Học ngầm là:
Học ngầm là
A. Những điều học được một cách không có ý thức mà sau đó được tái hiện giúp động vật giải quyết vấn đề tương tự dễ dàng
B. Những điều học được một cách có ý thức mà sau đó được tái hiện giúp động vật giải quyết vấn đề tương tự dễ dàng
C. Những điều học được một các không có ý thức mà sau đó động vật rút kinh nghiệm để giải quyết vấn đề tương tự
D. Những điều học được một cách có ý thức mà sau đó được tái hiện giúp động vật giải quyết vấn đề tương tự dễ dàng
Học ngầm là: Những điều học được một cách không có ý thức mà sau đó được tái hiện giúp động vật giải quyết vấn đề tương tự dễ dàng
Đáp án cần chọn là: A
Học ngầm là kiểu học không có ý thức, sau đó những điều đã học?
A. không được dùng đến nên động vật sẽ quên đi
B. lại được củng cố bằng các hoạt động có ý thức
C. được tái hiện giúp động vật giải quyết được những tình huống tương tự
D. được tái hiện giúp động vật giải quyết được những tình huống khác lạ
Học ngầm là kiểu học không có ý thức, sau đó những điều đã học
A. không được dùng đến nên động vật sẽ quên đi
B. lại được củng cố bằng các hoạt động có ý thức
C. được tái hiện giúp động vật giải quyết được những tình huống tương tự
D. được tái hiện giúp động vật giải quyết được những tình huống khác lạ
Học ngầm là kiểu học không có ý thức, sau đó những điều đã học được tái hiện giúp động vật giải quyết được những tình huống tương tự
Đáp án cần chọn là: C
là 1 học sinh em cần làm gì để bảo vệ nguồn nước ngầm?
Đánh dấu X vào ô cho câu trả lời đúng của các câu hỏi dưới đây:
- Một con mèo đang đói chỉ nghe thấy tiếng bày bát đĩa lách cách, nó đã vội vàng chạy xuống bếp. Đây là ví dụ về hình thức học tập:
A – Quen nhờn.
B – Điều kiện hóa đáp ứng
C – Học khôn.
D – Điều kiện hóa hành động.
- Thầy dạy toán yêu cầu bạn giải một bài tập đại số mới. Dựa vào những kiến thức đã có, bạn đã giải được bài tập đó. Đây là một ví dụ về hình thức học tập:
A – điều kiện hóa đáp ứng.
B – in vết
C – học ngầm.
D – học khôn.
- Nếu thả một hòn đá nhỏ bên cạnh con rùa, rùa sẽ rụt đầu và chân vào mai. Lặp lại hành đó nhiều lần thì rùa sẽ không rụt đầu vào mai nữa. Đây là một ví dụ về hình thức học tập:
A – in vết.
B – quen nhờn.
C – học ngầm.
D – học khôn.
- Một con mèo đang đói chỉ nghe thấy tiếng bày bát đĩa lách cách, nó đã vội vàng chạy xuống bếp. Đây là ví dụ về hình thức học tập điều kiện hóa đáp ứng. Vì dưới tác động của các kích thích kết hợp đồng thời đã hình thành mối liên hệ mới trong thần kinh trung ương.
- Thầy dạy toán yêu cầu bạn giải một bài tập đại số mới. Dựa vào những kiến thức đã có, bạn đã giải được bài tập đó. Đây là một ví dụ về hình thức học tập học khôn. Vì học khôn là kiểu phối hợp các kinh nghiệm cũ để tìm cách giải quyết những tình huống mới.
- Nếu thả một hòn đá nhỏ bên cạnh con rùa, rùa sẽ rụt đầu và chân vào mai. Lặp lại hành đó nhiều lần thì rùa sẽ không rụt đầu vào mai nữa. Đây là một ví dụ về hình thức học tập quen nhờn. Vì quen nhờn là hình thức học tập đơn giản nhất; động vật phớt lờ, không trả lời những kích thích lặp lại nhiều lần nếu những kích thích đó không kèm theo nguy hiểm nào.
Một chiếc tàu ngầm đang ở độ cao - 30 m so với mực nước biển . Sau đó tầu ngầm lặn sâu thêm 20 m . Viết phép tính và tính độ cao mới của tầu ngầm so với mực nước biển là
Phép tính: (-30) + (-20) = -50 (m)
=> Vậy độ cao mới của tàu ngầm so với mực nước biển là -50m.
Phép tính là : \(\text{- 30 - 20 = - 50}\)
Độ cao mới của tàu ngầm so với mực nước biển là : -50m
Nêu bài học về hậu quả của việc khai thác nước ngầm quá giới hạn cho phép hiện nay trên thế gới
- Cạn kiệt nguồn nước ngầm: Việc khai thác nước ngầm quá mức đã dẫn đến cạn kiệt nguồn nước ngầm ở nhiều vùng trên thế giới. Điều này ảnh hưởng đến nguồn cung cấp nước cho dân số và nông nghiệp, gây ra tình trạng thiếu nước và gia tăng sự cạnh tranh về tài nguyên nước.
- Lạm dụng trong nông nghiệp: Nhiều quốc gia sử dụng nước ngầm quá mức để tưới tiêu nông nghiệp, đặc biệt là trong các khu vực khô hanh. Sự lạm dụng này có thể dẫn đến sự sụt giảm đất đai và sự suy giảm chất lượng nước ngầm.
- Sự xâm nhập mặn: Khi nước ngầm giảm, mặn có thể xâm nhập vào các vùng đất trũng, gây hại cho cây trồng và đồng cỏ. Điều này làm cho nông dân phải sử dụng nước mặn làm nguồn nước tưới tiêu, ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng sản phẩm nông nghiệp.
- Sụt lún đất đai: Việc khai thác nước ngầm quá mức có thể gây ra sụt lún đất đai, một hiện tượng khi mà mặt đất sụt xuống khi nước ngầm bị mất đi. Điều này có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng cho cơ sở hạ tầng và môi trường.
- Ảnh hưởng đến sinh thái hệ: Sự cạn kiệt nguồn nước ngầm cũng ảnh hưởng đến các hệ sinh thái. Nhiều dòng sông và hồ nước phụ thuộc vào nước ngầm để duy trì sự sống của họ, và khi nước ngầm giảm, các hệ sinh thái có thể bị suy yếu hoặc đe dọa.
-> Bài học chính từ việc khai thác nước ngầm quá mức là cần thiết phải thực hiện quản lý bền vững tài nguyên nước và giám sát việc sử dụng nước ngầm. Điều này bao gồm việc đặt ra các giới hạn và quy định về việc khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn nước, và thúc đẩy việc sử dụng các nguồn nước tái tạo và thân thiện với môi trường.
Bạn nào học giỏi Lí giúp mình với. Cảm ơn trước ạh!
Tại 1 vị trí trọng vịnh Cam Ranh áp kế trong tàu ngầm chỉ 2575000pa.
a) Tính độ sâu của tàu ngầm? Biết trọng lượng riêng của nước biển là 10300N/m3
b) Tính áp lực nước lên van ở khoảng chứa nước? Biết cửa van có diện tích 3dm2.
a)Độ sâu của tàu là:
h=\(\dfrac{p}{d}=\dfrac{2575000}{10300}=250\left(m\right)\)
b)Đổi: 3dm2=0,03m2
Áp lực tác dụng lên van đó là:
F=p.s=2575000.0,03=77250(N)
a, Ta co: p = d.h
=> 10300.h = 2575000
=> h= 250m
Ở một công ty người ta dùng máy thăm dò nước ngầm. Kinh nghiệm cho biết cứ 10 địa điểm bị nghi vấn thì có 7 vị trí là có nước ngầm. Ở vị trí có nước ngầm máy báo đúng với xác suất 0,85. Ở vị trí không có nước ngầm máy báo sai với xác suất 0,1. Một vị trí được máy phân tích. Hãy tính xác suất
(a) Máy báo vị trí này có nước ngầm.
(b) Máy báo đúng.
Gọi sự kiện A là vị trí này có nước ngầm, sự kiện B là máy báo đúng.
Ta có:
P(A) = 7/10 (vì cứ 10 địa điểm bị nghi vấn thì có 7 vị trí là có nước ngầm)
P(B|A) = 0.85 (vị trí có nước ngầm máy báo đúng với xác suất 0.85)
P(~B|~A) = 0.9 (vị trí không có nước ngầm máy báo sai với xác suất 0.1)
`(a)` Ta cần tính xác suất P(A|B), tức là vị trí này có nước ngầm khi máy báo đúng.
Theo công thức Bayes, ta có:
P(A|B) = P(B|A) * P(A) / P(B)
Trong đó:
P(B) = P(B|A) * P(A) + P(B|~A) * P(~A) (theo định lý xác suất toàn phần)
P(~A) = 1 - P(A) (vì chỉ có hai khả năng: có nước ngầm hoặc không có nước ngầm)
Thay giá trị vào ta được:
P(B) = P(B|A) * P(A) + P(B|~A) * P(~A) = 0.85 * 7/10 + 0.9 * 3/10 = 0.865
P(A|B) = P(B|A) * P(A) / P(B) = 0.85 * 7/10 / 0.865 ≈ 0.692
Vậy xác suất vị trí này có nước ngầm khi máy báo đúng là khoảng 69.2%.
`(b)` Ta cần tính xác suất P(B), tức là máy báo đúng.
Theo công thức Bayes, ta có:
P(B) = P(B|A) * P(A) + P(B|~A) * P(~A)
Thay giá trị vào ta được:
P(B) = P(B|A) * P(A) + P(B|~A) * P(~A) = 0.85 * 7/10 + 0.1 * 3/10 = 0.655
Vậy xác suất máy báo đúng là khoảng 65.5%.