoá nông nghiệp. Họ tập trung vào các loại cây trồng như cao su, cà phê và quả bơ để phục vụ nhu cầu của thị trường quốc tế. Các đồng cỏ truyền thống của người Việt Nam đã bị xâm hại, dẫn đến sự suy thoái của ngành nông nghiệp truyền thống.

2. Ngành công nghiệp: Chính sách của Pháp trong ngành công nghiệp tập trung vào khai thác tài nguyên tự nhiên và thành lập các công ty khai thác, chủ yếu là các công ty Pháp. Công nghiệp Việt Nam được phát triển theo hướng đáp ứng nhu cầu của thị trường Pháp, không tạo ra sự đa dạng và công nghệ tiên tiến. Điều này đã gây ra sự thiếu cân đối và thiếu phát triển bền vững trong ngành công nghiệp Việt Nam.

3. Ngành thương nghiệp: Chính sách của Pháp trong ngành thương nghiệp tạo ra một hệ thống thương mại không công bằng và ưu tiên cho các sản phẩm nhập khẩu từ Pháp. Họ áp dụng thuế cao và các rào cản thương mại để bảo vệ lợi ích của các nhà sản xuất và thương gia Pháp. Điều này đã cản trở sự phát triển của ngành thương nghiệp trong nước và làm suy yếu nền kinh tế Việt Nam.

4. Giao thông vận tải: Chính sách của Pháp trong lĩnh vực giao thông vận tải tập trung vào việc xây dựng hạ tầng giao thông chỉ phục vụ nhu cầu của Pháp, chẳng hạn như xây dựng đường sắt từ miền Bắc đến miền Nam để vận chuyển hàng hóa ra khỏi Việt Nam. Điều này đã làm gián đoạn và hạn chế sự phát triển của hệ thống giao thông trong nước, gây khó khăn trong việc di chuyển và phát triển kinh tế khu vực.

Tác hại của chính sách khai thác thuộc địa của Pháp trong các ngành nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp và giao thông vận tải đối với nền kinh tế Việt Nam là:

- Gây ra sự mất cân đối và thiếu phát triển bền vững trong các ngành kinh tế quan trọng như nông nghiệp và công nghiệp.
- Tạo ra sự phụ thuộc vào thị trường và công nghệ của Pháp, làm suy yếu sự đa dạng và sức cạnh tranh của kinh tế Việt Nam.
- Gây ra sự thiếu công bằng và không công trong lĩnh vực thương mại, ưu tiên cho lợi ích của các công ty và thương gia Pháp.

Nguyễn  Việt Dũng
15 tháng 10 2023 lúc 14:34

Câu 2:
 

Trong khoảng thời gian từ 1862 đến 1884, triều đình Huế đã kí một số hiệp ước với Pháp. Dưới đây là danh sách các hiệp ước đó và thời gian kí hiệp ước:

1. Hiệp ước Gia Định : Ký vào ngày 5/6/1862.
2. Hiệp ước Huế: Ký vào ngày 14/9/1862.
3. Hiệp ước Saigon: Ký vào ngày 5/6/1867.
4. Hiệp ước Tân Ánh : Ký vào ngày 6/6/1867.
5. Hiệp ước Patenôtre : Ký vào ngày 17/8/1874.
6. Hiệp ước Huế II : Ký vào ngày 25/8/1883.
7. Hiệp ước Tiên Long : Ký vào ngày 15/6/1884.

Hậu quả của hiệp ước cuối cùng, Hiệp ước Tiên Long, là việc chấm dứt sự tồn tại của triều đình Huế và việc thành lập Bắc Kỳ và Nam Kỳ, hai khu vực thuộc Việt Nam được chia cắt theo quyền kiểm soát của Pháp. Hiệp ước này cũng mở đường cho việc xâm lược và chiếm đóng của Pháp vào toàn bộ Việt Nam, tạo ra nền đế quốc thuộc địa của Pháp tại Đông Dương trong thời kỳ tiếp theo.

Minh Lệ
Xem chi tiết
Quoc Tran Anh Le
1 tháng 9 2023 lúc 23:59

Mỗi ngành công nghiệp có vai trò, đặc điểm và tình hình phát triển khác nhau. Việc tìm hiểu về vai trò, đặc điểm phát triển, tình hình phân bố của các ngành công nghiệp là cần thiết, nhằm sử dụng hợp lí, hiệu quả các nguồn lực để phát triển đất nước.

Minh Lệ
Xem chi tiết
Nguyễn  Việt Dũng
14 tháng 8 2023 lúc 16:24

Tham khảo

* Nét chính về tình hình nông nghiệp Đại Việt:

- Ở Đàng Ngoài:

+ Trước khi xung đột Nam - Bắc triều nổ ra: nông nghiệp được mùa, nhà nhà no đủ.

+ Khi xung đột Nam - Bắc triều nổ ra: kinh tế bị ảnh hưởng nghiêm trọng, ruộng đất bỏ hoang không có người cấy cày.

+ Từ cuối thế kỉ XVII: nông nghiệp mới dần dần ổn định trở lại.

+ Tình trạng nông dân thiếu ruộng diễn ra trầm trọng.

- Ở Đàng Trong:

+ Nông nghiệp phát triển nhờ điều kiện tự nhiên thuận lợi, chính sách khuyến khích khai hoang và định cư của chúa Nguyễn.

+ Sự phát triển của nông nghiệp dẫn đến sự hình thành một tầng lớp địa chủ lớn.

+ Đất khai hoang vẫn còn nhiều, tình trạng nông dân thiếu ruộng không trầm trọng.

* Điểm tích cực và hạn chế:

- Tích cực:

+ Sản xuất nông nghiệp từng bước được phục hồi.

+ Ở Đàng Trong, sản xuất nông nghiệp phát triển rõ rệt, đặc biệt là ở vùng lưu vực sông Đồng Nai và sông Cửu Long.

- Hạn chế:

+ Sản xuất nông nghiệp sa sút trong thời gian xảy ra các cuộc xung đột Nam - Bắc triều, Trịnh - Nguyễn.

+ Tình trạng nông dân bị chấm chiếm ruộng đất có xu hướng gia tăng.

Bùi Nguyên Khải
14 tháng 8 2023 lúc 16:28

THAM KHẢO

* Nét chính về tình hình nông nghiệp Đại Việt:

- Ở Đàng Ngoài:

+ Trước khi xung đột Nam - Bắc triều nổ ra: nông nghiệp được mùa, nhà nhà no đủ.

+ Khi xung đột Nam - Bắc triều nổ ra: kinh tế bị ảnh hưởng nghiêm trọng, ruộng đất bỏ hoang không có người cấy cày.

+ Từ cuối thế kỉ XVII: nông nghiệp mới dần dần ổn định trở lại.

+ Tình trạng nông dân thiếu ruộng diễn ra trầm trọng.

- Ở Đàng Trong:

+ Nông nghiệp phát triển nhờ điều kiện tự nhiên thuận lợi, chính sách khuyến khích khai hoang và định cư của chúa Nguyễn.

+ Sự phát triển của nông nghiệp dẫn đến sự hình thành một tầng lớp địa chủ lớn.

+ Đất khai hoang vẫn còn nhiều, tình trạng nông dân thiếu ruộng không trầm trọng.

* Điểm tích cực và hạn chế:

- Tích cực:

+ Sản xuất nông nghiệp từng bước được phục hồi.

+ Ở Đàng Trong, sản xuất nông nghiệp phát triển rõ rệt, đặc biệt là ở vùng lưu vực sông Đồng Nai và sông Cửu Long.

- Hạn chế:

+ Sản xuất nông nghiệp sa sút trong thời gian xảy ra các cuộc xung đột Nam - Bắc triều, Trịnh - Nguyễn.

+ Tình trạng nông dân bị chấm chiếm ruộng đất có xu hướng gia tăng.

Đặng Thị Phương Anh
Xem chi tiết
Mai Thị Xuân Bình
29 tháng 1 2016 lúc 15:58

Khai thác lãnh thổ theo chiều sâu là tăng cường đầu tư thêm về KHKT về thiết bị công nghệ hiện đại, về vốn, để tăng năng
suất sản lượng, chất lượng công nông nghiệp trên một đơn vị diện tích đồng thời phải gắn với bảo vệ tài nguyên môi trường để nền
kinh tế phát triển bền vững.
 

*ĐNB phải đặt vấn đề khai thác lãnh thổ theo chiều sâu là vì:

-Trước hết vùng này có diện tích tự nhiên hẹp 2,3 triệu ha mà dân số khá đông, gần 9 triệu người.

-Tài nguyên thiên nhiên cũng không phải là phong phú đa dạng, đặc biệt là khoáng sản trên đất liền rất nghèo nàn mà
khoáng sản dưới biển thì rất khó khai thác, cần phải có trí tuệ cao, công nghệ hiện đại.

-ĐNB hiện nay là vùng rất hấp dẫn với đầu tư hợp tác nước ngoài và các xí nghiệp liên doanh đầu tư hợp tác nước ngoài
đang làm việc trong vùng, cho nên cần phải có lao động với trình độ tay nghề giỏi, thợ bậc cao để có thể đối tác với chuyên gia kinh
tế nước ngoài.

-ĐNB hiện nay đã và đang hình thành cơ cấu công nghiệp, nông nghiệp hoàn chỉnh bậc nhất, với nhiều ngành mũi nhọn nhất
cả nước và đang có khả năng đạt những chỉ tiêu phát triển công nghiệp cao nhất cả nước cho nên lại càng phải có nguồn lao động
với trình độ, chuyên môn tay nghề cao.

-ĐNB hiện đang diễn ra nhiều quá trình khai thác tài nguyên phát triển công nghiệp như khai thác dầu khí, đánh bắt hải sản,
du lịch biển, phát triển cây công nghiệp, điện năng mà yêu cầu phải có môi trường trong sạch, không gây ô nhiễm cạn kiệt tài
nguyên. Cho nên muốn đạt được mục tiêu đó phải có sự đầu tư cao về chất xám với phương tiện KHKT hiện đại và tinh xaỏ, phải
có nhiều vốn ngoại tệ mạnh để khai thác và sử dụng thật tiết kiệm các nguồn tài nguyên để cho năng suất hiệu quả cao nhất và khai
thác phát triển bền vững nhất. Chính đó là khai thác lãnh thổ theo chiều sâu của ĐNB.

*Vấn đề khai thác lãnh thổ theo chiều sâu để phát triển công nghiệp:
-Trước hết ĐNB : Trước tiên phải đầu tư phát triển năng lượng điện hiện đại cùng với các nhà máy thuỷ điện đã được xây dựng như Trị An
400.000kw, Đanhim 160.000kw, Thác Mơ 150.000kw. Xây dựng mới nhiều nhà máy thuỷ điện nặng khác, điển hình là nhà máy
thuỷ điện Tuốc Bin khí Phú Mỹ với tổng công suất 3.000.000kw, tiếp tục hoàn chỉnh nhanh nhiều nhà máy thuỷ điện Hàm Thuận
trên sông La Ngà. Mặt khác phải tiếp thu sử dung nguồn điện từ Hoà Bình qua đường dây cao áp 500KV, mới có khả năng tiến
hành công nghiệp hoá trong vùng.

-Phải hình thành một cơ cấu ngành công nghiệp đa dạng với nhiều ngành công nghiệp mũi nhọn yêu cầu có công nghệ cao
như: luyện kim, cơ khí, điện tử, hoá chất, sản xuất đồ chơi trẻ em và đặc biệt phải hiện đại nhanh công nghiệp khai thác, chế biến
dầu khí, vì những ngành này có khả năng thu hút nhiều dự án đầu tư nước ngoài nhất.

-Phải đấy mạnh, hình thành tam giác công nghiệp tăng trưởng đó là Biên Hoà, Vũng Tàu, chính tam giác công nghiệp này
đã hình thành nên nhiều vùng công nghiệp năng động ĐNB và vùng kinh tế tăng trưởng phía Nam và cực kinh tế phía Nam có sức
thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư nước ngoài.

-Việc phát triển công nghiệp ĐNB phải biết tận dụng khai thác hết các thế mạnh của nội lực, mà đặc biệt đó là khai thác các
trình độ lao động tay nghề cao với cơ sở hạ tầng vững mạnh, với các nguồn tài nguyên chất lượng cao, đồng thời phải dựa vào
nguồn lực bên ngoài, đó là các nguồn vốn dự án hợp tác quốc tế mà điển hình là cho phép hình thành nhiều xí nghiệp liên doanh
nước ngoài trên địa bàn của vùng.

-Trong vùng phải nghiên cứu tiến hành đầu tư xây dựng nhiều nhà máy lọc dầu cùng với nhà máy lọc dầu Dung Quất số 1
để tiếp tục hình thành cơ cấu ngành đa dạng hơn.

-Sử dụng nguồn nguyên liệu tại chỗ.

-Việc phát triển công nghiệp ở ĐNB theo chiều sâu phải gắn với các quá trình bảo vệ tài nguyên môi trường và coi phương
án bảo vệ môi trường ,chống ô nhiễm nước biển, ô nhiễm không khí, phải là một chỉ tiêu để khẳng định tính khả thi của các dự án
phát triển công nghiệp.

-Việc phát triển công nghiệp theo chiều sâu trong ĐNB không thể tách rời với việc mở rộng hợp tác liên doanh quốc tế, có
như vậy mới tạo tiền đề cho sự hội nhập nhanh chóng của nền công nghiệp trong vùng với thế giới.

*Việc phát triển và khai thác lãnh thổ theo chiều sâu trong nông nghiệp:
cũng như trong công nghiệp, việc phát riển nông nghiệp ở ĐNB cũng cần thiết phải đầu tư lớn về KHKT, về vốn... để tăng
năng suất và sản lượng trên 1 đơn vị diện tích, vì đất ở ĐNB không lớn, dân số, lao động khá đông, đồng thời đất đai không phải chỉ
được sử dụng để phát triển nông nghiệp mà còn sử dung cho nhiều mục đích khác...chính vì vậy, việc phát triển nông nghiệp theo
chiều sâu của ĐNB cần phải được tiến hành theo những hướng chính sau đây:

Cần thiết phải đầu tư để hình thành những vùng chuyên canh cây công nghiệp quy mô lớn chuyên môn hoá sâu, đó là
chuyên canh cao su, cà phê, tiêu, điều, lạc, mía, đậu tương. Các vùng chuyên canh nông nghiệp phải được phát triển gắn chặt với
các nhà máy chế biến tạo thành liên hợp nông-công nghiệp có mối quan hệ khăng khít giữa sản xuất nguyên liệu với công nghiệp
chế biến và tiêu dùng.

-Để tăng năng suất sản lượng cây công nghiệp, cần phải đầu tư phát triển mạnh thủy lợi, nâng cấp hiện đại Hồ Dầu tiếng
(hiện nay có khả năng chứa 1,5 tỷ m3 nước) cung cấp nước tưới cho 170.000ha ở một số huyện thuộc tỉnh Tây Ninh và Củ Chithành
phố Hồ Chí Minh). Phải mở rộng diện tích tăng thêm công suất tưới tiêu cho hồ chứa nước này.

-Bên cạnh việc sử dụng các dòng sông để phát triển nhà máy thuỷ điện thì cần phải kết hợp chặt chẽ giữa thủy điện với thuỷ
lợi, nghĩa là các nhà máy thuỷ điện được xây dựng ngoài chức năng cho điện còn chức năng điều tiết nước tưới và nuôi trồng thuỷ
sản.

-Phải đầu tư thâm canh cao, xen canh, tăng vụ, gối vụ để nâng cao hệ số sử dụng đất.

- Phải mạnh dạn nhập ngoại các giống cây công nghiệp năng suất cao chất lượng cao thay thế cho các giống cây công
nghiệp năng suất thấp như giống cao su từ Malaisia có năng suất cao gấp 2 Việt Nam, và nhiều giống cây công nghiệp đặc sản khác
như: cọ dầu, điều, thanh long...

-Trong phát triển nông nghiệp ở ĐNB cần phải gắn chặt với những biện pháp bảo vệ vốn rừng đặc biệt là rừng đầu nguồn
của sông La Ngà, sông Đanhim, Đồng Nai cùng với củng cố mở rộng vườn quốc gia Cát Tiên để điều tiết nước ngầm, giữ cân bằng
hệ sinh thái.

-Trong phát triển công nghiệp cũng như nông nghiệp ở ĐNB cần phải đấu tư phát triển mạnh các ngành dịch vụ như công
nghiệp chế biến, thương nghiệp, du lịch tạo thành một hệ thống kinh tế hoàn chỉnh hỗ trợ cho nhau cùng phát triển và khai thác hết
tiềm năng về tài nguyên, kinh tế xã hội, về nhân văn trong vùng

K.Lâm
Xem chi tiết
nguyễn phương thảo
Xem chi tiết
Nguyễn  Việt Dũng
26 tháng 10 2023 lúc 2:04

1. Tại sao ở lục địa Ô-xtray-li a công nghiệp khai thác phát triển mạnh nhưng hiện nay đang giảm tốc độ khai thác? Công nghiệp khai thác tài nguyên tại Ô-xtray-li-a đã phát triển mạnh trong nhiều năm qua, đặc biệt là trong lĩnh vực khai thác than và quặng sắt. Tuy nhiên, việc khai thác tài nguyên này đã gây ra nhiều tác động tiêu cực đến môi trường và sức khỏe con người. Nhiều người dân và các tổ chức môi trường đã lên tiếng phản đối việc khai thác tài nguyên này và yêu cầu chính phủ đưa ra các biện pháp bảo vệ môi trường. Do đó, chính phủ Ô-xtray-li-a đã áp đặt các hạn chế và quy định mới về khai thác tài nguyên, dẫn đến giảm tốc độ khai thác.

Nguyễn  Việt Dũng
26 tháng 10 2023 lúc 2:04

2. Băng ở Nam Cực tan ra có tác động tiêu cực như thế nào đến với thiên nhiên trên Trái Đất? Sự tan chảy của băng ở Nam Cực có tác động tiêu cực đến môi trường và động thực vật trên Trái Đất. Khi băng tan ra, nó làm tăng mực nước biển, gây ra hiện tượng triều cường và lụt lội. Ngoài ra, sự tan chảy của băng cũng ảnh hưởng đến chu kỳ thủy văn và khí hậu toàn cầu. Nó cũng có thể gây ra sự thay đổi đáng kể trong hệ sinh thái và ảnh hưởng đến động vật và thực vật sống trong khu vực đó.

Nguyễn  Việt Dũng
26 tháng 10 2023 lúc 2:04

3. Tan băng ở Nam Cực đã ảnh hưởng như thế nào đến thiên nhiên ở Việt Nam? Sự tan chảy của băng ở Nam Cực không ảnh hưởng trực tiếp đến thiên nhiên ở Việt Nam. Tuy nhiên, nó có thể gây ra sự thay đổi đáng kể trong hệ sinh thái và ảnh hưởng đến động vật và thực vật sống trong khu vực đó. Ngoài ra, sự thay đổi khí hậu toàn cầu do sự tan chảy của băng cũng có thể ảnh hưởng đến khí hậu và môi trường ở Việt Nam.