Những câu hỏi liên quan
Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn Dĩnh
2 tháng 5 2019 lúc 7:55

- Trong dòng thơ cuối cùng Bác Hồ sử dụng thành ngữ “khổ tận cam lai”

     + Ý muốn nói: trải qua hết những ngày đau khổ, tăm tối sẽ tới những ngày sung sướng, hạnh phúc trong độc lập, tự do

Bình luận (0)
Trần Thị Khánh Huyền
Xem chi tiết
Phương
30 tháng 12 2021 lúc 20:28

rồi câu hỏi là j 

 

Bình luận (0)
Tiểu Thư Răng Sún
Xem chi tiết
Minh Thư
20 tháng 12 2016 lúc 13:55

Mik vừa mới làm xong, thấy quen quen nên mik trả lời thử:

Lối chơi chữ : sử dụng từ đồng âm – Đồng âm giữa từ thuần Việt và từ Hán Việt.

khổ: đắng; tận: hết; cam: ngọt; lai: đến.

Xuất phát từ:

Thành ngữ : khổ tận cam lai

Nghĩa là : hết khổ đến sướng.

Nếu ko đúng ý bạn thì thôi nha!

Bình luận (0)
Thảo Nguyễn
19 tháng 12 2016 lúc 23:20

đề bài là j vậy bnTiểu Thư Răng Sún

Bình luận (1)
Nguyễn Trần Thành Đạt
20 tháng 12 2016 lúc 9:04

Trước khi nói về những bài học, thiết tưởng chúng ta cần biết lịch sử ra đời của bài thơ mà tôi ghi lại theo lời kể của PGS-TS Trần Hữu Tá (1), khi chúng tôi trao đổi với nhau về nữ thi sĩ Hằng Phương (1908-1983), người được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi lời cảm ơn qua những vần thơ đặc sắc trên đây.

PGS-TS Trần Hữu Tá cho biết: “Là bạn đời của nhà nghiên cứu văn học Vũ Ngọc Phan (1907-1987), bà Hằng Phương lúc bấy giờ, đầu năm 1946, vẫn thường đi lại Hà Nội - Thanh Hóa tần tảo lo toan công việc của một nội tướng để nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan có thể dành thì giờ, tâm trí cho công tác văn hóa cách mạng. Trong một lần đi Thanh Hóa, bà mua được một chục cam ngon đem về biếu Bác. Tuy trong lòng thì rất muốn được trực tiếp gặp Bác, nhưng lại e ngại làm mất thời gian quý báu của Người, nên nữ thi sĩ để lại cam biếu Bác với một bài thơ” (2).

Khi nhận được quà mà người biếu gửi lại, hẳn Bác rất băn khoăn, áy náy. Bởi thế nên mới có câu thơ:

Nhận thì không đúng, từ làm sao đây!

Thế rồi, Người quyết định gửi đến báo Tiếng Gọi Phụ Nữ, cơ quan ngôn luận của tổ chức Phụ nữ cứu quốc, nhờ chuyển lời cảm ơn. Số 11 của báo này ra ngày 8/01/1946 đã đăng bài viết như sau:

“Thơ của Hồ Chủ tịch trả lời bà Hằng Phương: “Bà Hằng Phương gửi biếu tôi một gói cam, kèm theo một bài thơ. Vì bà không viết chỗ ở, tôi không biết gửi thư cảm ơn đến đâu. Nên tôi nhờ Tiếng Gọi Phụ Nữ đăng mấy lời cảm tạ của tôi như sau”. (Bài thơ đã giới thiệu ở đầu bài viết này).

Từ các vần thơ của Bác và mấy điều cần biết được giới thiệu trên, tôi rút ra cho mình những bài học rất quý về văn hóa và về ngôn ngữ. Trước hết là bài học về ứng xử văn hóa. Đó là tâm trạng băn khoăn khi biết có quà gửi biếu mình.

Nhận thì không đúng, từ làm sao đây!

Đọc câu thơ này tôi liên tưởng đến đức tính liêm khiết mà Bác vẫn thường nói đến mỗi khi có dịp. Và đức tính ấy rõ ràng thường trực trong suy nghĩ của Bác ngay cả khi tự suy xét mình, chứ không phải chỉ để nhắc nhở đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Hai là văn hóa về sự cảm ơn. Nhận được sự thi ân, dù đó là một sự quan tâm, sự giúp đỡ nhỏ nhất thì người nhận, nơi nhận nhất thiết phải cảm ơn. Được “biếu gói cam”, người biếu quà không chỉ không còn hiện diện mà cũng “không viết chỗ ở” nên Bác “không biết gửi thư cảm ơn đến đâu”. Nhưng Người đã tìm được cách cảm ơn thích hợp và thỏa đáng là nhờ báo “đăng lời cảm tạ”.

Phải chăng trong việc giáo dục con em mình, học sinh, sinh viên mình, và cả chính bản thân ta, vì lý do này hay hoàn cảnh khác mà chúng ta cũng có lúc nhãng quên, chưa tạo được nét ứng xử văn hóa cảm ơn này?

“Mấy lời cảm tạ” của Bác được thể hiện qua hình thức các vần thơ - theo tôi từ cách tiếp cận ngữ dụng học(3). Đây là những bài học quý về cách ứng xử ngôn ngữ. Đầu tiên là bài học về việc lựa chọn hình thức chuyển tải nội dung lời cảm tạ: một bài thơ.

Phương châm về cách thức mà ngữ dụng học đề ra khi hội thoại là biểu đạt súc tích, mạch lạc, tránh mơ hồ, tối nghĩa. Phương châm này được thể hiện rõ ràng ngay từ câu thơ đầu. Các câu thơ tiếp theo cũng gắn hữu cơ với lời cảm ơn, nhưng không lặp lại mà phát triển những ý khác, dĩ nhiên vẫn liên kết hữu cơ với lý do cảm ơn, nhưng chính là để phát triển thêm các ý mới, phản ánh tính cách của chủ ngôn. Ngôn từ được dùng phản ánh vừa đủ, không để dư thừa một từ nào, đáp ứng đúng yêu cầu của phương châm hành ngôn, ở bài thơ này là lời cảm ơn và lý do của hành động cảm ơn.

Cách Bác dùng hình thức thơ để cảm ơn hoàn toàn phù hợp với phương châm về chất lượng và phương châm về số lượng của quy luật hành động ngôn ngữ: Hình thức đặc thù của thơ có thể biểu hiện cô đọng một nội dung hết sức phong phú.

Có thể không ít người tự hỏi vì sao Bác dùng bài thơ để thay lời cảm ơn và cũng có thể có những cách lý giải khác nhau.

Tuy nhiên, dựa vào phương châm về quan hệ hay còn gọi là quan yếu để hiểu điều này có lẽ là hợp lý nhất. Bởi vì phương châm về quan hệ vẫn được ngữ dụng học xem là phương châm tối quan trọng, làm cho cuộc hội thoại giữa người nói - người nghe (người viết - người đọc) không mấy xa cách, nhờ đó mà càng dễ thông hiểu nhau hơn. Ta nhớ trong bài thơ kèm theo gói cam biếu Bác, bà Hằng Phương với tư cách là một công dân, đã dùng những lời rất trang trọng “Kính dâng Chủ tịch”, “Anh hùng mở mặt giang san”.

Gửi lời cảm ơn bằng một bài thơ, Bác đã chuyển quan hệ Chủ tịch nước - công dân thành quan hệ giữa nhà thơ - nhà thơ, và sự kiện biếu cam đó được chuyển thành trường hợp thù tiếp giữa hai nhà thơ. Tính chất thù tiếp ấy, chúng ta rất dễ nhận thấy khi đặt hai câu thơ của thi sĩ Hằng Phương: “Đắng cay Cụ nếm đã nhiều, / Ngọt bùi trời trả đủ điều từ đây” bên cạnh câu kết trong bài thơ của Bác: … “Phải chăng khổ tận đến ngày cam lai?”.

Trong văn hóa Việt Nam, và có lẽ cả ở nhiều nước Phương Đông, đó là cách ứng xử văn hóa thường gặp. Và ta có thể hình dung nữ thi sĩ nổi tiếng Hằng Phương với tâm hồn thi sĩ sẽ cảm động và thú vị như thế nào khi đọc bài thơ cảm ơn của Chủ tịch - nhà thơ Hồ Chí Minh.

Câu thơ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” là câu tục ngữ Việt Nam được nhà thơ Hồ Chí Minh dẫn ra nhân dịp nói lời cảm ơn người biếu gói cam để tự răn, theo cảm thức của bậc trí giả Việt Nam. Còn chúng ta, người đọc, hẳn không ai không xem đó là lời nhắc nhở cho mình về lòng biết ơn theo sự ứng xử văn hóa cần có của mỗi người.

Từ câu kết của bài thơ, chúng ta lại hoàn toàn có thể rút ra một bài học về ngôn ngữ và một bài học về tinh thần lạc quan. Lời thơ của câu này là “sự trộn mã” Việt - Hán. Khổ tận cam lai là thành ngữ Hán. Thành ngữ này được thi sĩ Hằng Phương Việt hóa và đưa vào hai câu thơ của mình.

Trong ngôn từ của mình Bác đã dùng bốn từ của thành ngữ Hán ghép vào với bốn từ Việt thành một câu thơ, vừa như cách chơi chữ của những từ đồng âm khác nghĩa theo truyền thống văn hóa Việt Nam cũng vừa cho chúng ta thấy có thể dùng các yếu tố ngoại lai làm giàu cho ngôn ngữ của mình như thế nào.

Cuối bài, tiềm ẩn dưới lời thơ kết của Bác, chúng ta cảm nhận được niềm lạc quan vốn là một nét đặc thù trong tính cách của Người. Xung quanh khoảng thời gian cuối năm 1945 đầu 1946, hẳn chúng ta đều biết đó là giai đoạn lịch sử mà Việt Nam phải đối mặt với vô vàn khó khăn, chống chọi với giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm, khi nhân dân ta vừa giành lại được nền độc lập. Với lời kết bài thơ là một câu hỏi tu từ:

“Phải chăng khổ tận đến ngày cam lai?”

Bác gợi cho mọi người một lẽ thường của quy luật mà cũng là một triết lý sống lạc quan trường tồn của người Việt: “Khổ tận cam lai lý tự nhiên…” như lời thơ Người đã từng dùng cuối bài Tình thiên (Trời hửng). Kết thúc cả tập thơ Nhật ký trong tù đã được nhà thơ Nam Trân dịch rất đạt, theo GS. Trần Thanh Đạm, “vừa tín vừa nhã”: “Hết khổ là vui vốn lẽ đời…”

Bình luận (0)
lê thị hương giang
Xem chi tiết
Nguyen Thi Mai
27 tháng 11 2016 lúc 20:53

- Phép tu từ được dùng trong bài thơ là chơi chữ và sử dụng thành ngữ

- Thành ngữ Hán Việt “Khổ tận cam lai”,có nghĩa bóng là “hết khổ sở đến lúc sung sướng” ( khổ: đắng, tận: hết, cam: ngọt, lai: đến).

- Cam (1): quả cam

Cam (2): ngọt,sướng

=> Dùng từ đồng âm

Bình luận (7)
lê thị hương giang
27 tháng 11 2016 lúc 20:56

Phép tu từ là : chơi chữ : gói cam - cam laI

CÓ BN NÀO BIẾT PHÂN TÍCH TÁC DỤNG CỦA BP TU TỪ NAY KO GIÚP MK VSgianroikhocroi

Bình luận (0)
Minh Thư
20 tháng 12 2016 lúc 13:57

Lối chơi chữ : sử dụng từ đồng âm – Đồng âm giữa từ thuần Việt và từ Hán Việt.

khổ: đắng; tận: hết; cam: ngọt; lai: đến.

Xuất phát từ:

Thành ngữ : khổ tận cam lai

Nghĩa là : hết khổ đến sướng.

Chúc bạn học tốt.

Bình luận (0)
Trần Khánh Linh
Xem chi tiết
Minh Thư
8 tháng 12 2016 lúc 10:21

Bài này sử dụng kiểu chơi chữ đồng âm.(khổ: đắng; tận: hết; cam: ngọt; lai: đến)

Bạn tham khảo nhé! Chúc bạn học tốt!

 
Bình luận (1)
Nguyễn Thư
12 tháng 12 2016 lúc 10:06

khổ tận <--> cam lai

 

Bình luận (0)
Nguyễn Thị Hường Hường
26 tháng 11 2017 lúc 15:56

Trong bài thơ này, BH đã chơi chữ bằng các từ đồng âm: cam. Thành ngữ Hán Việt: khổ tận cam lai ( khổ: đắng,tận; hết, cam: ngọt, lai: đến)

Nghĩa bóng của thành ngữ này là hết khổ sở đến lúc sung sướng " Cam" trong "cam lai" và cam trong gói "cam" là từ đồng âm

chúc bạn học tốt!

Bình luận (0)
lê thị hương giang
Xem chi tiết
Ngọc Nguyễn Minh
5 tháng 12 2016 lúc 21:29

-Sử dụng chơi chữ và thành ngữ

+Thành ngữ "Khổ tận cam lai" (Khổ: đắng; tận: hết,cam:ngọt, lai:đến) nghĩa là "hết khổ sở sẽ đến lúc sung sướng''

+Chơi chữ đồng âm

Cam: quả cam, trái camCam: ngọt/sướng

 

Bình luận (0)
Minh Thư
20 tháng 12 2016 lúc 13:56

Lối chơi chữ : sử dụng từ đồng âm – Đồng âm giữa từ thuần Việt và từ Hán Việt.

khổ: đắng; tận: hết; cam: ngọt; lai: đến.

Xuất phát từ:

Thành ngữ : khổ tận cam lai

Nghĩa là : hết khổ đến sướng.

Chúc bạn học tốt.

Bình luận (0)
Ga
Xem chi tiết
Buồn vì chưa có điểm sp
25 tháng 9 2021 lúc 14:18

 Phép tu từ được dùng trong bài thơ là chơi chữ và sử dụng thành ngữ

- Thành ngữ Hán Việt “Khổ tận cam lai”,có nghĩa bóng là “hết khổ sở đến lúc sung sướng” ( khổ: đắng, tận: hết, cam: ngọt, lai: đến).

- Cam (1): quả cam

Cam (2): ngọt,sướng

=> Dùng từ đồng âm

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa
Ga
25 tháng 9 2021 lúc 14:19

@4a4ln_hary

Sai đề bạn ơi,đọc kĩ đề hộ tớ

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa
Buồn vì chưa có điểm sp
25 tháng 9 2021 lúc 14:21

Câu chuyện tặng cam như thế nào, chắc ít người biết. Trước đây, trong nhiều năm, tôi cũng cứ băn khoăn, muốn hiểu. Cuối năm 1982, nhân được giao viết một phần bộ Từ điển văn học (NXB KHXH-1983) trong đó có 2 mục từ Vũ Ngọc Phan và Hằng Phương, tôi đã xin gặp 2 ông bà để trực tiếp lấy những tư liệu cần thiết.

Bác Hằng Phương hồi đó đã yếu, nên tôi chủ yếu chỉ làm việc với bác Vũ Ngọc Phan. Thực ra chúng tôi gặp tác giả Nhà văn hiện đại nhiều lần, nhưng chỉ trong các cuộc họp. Là 2 thế hệ cách bức, bác lại rất đạo mạo, nên tôi chỉ chào hỏi cho phải lễ. Đến hai buổi làm việc đẫy này, tôi mới có dịp hầu chuyện bác lâu.

Sau khi ghi chép xong những tư liệu cần cho 2 mục từ sẽ viết, tôi tranh thủ “khai thác” nhà nghiên cứu lão thành về vốn hiểu biết rất phong phú của bác: đặc điểm sinh hoạt văn học, báo chí trước năm 1945; những kỷ niệm, nhận xét của bác về các nhà văn mà bác đã có quan hệ để từ đó có những trang viết sâu sắc về họ trong công trình nghiên cứu quy mô, dày dặn của mình. Cũng nhân dịp này tôi hỏi bác những chuyện xoay quanh bài thơ Cảm ơn người tặng cam của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Bác Phan đi vào phòng trong, một phút sau mang ra một tập tư liệu dày và gượng nhẹ lấy từ trong đó một tờ báo cũ – tờ Tiếng gọi phụ nữ cơ quan ngôn luận của tổ chức Phụ nữ cứu quốc, số 11, ra ngày 8-1-1946. Nhiều năm qua đi, dù đã giữ rất cẩn thận, nhưng giấy báo cũng đã ố vàng, mép báo sờn rách, nét chữ đã nhạt nhòa. Bác đưa tôi tấm kính lúp và chỗ nào tôi ngờ ngợ, bác lại chỉ cho. (Tôi ngờ bác đã thuộc lòng bài báo quý này). Nguyên văn bài viết như sau:

Thơ của Hồ Chủ tịch trả lời bà Hằng Phương

Bà Hằng Phương gửi biếu tôi một gói cam, kèm theo một bài thơ. Vì bà không viết chỗ ở, tôi không biết gửi thư cảm ơn đến đâu. Nên tôi nhờ báo Tiếng gọi phụ nữ đăng mấy lời cảm tạ của tôi như sau:

Thơ bà Hằng Phương kính gửi Hồ Chủ tịch:

Cam ngon Thanh Hóa vốn dòng
Kính dâng Chủ tịch tỏ lòng mến yêu.
Đắng cay Cụ nếm đã nhiều,
Ngọt bùi trời trả đủ điều từ đây.
Cùng quốc dân hưởng những ngày
Tự do, hạnh phúc tràn đầy trời Nam.
Anh hùng mở mặt giang san
Lưu danh thiên cổ, vẻ vang giống nòi


Tháng giêng VNDCCH năm thứ hai (2-1-1946)
Hằng Phương kính bút.
 

Trả lời

Cảm ơn bà biếu gói cam
Nhận thì không đáng, từ làm sao đây!
Ăn quả nhớ kẻ trồng cây
Phải chăng khổ tận đến ngày cam lai


Hồ Chí Minh

Một chi tiết nhỏ: trong lần in đầu này, câu thứ hai của bài thơ trả lời Hồ Chủ tịch viết “Nhận thì không đáng”. Sau này tác giả sửa lại, nhẹ nghĩa hơn: “không đúng”.

Bác Phan kể thêm: từ đầu năm 1945, trong hoàn cảnh ngặt nghèo chung của đất nước, cuộc sống của gia đình bác cũng không được như trước. Để chia sẻ gánh nặng sinh kế với chồng, nhà thơ Hằng Phương tìm cách xoay xỏa tháo gỡ. Nhân có sự gợi ý của người quen có xe đò chạy tuyến Hà Nội – Thanh Hóa, bác mua văn phòng phẩm ở Hà Nội, đi xe của người quen đó, vào tiêu thụ ở Thanh Hóa. Thu nhập chẳng nhiều nhặn gì, nhưng cũng giải quyết một phần sự lúng túng của gia đình. Việc làm ăn ấy kéo dài cả năm.

Là những trí thức nặng tình dân tộc, cả hai ông bà hồ hởi chào đón Cách mạng tháng Tám, đã có mặt tại quảng trường Ba Đình ngày 2-9-1945 trong đoàn thể văn nghệ sĩ, say mê đón nhận từng lời của bản Tuyên ngôn Độc lập. Cũng như đông đảo trí thức lúc đó, hai ông bà cảm nhận sâu sắc hạnh phúc được làm công dân một nước độc lập. Vì thế tình cảm quý yêu kính trọng Chủ tịch Hồ Chí Minh rất sâu nặng là lẽ đương nhiên.

Bác Phan nhận lời làm biên tập viên tạp chí Tiên phong – cơ quan ngôn luận của Hội Văn hóa Cứu quốc. Công việc tòa soạn bộn bề, nhưng lương bổng lại rất khiêm tốn, có tháng không lương. Do đó bác Hằng Phương càng nặng gánh gia đình hơn. Nhà thơ của chúng ta lại tiếp tục những chuyến đi con thoi Hà Nội – Thanh Hóa.

Ngày mồng một tháng giêng dương lịch 1946, nhân ra chợ Thanh, bác thấy có những thúng cam vàng tươi đầu mùa. Đây là thứ cam làng Giàng – một loại cam quý, sản lượng không nhiều, quả nhỏ nhưng vỏ mỏng, rất ngọt. Bác nảy ý định mua để biếu Hồ Chủ tịch. Mất nhiều thì giờ bác mới lựa được mười quả ưng ý, cành lá xanh tươi.

Trên xe về Hà Nội, bác nâng niu gói cam trên tay vì sợ đường xấu, xe xóc, cam bị giập chăng. Bác lại băn khoăn: một chục cam nhỏ mọn làm sao nói được tấm lòng quý mến lãnh tụ? Nên chăng, làm thêm mấy câu thơ để kính dâng Hồ Chủ tịch? Bài thơ 8 câu, 56 chữ dần dần được hoàn chỉnh trên chặng đường 160km.

Ba giờ chiều hôm sau (2-1-1946), nữ thi sĩ lên Bắc bộ phủ. Sự việc này được chính tác giả ghi lại trong sổ tay (năm 1987, trong hồi ký Những năm tháng ấy, Vũ Ngọc Phan có cho in lại). Xin chép ra đây:

“Ở cổng Bắc bộ phủ có anh vệ quốc rất trẻ đứng gác. Tôi xin phép vào, anh hiền lành gật đầu, không đòi hỏi giấy tờ gì cả. Vào đến phòng khách, tôi đưa gói cam nhỏ và chiếc phong bì trong có bài thơ, và nói với đồng chí tiếp khách:

- Thưa ông, tôi đi xa về, có gói cam kính biếu Hồ Chủ tịch cùng với bài thơ. Chiều nay, sau bữa cơm, nhờ ông đưa giúp lên để Cụ tráng miệng.

Đồng chí tiếp khách liền nói:

- Ấy, Cụ đang ở phòng bên. Cụ sắp sang đây bây giờ. Bà chờ một tí. Được gặp Hồ Chủ tịch là điều tôi vô cùng mong ước, nhưng lúc ấy không hiểu tại sao tự nhiên tôi lại sợ, nếu gặp Người thì biết nói năng ra sao. Thôi, đã có thơ thay lời rồi. Tôi trả lời:

- Thưa ông, thì giờ quý báu của Cụ còn để lo việc nước, tôi đâu dám làm mất thì giờ của Cụ.

Nói xong, tôi chào rồi tất tả bước xuống thềm, ra thẳng cổng; chào anh vệ quốc rồi đi mau ra đường. Trên đường về, tôi lại lo: Mình làm như thế, có điều gì bất kính với Hồ Chủ tịch không? Hay những chuyện nhỏ mọn ấy lại làm mất thì giờ của Người? Tôi lo lắm, không yên tâm, nhưng không dám thổ lộ với ai”.

Nội tình câu chuyện tặng cam và hai bài thơ chân tình, tao nhã nói trên có thể coi là một giai thoại quý của văn chương Việt Nam hiện đại. 

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa
Lê Điệp
Xem chi tiết
Minh Thư
20 tháng 12 2016 lúc 13:57

Lối chơi chữ : sử dụng từ đồng âm – Đồng âm giữa từ thuần Việt và từ Hán Việt.

khổ: đắng; tận: hết; cam: ngọt; lai: đến.

Xuất phát từ:

Thành ngữ : khổ tận cam lai

Nghĩa là : hết khổ đến sướng.

Chúc bạn học tốt!

Bình luận (0)
Đinh Thu Trang
Xem chi tiết