Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài

Những câu hỏi liên quan
Trần Bảo Hân
Xem chi tiết
✿✿❑ĐạT̐®ŋɢย❐✿✿
25 tháng 5 2019 lúc 10:22

Trong tổng số 25 di sản được UNESCO công nhận, Việt Nam tự hào có tám di sản văn hóa, thiên nhiên. Con số này không lớn nếu so với các quốc gia có nhiều di sản thế giới được UNESCO công nhận như: I-ta-li-a (53), Trung Quốc (48), Pháp (41), Tây Ban Nha (39), Ðức (38), Ấn Ðộ (35) … Tuy nhiên, chúng ta có thể tự hào bởi Việt Nam được xem là một trong các quốc gia "giàu có" về di sản ở khu vực và châu Á.

Có thể nói, trong thời gian qua, các di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới ở Việt Nam đã có bước tiến lớn trong việc tuyên truyền, quảng bá, thu hút khách du lịch tới tham quan, nghiên cứu. Di sản không chỉ mang lại hiệu quả to lớn trong giao lưu văn hóa, quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam với thế giới mà còn giáo dục truyền thống yêu nước, yêu quê hương. Thông qua hoạt động du lịch, di sản đã góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước nói chung, các địa phương sở hữu di sản nói riêng.

Những con số biết nói từ du lịch di sản trong năm 2017 đã minh chứng cho điều đó. Năm 2017, các di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới của Việt Nam đã thu hút 15,76 triệu lượt khách, trong đó có hơn 6,5 triệu lượt khách quốc tế với doanh thu khoảng 1.456 tỷ đồng. Trong đó, vịnh Hạ Long đón hơn 3,6 triệu lượt khách (trong đó 2,4 triệu lượt khách quốc tế), thu từ vé đạt khoảng 1.100 tỷ đồng. Quần thể danh thắng Tràng An đón gần 6,126 triệu lượt khách (trong đó gần 711 nghìn lượt khách quốc tế), doanh thu từ phí danh lam và phí chở đò đạt khoảng 652,2 tỷ đồng. Quần thể di tích Cố đô Huế đón khoảng 3 triệu lượt khách (trong đó hơn 1,8 triệu lượt khách quốc tế), thu từ vé hơn 320 tỷ đồng (tăng gấp bốn lần so với năm 2011, khoảng 80 tỷ đồng). Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng đón 810 nghìn lượt khách (trong đó 133 nghìn lượt khách quốc tế), doanh thu trực tiếp từ hoạt động du lịch khoảng 215 tỷ đồng. Khu phố cổ Hội An đón 1,96 triệu lượt khách (trong đó hơn 1,5 triệu lượt khách quốc tế), thu từ vé khoảng 219 tỷ đồng. Khu Di tích Mỹ Sơn đón hơn 350 nghìn lượt khách (trong đó hơn 300 nghìn lượt khách quốc tế), thu từ vé hơn 50 tỷ đồng.

Gìn giữ, phát huy như thế nào?

Ngoài nguồn lợi có thể đong đếm được từ phát triển du lịch thì di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới đem lại một nguồn lợi vô hình và hết sức to lớn, đó là đưa giá trị văn hóa, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam đến với bạn bè quốc tế. Tuy nhiên, việc cân đối hài hòa giữa bảo tồn, gìn giữ và phát triển như thế nào vẫn luôn là bài toán không dễ tìm lời giải.

Bảo tồn di sản mà không đem lại lợi ích cho cộng đồng thì việc bảo tồn sẽ không bền vững. Nhưng khai thác mà bất chấp việc giữ gìn di sản thì sẽ tự đánh mất tài nguyên vô tận của mình. Bài học về các di sản bị UNESCO rút danh hiệu vì không giữ được tính nguyên vẹn như thung lũng Elbe ở Dresden (Ðức), đền thờ Arabian Oryx (Ô-man)… vẫn chưa bao giờ cũ.

Nhiều di sản thế giới ở Việt Nam cũng đang bị thách thức bởi áp lực phát triển kinh tế. Cách đây hai năm, việc đổ đất lấn biển trong vùng di sản Hạ Long để xây dựng các khu du lịch, khu đô thị tại tỉnh Quảng Ninh đã khiến dư luận có nhiều ý kiến trái chiều. Câu trả lời cho việc bảo tồn hay làm kinh tế, các ý kiến mà dư luận và các chuyên gia đưa ra vượt qua chính khả năng của cơ quan quản lý ở địa phương. Ðến năm 2017, việc khai thác các dịch vụ trong hang động, phá núi khai thác đá, khai thác đánh bắt hải sản trong vùng di sản… tiếp tục đưa di sản thiên nhiên thế giới Hạ Long vào "tầm ngắm" của UNESCO.

Một điểm nóng khác là Vườn quốc gia Phong Nha- Kẻ Bàng. Năm 2016, chủ trương xây dựng cáp treo để khai thác du lịch ở khu Sơn Ðoòng của tỉnh Quảng Bình đã vấp phải phản ứng gay gắt của dư luận. Năm 2017, hoạt động thí điểm mở tuyến du lịch mới trong Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng cũng không nhận được sự đồng thuận của các tổ chức, các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu, bảo tồn di sản. Chưa kể, với nguồn tài nguyên vô cùng đa dạng và phong phú, Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng là "mỏ vàng" của lâm tặc. Nhiệm vụ bảo tồn di sản ở nơi đây đòi hỏi sự vào cuộc đồng bộ của nhiều cơ quan, đơn vị chứ không chỉ riêng ngành văn hóa. Sự thiếu quyết liệt của địa phương, chồng chéo trong quản lý đang là một rào cản đối với nhiệm vụ này.

Một thực tế đáng lo ngại là liên tục từ năm 2014 đến 2017, các kỳ họp của Ủy ban Di sản thế giới luôn có khuyến nghị liên quan đến các dự án phát triển du lịch tại Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng; tình trạng quản lý, bảo tồn đối với Quần thể danh thắng Tràng An, vịnh Hạ Long.

Mặc dù chúng ta đã có báo cáo giải trình với Trung tâm Di sản thế giới, trong đó, đưa ra cam kết những công việc đã và đang triển khai nhằm quản lý, bảo tồn và phát huy tốt các giá trị di sản, nhưng tại Quyết định lần thứ 41 (năm 2017), Ủy ban Di sản thế giới vẫn tiếp tục bày tỏ quan ngại sâu sắc về nhiều vấn đề bảo tồn của Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng. Thậm chí, tháng 11-2017 vừa qua, Trung tâm Di sản thế giới và Hiệp hội Bảo tồn thiên nhiên thế giới đã có công hàm gửi Việt Nam về việc cử đoàn chuyên gia quốc tế vào khảo sát thực địa tại Vườn quốc gia Phong Nha- Kẻ Bàng để đánh giá tình trạng bảo tồn di sản thực hiện theo khuyến nghị của Ủy ban Di sản thế giới vào tháng 4-2018.

Thực tế cho thấy, đã đến lúc chúng ta phải thực thi nghiêm túc, đồng bộ hơn nữa các cam kết bảo tồn di sản sau khi được UNESCO công nhận. Ðể làm được như vậy, ngoài vai trò của các địa phương sở hữu di sản thì sự giám sát của các cơ quan chức năng ở cấp trung ương là vô cùng cần thiết. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật; phân cấp quản lý rõ ràng, cụ thể, tránh chồng chéo ảnh hưởng tới nhiệm vụ bảo vệ di sản. Chỉ có như vậy, chúng ta mới có thể bảo vệ bền vững các di sản thế giới, món quà vô giá của thiên nhiên và cha ông để lại; trao truyền cho các thế hệ tương lai nguyên vẹn những giá trị nổi bật toàn cầu mà UNESCO công nhận.

Trần Bảo Hân
Xem chi tiết
Nguyen
16 tháng 5 2019 lúc 18:48

Di sản thiên nhiên và văn hóa được coi là nguồn tài nguyên vô giá tạo nên sức hút du lịch riêng cho mỗi quốc gia. Để khai thác di sản phục vụ phát triển du lịch bền vững, đồng thời vẫn bảo tồn và phát huy được giá trị di sản cho thế hệ tương lai là bài toán không hề đơn giản đối với nhiều nước, trong đó có Việt Nam.

Chưa được quan tâm đúng mức

Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp chỉ có thể phát triển trên cơ sở khai thác các giá trị tài nguyên du lịch. Từ góc độ này, kho tàng di sản đồ sộ ở cả loại hình vật thể, phi vật thể cùng hệ thống di tích thiên nhiên, lịch sử, văn hóa phong phú, dày đặc của Việt Nam chính là nguồn tài nguyên du lịch lớn, góp phần quan trọng tạo nên sự hấp dẫn, độc đáo cho sản phẩm du lịch giữa các vùng miền, địa phương trong nước và giữa Việt Nam với các quốc gia khác.

Ở chiều ngược lại, hoạt động du lịch cũng là cầu nối hữu hiệu giúp quảng bá, phát huy giá trị di sản, mang lại lợi ích thiết thực cho cộng đồng, từ đó giới thiệu hình ảnh, văn hóa Việt Nam tới công chúng cả nước, nhất là bạn bè quốc tế. Đơn cử, năm 2017, Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh) đã đón hơn 3,6 triệu lượt khách, trong đó có 2,4 triệu lượt khách quốc tế, thu khoảng 1.100 tỷ đồng từ bán vé; quần thể di tích Cố đô Huế đón khoảng 3 triệu lượt khách, trong đó có hơn 1,8 triệu lượt khách quốc tế, thu hơn 320 tỷ đồng từ bán vé; Khu phố cổ Hội An (Quảng Nam) đón 1,96 triệu lượt khách, thu về 219 tỷ đồng từ bán vé… Như vậy, có thể thấy giữa hoạt động bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển du lịch có mối quan hệ tương hỗ mật thiết. Nếu biết quản lý, sử dụng đúng hướng, di sản sẽ là nguồn lực lớn mang đến lợi nhuận lâu dài, bền vững cho du lịch nói riêng và nền kinh tế - xã hội nói chung.

Tuy nhiên, từ thực tiễn hoạt động du lịch dựa trên khai thác di sản thời gian qua, dễ nhận thấy để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế, phần thua thiệt thường thuộc về di sản khi công tác bảo tồn “nguồn vốn tự nhiên” này chưa được coi trọng đúng mức. Bằng chứng là để đánh đổi cho những công trình hoành tráng như các khu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, hệ thống cáp treo…; hàng trăm nghìn héc-ta rừng đã biến mất, nhiều bãi biển đẹp bị biến dạng, nhiều dãy núi bị tàn phá; và cùng với đó là sự biến đổi hệ sinh thái tự nhiên cũng như môi trường văn hóa của cộng đồng dân cư trong khu vực. Ở châu Á, UNESCO từng lên tiếng cảnh báo đối với In-đô-nê-xi-a khi văn hóa bản địa ở Ba-li gần như biến mất do phát triển du lịch “nóng”. Cố đô Ayutthaya, di sản văn hóa thế giới nổi tiếng của Thái-lan cũng từng làm chính phủ nước này đau đầu khi hoạt động du lịch có khả năng làm biến đổi các giá trị căn bản của di tích đã được Công ước Bảo tồn Di sản văn hóa thiên nhiên ghi nhận. Đáng chú ý, thung lũng Elbe ở Đức đã phải rút khỏi danh sách di sản thế giới do mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Còn ở Việt Nam, Vịnh Hạ Long không dưới một lần lọt vào tầm ngắm báo động của UNESCO bởi các hạng mục kinh tế, du lịch phát triển ồ ạt làm thay đổi cảnh quan, môi trường nơi đây. Báo giới từng tốn không ít giấy mực khi phải “kêu cứu” cho nhiều di sản của Việt Nam trước làn sóng du lịch. Ấy là khi các hang động ở Vịnh Hạ Long trở thành địa điểm tổ chức những dạ tiệc xa hoa cho du khách; bên trong động Thiên Đường (Quảng Bình) có nguy cơ trở thành nơi tổ chức Cuộc thi Hoa hậu Hòa Bình Thế giới 2017; những dự án đầu tư du lịch ở bán đảo Sơn Trà gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới cảnh quan, hệ sinh thái của nơi được ví là “lá phổi xanh” của Đà Nẵng; hay khi dự án xây dựng cáp treo và khai thác con đường thám hiểm xuyên động Sơn Đoòng (Quảng Bình) gây nhiều ý kiến trái chiều trong dư luận… Mới đây những chuyên gia di sản và công chúng lại tiếp tục ngỡ ngàng, đau xót khi một “công trình du lịch đồ sộ” bỗng mọc lên ngay giữa vùng lõi Khu di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới Tràng An (Ninh Bình) mà không hề được cấp phép; tượng Bà Chúa Xứ thứ hai cũng được doanh nghiệp lén lút thi công trên núi Sam (An Giang). Dù các công trình này đã buộc phải tháo dỡ, nhưng những tổn thương mà chúng gây ra đối với cảnh quan, hệ sinh thái di sản khó có thể khắc phục. Rõ ràng, nếu mối quan hệ biện chứng giữa phát triển du lịch và bảo tồn, phát huy giá trị di sản không được nhìn nhận một cách khách quan, đầy đủ, có định hướng thì sự phát triển du lịch theo kiểu đặt mục tiêu kinh tế lên hàng đầu sẽ chỉ mang đến những lợi ích ngắn hạn trước mắt và để lại hậu quả dài lâu.

Bảo tồn tích cực để phát triển bền vững

Khi du lịch được xác định trở thành một trong những ngành kinh tế chủ lực của đất nước thì yêu cầu phát triển du lịch bền vững gắn liền với bảo tồn giá trị di sản càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn đã nhấn mạnh quan điểm: “Phát triển du lịch bền vững; bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa và các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc; bảo vệ môi trường và thiên nhiên…”. Muốn thế, mối quan hệ giữa phát triển du lịch và bảo tồn di sản phải được xử lý hài hòa, hợp lý trên cơ sở ứng xử có trách nhiệm của những bên liên quan mà đi đầu là những cơ quan quản lý du lịch và di sản. Theo Chủ tịch Liên hiệp các Hội UNESCO Việt Nam Nguyễn Xuân Thắng, về mặt vĩ mô, mô hình phát triển du lịch quốc gia cần được hoạch định dài hơi, trong đó không chỉ lấy yếu tố lợi nhuận làm mục tiêu mà còn cần tính đến những lợi ích cho tương lai thông qua sử dụng một cách hợp lý, hiệu quả và nhân văn nguồn tài nguyên thiên nhiên, văn hóa mà cha ông để lại. Bên cạnh tính khả thi của các đề án kinh tế, cần phê duyệt cả những mục tiêu văn hóa bảo đảm tính bền vững cho những nguồn tài nguyên không có khả năng tái tạo. Ngoài ra, nên học tập các nước về thể chế hóa các tiêu chí kinh tế-văn hóa dành cho các hoạt động đầu tư, phát triển kinh tế để có thể đưa ra các giới hạn trong quản lý, theo dõi các dự án, bảo đảm cân bằng lợi ích kinh tế trước mắt và mục tiêu văn hóa lâu dài.

Di sản là tài nguyên du lịch không thể thay thế, cho nên giải quyết thỏa đáng mối quan hệ giữa bảo tồn di sản và phát triển du lịch theo hướng bền vững đòi hỏi phải tuân thủ nguyên tắc cái mới, cái xây dựng sau nhất thiết phải tôn trọng di sản gốc. Thời gian qua, do không tuân thủ nguyên tắc này cho nên nhiều di sản đã bị phục chế, làm mới dẫn đến biến dạng, méo mó các giá trị ban đầu. Hiện nay, các nhà khoa học đã đưa ra khái niệm “bảo tồn tích cực”, tức đưa các giá trị vốn có của di sản vào phục vụ cuộc sống, từ đó bảo tồn và phát huy những giá trị đó. Nhưng muốn thế, cần có sự bắt tay chặt chẽ giữa những người làm du lịch và những người làm di sản. Những dự án phát triển du lịch gắn với khai thác di sản muốn triển khai, nhất định phải có sự tính toán, tham vấn kỹ lưỡng từ những chuyên gia di sản thông qua các hoạt động chuyên môn nhằm đánh giá chi tiết những tác động đến di sản, từ đó bảo đảm khống chế các tác động ở mức độ cho phép. Trong quy hoạch tổ chức không gian du lịch, cần quản lý được sức chứa phù hợp khả năng chịu tải của tài nguyên, môi trường du lịch tại di sản.

Theo Tiến sĩ Mai Hà Phương, Trưởng Khoa Du lịch, Trường đại học Văn hóa TP Hồ Chí Minh, ngoài vấn đề quan trọng là đào tạo đội ngũ cán bộ từ quản lý di sản đến những người làm du lịch am hiểu về văn hóa và kinh doanh du lịch, cần lưu ý quan điểm gắn di sản với phát triển du lịch không có nghĩa là tất cả các di sản đều được phép khai thác du lịch. Có những di sản chưa, hoặc không được khai thác du lịch mà phải bảo tồn. Trong phát triển du lịch tại các khu di sản, cần giải quyết hài hòa mối quan hệ và quyền lợi của các bên tham gia, nhất là cộng đồng địa phương với tư cách là chủ nhân của di sản trong các hoạt động bảo vệ, quản lý và khai thác di sản, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa để tạo thêm nguồn kinh phí cho trùng tu, bảo tồn di sản.

Trần Bảo Hân
Xem chi tiết
✿✿❑ĐạT̐®ŋɢย❐✿✿
25 tháng 5 2019 lúc 10:22

Trong tổng số 25 di sản được UNESCO công nhận, Việt Nam tự hào có tám di sản văn hóa, thiên nhiên. Con số này không lớn nếu so với các quốc gia có nhiều di sản thế giới được UNESCO công nhận như: I-ta-li-a (53), Trung Quốc (48), Pháp (41), Tây Ban Nha (39), Ðức (38), Ấn Ðộ (35) … Tuy nhiên, chúng ta có thể tự hào bởi Việt Nam được xem là một trong các quốc gia "giàu có" về di sản ở khu vực và châu Á.

Có thể nói, trong thời gian qua, các di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới ở Việt Nam đã có bước tiến lớn trong việc tuyên truyền, quảng bá, thu hút khách du lịch tới tham quan, nghiên cứu. Di sản không chỉ mang lại hiệu quả to lớn trong giao lưu văn hóa, quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam với thế giới mà còn giáo dục truyền thống yêu nước, yêu quê hương. Thông qua hoạt động du lịch, di sản đã góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước nói chung, các địa phương sở hữu di sản nói riêng.

Những con số biết nói từ du lịch di sản trong năm 2017 đã minh chứng cho điều đó. Năm 2017, các di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới của Việt Nam đã thu hút 15,76 triệu lượt khách, trong đó có hơn 6,5 triệu lượt khách quốc tế với doanh thu khoảng 1.456 tỷ đồng. Trong đó, vịnh Hạ Long đón hơn 3,6 triệu lượt khách (trong đó 2,4 triệu lượt khách quốc tế), thu từ vé đạt khoảng 1.100 tỷ đồng. Quần thể danh thắng Tràng An đón gần 6,126 triệu lượt khách (trong đó gần 711 nghìn lượt khách quốc tế), doanh thu từ phí danh lam và phí chở đò đạt khoảng 652,2 tỷ đồng. Quần thể di tích Cố đô Huế đón khoảng 3 triệu lượt khách (trong đó hơn 1,8 triệu lượt khách quốc tế), thu từ vé hơn 320 tỷ đồng (tăng gấp bốn lần so với năm 2011, khoảng 80 tỷ đồng). Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng đón 810 nghìn lượt khách (trong đó 133 nghìn lượt khách quốc tế), doanh thu trực tiếp từ hoạt động du lịch khoảng 215 tỷ đồng. Khu phố cổ Hội An đón 1,96 triệu lượt khách (trong đó hơn 1,5 triệu lượt khách quốc tế), thu từ vé khoảng 219 tỷ đồng. Khu Di tích Mỹ Sơn đón hơn 350 nghìn lượt khách (trong đó hơn 300 nghìn lượt khách quốc tế), thu từ vé hơn 50 tỷ đồng.

Gìn giữ, phát huy như thế nào?

Ngoài nguồn lợi có thể đong đếm được từ phát triển du lịch thì di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới đem lại một nguồn lợi vô hình và hết sức to lớn, đó là đưa giá trị văn hóa, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam đến với bạn bè quốc tế. Tuy nhiên, việc cân đối hài hòa giữa bảo tồn, gìn giữ và phát triển như thế nào vẫn luôn là bài toán không dễ tìm lời giải.

Bảo tồn di sản mà không đem lại lợi ích cho cộng đồng thì việc bảo tồn sẽ không bền vững. Nhưng khai thác mà bất chấp việc giữ gìn di sản thì sẽ tự đánh mất tài nguyên vô tận của mình. Bài học về các di sản bị UNESCO rút danh hiệu vì không giữ được tính nguyên vẹn như thung lũng Elbe ở Dresden (Ðức), đền thờ Arabian Oryx (Ô-man)… vẫn chưa bao giờ cũ.

Nhiều di sản thế giới ở Việt Nam cũng đang bị thách thức bởi áp lực phát triển kinh tế. Cách đây hai năm, việc đổ đất lấn biển trong vùng di sản Hạ Long để xây dựng các khu du lịch, khu đô thị tại tỉnh Quảng Ninh đã khiến dư luận có nhiều ý kiến trái chiều. Câu trả lời cho việc bảo tồn hay làm kinh tế, các ý kiến mà dư luận và các chuyên gia đưa ra vượt qua chính khả năng của cơ quan quản lý ở địa phương. Ðến năm 2017, việc khai thác các dịch vụ trong hang động, phá núi khai thác đá, khai thác đánh bắt hải sản trong vùng di sản… tiếp tục đưa di sản thiên nhiên thế giới Hạ Long vào "tầm ngắm" của UNESCO.

Một điểm nóng khác là Vườn quốc gia Phong Nha- Kẻ Bàng. Năm 2016, chủ trương xây dựng cáp treo để khai thác du lịch ở khu Sơn Ðoòng của tỉnh Quảng Bình đã vấp phải phản ứng gay gắt của dư luận. Năm 2017, hoạt động thí điểm mở tuyến du lịch mới trong Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng cũng không nhận được sự đồng thuận của các tổ chức, các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu, bảo tồn di sản. Chưa kể, với nguồn tài nguyên vô cùng đa dạng và phong phú, Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng là "mỏ vàng" của lâm tặc. Nhiệm vụ bảo tồn di sản ở nơi đây đòi hỏi sự vào cuộc đồng bộ của nhiều cơ quan, đơn vị chứ không chỉ riêng ngành văn hóa. Sự thiếu quyết liệt của địa phương, chồng chéo trong quản lý đang là một rào cản đối với nhiệm vụ này.

Một thực tế đáng lo ngại là liên tục từ năm 2014 đến 2017, các kỳ họp của Ủy ban Di sản thế giới luôn có khuyến nghị liên quan đến các dự án phát triển du lịch tại Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng; tình trạng quản lý, bảo tồn đối với Quần thể danh thắng Tràng An, vịnh Hạ Long.

Mặc dù chúng ta đã có báo cáo giải trình với Trung tâm Di sản thế giới, trong đó, đưa ra cam kết những công việc đã và đang triển khai nhằm quản lý, bảo tồn và phát huy tốt các giá trị di sản, nhưng tại Quyết định lần thứ 41 (năm 2017), Ủy ban Di sản thế giới vẫn tiếp tục bày tỏ quan ngại sâu sắc về nhiều vấn đề bảo tồn của Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng. Thậm chí, tháng 11-2017 vừa qua, Trung tâm Di sản thế giới và Hiệp hội Bảo tồn thiên nhiên thế giới đã có công hàm gửi Việt Nam về việc cử đoàn chuyên gia quốc tế vào khảo sát thực địa tại Vườn quốc gia Phong Nha- Kẻ Bàng để đánh giá tình trạng bảo tồn di sản thực hiện theo khuyến nghị của Ủy ban Di sản thế giới vào tháng 4-2018.

Thực tế cho thấy, đã đến lúc chúng ta phải thực thi nghiêm túc, đồng bộ hơn nữa các cam kết bảo tồn di sản sau khi được UNESCO công nhận. Ðể làm được như vậy, ngoài vai trò của các địa phương sở hữu di sản thì sự giám sát của các cơ quan chức năng ở cấp trung ương là vô cùng cần thiết. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật; phân cấp quản lý rõ ràng, cụ thể, tránh chồng chéo ảnh hưởng tới nhiệm vụ bảo vệ di sản. Chỉ có như vậy, chúng ta mới có thể bảo vệ bền vững các di sản thế giới, món quà vô giá của thiên nhiên và cha ông để lại; trao truyền cho các thế hệ tương lai nguyên vẹn những giá trị nổi bật toàn cầu mà UNESCO công nhận.

Thảo Phương
Xem chi tiết
Mai Trung Hải Phong
31 tháng 8 2023 lúc 15:34

Phương pháp giải:

- Học sinh chọn một trong hai đề.

- Đọc lại yêu cầu đối với kiểu bài trong hai đề.

- Lập dàn ý.

Lời giải chi tiết:

Đề a

1. Mở bài

     Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm và nội dung chính của bài viết: Thiên nhiên và con người trong Cảnh khuya (Hồ Chí Minh).

2. Thân bài

 Giới thiệu và trích dẫn lần lượt các câu thơ để phân tích, đánh giá.

- Hai câu thơ đầu tiên: miêu tả bức tranh thiên nhiên tươi đẹp.

Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa

+ Hình ảnh “tiếng suối”: Vào ban đêm, chỉ với ánh trăng mà nhà thơ cũng có thể thấy được sự trong veo của nước suối.

+ Ánh trăng đêm quả thật rất đẹp, rất sáng. Ánh trăng còn nổi bật hơn ở hình ảnh “trăng lồng cổ thụ” ánh trăng sáng bao quát cả một cây đại thụ lớn kết hợp với tiếng tiếng suối thanh trong như điệu nhạc êm, hát mãi không ngừng.

+ Biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa

=> Hình ảnh ánh trăng làm bừng sáng thiên nhiên nơi chiến khi Việt Bắc. Một không gian thiên nhiên huyền ảo vừa có ánh sáng, vừa có âm thanh.

- Câu thơ thứ 3: Khắc họa hình ảnh nhân vật trữ tình.

Cảnh khuya như vẽ, người chưa ngủ

+ Cảnh đêm trăng tuyệt đẹp như bức họa thế kia thì làm sao mà ngủ được. Phải chăng Người đang thao thức về một đêm trăng sáng với âm thanh vang vọng trong trẻo của núi rừng.

+ Biện pháp tu từ: So sánh.

- Câu thơ thứ 4: Bài thơ kết thúc bằng một lời giải thích ngắn gọn, thẳng thắn nhưng lại rất đáng quý và trân trọng.

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà

+ Câu thơ cuối càng làm nổi rõ hơn nguyên nhân không ngủ được của Bác đó là “lo nỗi nước nhà”

+ Sự độc đáo của thơ Hồ Chí Minh là bài thơ kết thúc với một lời giải thích, vô cùng thẳng thắn và ngắn gọn nhưng cũng rất đáng quý trọng. à chân thực, giản dị.

3. Kết bài

     Khẳng định lại giá trị của chủ đề.

Đề b

1. Mở bài

     Nêu vấn đề xã hội cần nghị luận: Tầm quan trọng của động cơ học tập

2. Thân bài

a. Thế nào là động cơ học tập?

Từ khái niệm động cơ để làm rõ khái niệm về động cơ học tập.

+ Theo J. Piaget, “Động cơ là tất cả các yếu tố thúc đẩy cá thể hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu và định hướng cho hoạt động đó”.

+ Theo Phan Trọng Ngọ, “Động cơ học tập là cái mà việc học của họ phải đạt được để thỏa mãn nhu cầu của mình. Nói ngắn gọn, học viên học cái gì thì đó là động cơ học tập của học viên”.

b. Động cơ học tập được hình thành như thế nào?

- Được hình thành dần dần trong quá trình học tạp của học sinh.

- Có thể chia làm hai loại: động cơ bên ngoài (động cơ xã hội) và động cơ bên trong (động cơ hoàn thiện tri thức).

c. Tầm quan trọng của động cơ học tập

     Động cơ học tập đúng đắn sẽ kích thích tinh thần học hỏi của học sinh. Từ đó nâng cao hiệu quả và kết quả của việc học.

d. Cần làm gì để kích thích động cơ học tập của học sinh

- Mỗi học sinh cần ý thức được tầm quan trọng của việc học, cần có mục tiêu rõ ràng (Đặt câu hỏi “Học để làm gì?”), có phương pháp học tập đúng đắn.

- Việc hỗ trợ của phụ huynh và giáo viên cũng rất cần thiết. Cha mẹ cần giải thích rõ cho con hiểu về lợi ích của việc học và tác hại nếu như con người không có tri thức để tạo một động cơ học tập tích cực cho con.

- Giáo viên hãy tăng hứng thú trong mỗi giờ học bằng lối giảng truyền cảm, đôi khi pha chút thú vị, thường xuyên thay đổi phương pháp dạy để học sinh tìm kiếm được những điều mới lạ trong những trang sách.

3. Kết bài

     Khẳng định tầm quan trọng của động cơ học tập.

Quoc Tran Anh Le
Xem chi tiết
Hà Quang Minh
24 tháng 11 2023 lúc 14:28

Đề a:

Nghị luận đặc sắc nghệ thuật của bài thơ Cảnh khuya

+ Mở bài 

 Hồ Chí Minh không chỉ là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam mà còn là một nhà văn, nhà thơ lớn của đất nước. Bài thơ Cảnh khuya là một trong những tác phẩm thơ tiêu biểu của Người.Tác phẩm nổi bật với thể thất ngôn bát cú và cách sử dụng biện pháp nghệ thuật tài tình

+ Thân bài 

 Cảnh đẹp của đêm trăng nơi núi rừng Việt Bắc;

 - Âm thanh: “Tiếng suối trong như tiếng hát xa’’. Biện pháp so sánh, âm thanh của thiên nhiên được so sánh với âm thanh tiếng hát du dương, tha thiết. Qua đó gợi cho người đọc một liên tưởng, tiếng suối có sức sống như con người

 - Hình ảnh: “Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”. Điệp từ “lồng” làm cho bức tranh thiên nhiên có nhiều tầng lớp, đường nét, hình khối. Tạo nên vẻ đẹp lung linh, huyền ảo, ấm áp hòa hợp quấn quýt do âm hưởng của từ lồng

Tâm trạng của Người

 - Điệp ngữ “chưa ngủ” mở ra hai nét tâm trạng của tác giả

 - Chưa ngủ vì cảnh đẹp, thể hiện được chất thi sĩ trong con người của Bác; chưa ngủ vì lo lắng cho tương lai, cho vận mệnh của đất nước, đây lại là tinh thần của một con người yêu nước, một chiến sĩ cách mạng thực thụ.

+ Kết bài 

 Khái quát về giá trị nội dung cũng như nghệ thuật của bài thơ: Thể hiện sống động bức tranh thiên nhiên trong đêm khuya ở núi rừng Việt Bắc, đồng thời phác họa thành công bức chân dung của người chiến sĩ cách mạng yêu nước, hết lòng lo lắng cho vận mệnh của đất nước.

Hà Quang Minh
24 tháng 11 2023 lúc 14:29

 Đề b:

 Nghị luận về đại dịch covid-19

+ Mở bài

Giới thiệu, dẫn dắt về vấn đề cần nghị luận: Tinh thần đoàn kết dân tộc.

Đại dịch covid 19 vừa qua đã gây một cuộc khủng hoảng lớn cả về kinh tế lẫn đời sống của người dân trên thế giới, đặc biệt là Việt Nam. Nhưng qua đại dịch này, chúng ta lại một lần nữa khẳng định được truyền thống đoàn kết dân tộc lâu dời của con dân đất Việt

+ Thân bài

 Giải thích về tinh thần đoàn kết dân tộc:

 Tinh thần đoàn kết chính là tình yêu thương giữa người với người, sống có trách nhiệm với cộng đồng, sẵn sàng giúp đỡ, ra tay cứu người trong lúc hoạn nạn. Tinh thần ấy được mô tả qua nhiều câu ca dao, tục ngữ ngàn xưa của ông bà ta: “Bầu ơi thương lấy bí cùng/ Tuy rằng khác giống nhưng chung một dàn

 Vai trò, sức mạnh, ý nghĩa của tinh thần đoàn kết dân tộc.

 - Tạo nên sức mạnh to lớn đối với thời cuộc, giúp gắn kết con người với con người trong một xã hội.

 - Khiến con người biết bao dung, nhường nhịn và sẻ chia.

 - Đem lại cuộc sống hòa bình, tốt đẹp

 Dẫn chứng, chứng minh hành động cụ thể:.

 - Chính phủ nước ta đã có động thái quyết tâm bảo vệ, giúp đỡ công dân, tạo điều kiện đón họ trở về từ vùng dịch. Phương ngôn của chính phủ lúc đó chính là “Việt Nam quyết tâm không để ai bị bỏ lại phía sau”.

 - Các hoạt động thiện nguyện như phát đồ ăn miễn phí, làm cơm hỗ trợ cán bộ y tế trên tuyến đầu chống dịch, giúp đỡ hỗ trợ những người hoàn cảnh khó khăn. Cây ATM gạo

- Học sinh, sinh viên các trường đại học phát khẩu trang, nước rửa tay cho người dân.

- Phong trào giải cứu dưa hấu, giải cứu tôm hùm,… khắp các tỉnh thành.

– Phê phán, ngăn chặn những hành vi gây ảnh hưởng đến đát nước như lan truyền thông tin bịa đặt, có hành vi gây rối, chống lại dĐảng và nhà nước, lợi dụng dịch bệnh tăng giá hay ép giá người dân.Qua đó thấy được tinh thần đoàn kết vững mạnh của nhân dân Việt Nam

+ Kết bài

 Khẳng định lại vấn đề.

Nguyễn Tuấn Đức
Xem chi tiết
Buddy
Xem chi tiết
Thanh An
3 tháng 3 2023 lúc 15:22

* Giống nhau: Liên hệ, mở rộng, so sánh với thực tiễn đời sống và suy nghĩ của bản thân

- Xác định các luận điểm trong bài viết và lựa chọn các dẫn chứng cụ thể, sinh động

- Triển khai bài viết đảm bảo sáng rõ ý kiến và hệ thống luận điểm

* Khác nhau:

- Bài văn nghị luận phân tích, đánh giá tác phẩm thơ

  + Chỉ ra giá trị của các yếu tố hình thức trong việc thể hiện nội dung, chủ đề của các tác phẩm thơ

  + Suy nghĩ, nhận xét về những thành công và hạn chế của tác giả về những giá trị và sự tác động của tác phẩm thơ đối với người đọc

- Bài văn nghị luận về một vấn đề xã hội

  + Tìm hiểu đề; xem lại các tác phẩm đã học liên quan đến vấn đề xã hội đặt ra của đề bài.

hoàng nguyễn đức anh
Xem chi tiết
hoàng nguyễn đức anh
Xem chi tiết