sưu tầm những bài văn xuôi văn vần thời kì dựng nước và giữ nước thời kì văn lang âu lạc thế kỉ 18 của nhân dân vĩnh phúc
Giúp mình vs. Mình đang cần gấp
Câu 5: Bài văn Tinh thần yêu nước của nhân dân ta được viết trong thời kì nào ? A. Thời kì kháng chiến chống Pháp B. Thời kì kháng chiến chống Mĩ C. Thời kì đất nước ta xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc D. Những năm đầu thế kỉ XX.
Phân tích sự chuyển biến về xã hội nước ta ở các thế kỉ I - VI so với thời kì Văn Lang - Âu Lạc?
câu đầu trong sgk tự tìm nhé
sơ đồ sgk trang 37 ta chỉ cần thay hùng vương-lạc hầu-lạc tướng⇒an dương vương
trong nc văn lang: vua hùng lạc tướng lạc hầu thì nc âu lạc là an dương vương còn các giai cấp kia giữ nguyên
So sánh sự phân hóa xã hội thời kì Văn Lang – Âu lạc và thời kì Bắc thuộc ?
Cần gấp
Những biến chuyển về xã hội và văn hoá nước ta ở các thế kỉ I - VI
THỜI VĂN LANG – ÂU LẠC THỜI KÌ BỊ ĐÔ HỘ
Vua | Quan lại đô hộ
Qúy tộc | Hào trưởng Việt ; Địa chủ Hán
Nông dân công xã | Nông dân công xã
| Nông dân lệ thuộc
Nô tì | Nô tì
Chính quyền đô hộ mở một số trường học dạy chữ Hán tại các quận. Cùng với việc dạy học, Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo và những luật lệ, phong tục của người Hán cũng được du nhập vào nước ta.
Nhân dân ta ở trong các làng xã vẫn sử dụng tiếng nói của tổ tiên và sinh hoạt theo nếp sống riêng với những phong tục cổ truyền như xăm mình, nhuộm răng, ăn trầu, làm bánh giầy, bánh chưng...
Trải qua nhiều thế kỉ tiếp xúc và giao dịch, nhân dân ta đã học được chữ Hán nhưng vận dụng theo cách đọc của mình.
Thời Văn Lang – Âu Lạc
Thời kì bị đô hộ
Vua
(Hùng Vương,An Dương Vương)
Quan lại đô hộ
(của các triều đại phương Bắc)
Qúy tộc
Hào trưởng ; Địa chủ
( người Việt ) ; ( người Hán)
Nông dân công xã
Nông dân công xã
Nông dân lệ thuộc
Nô tì
Thời dựng nước (chương II: Văn Lang - Âu Lạc) đã để lại cho dân tộc ta những gì?
- Tổ quốc
- Thuật luyện kim
- Nghề nông trồng lúa nước
- Phong tục, tập quán riêng , tiếng nói riêng.
- Bài học đầu tiên về công cuộc giữ nước.
Thời Văn Lang-Âu Lạc đã để lại cho chúng ta một cái quan trọng nhất đó chính là tổ quốc, nó là nền móng cho việc tiếp tục phát triển và bảo vệ tổ quốc, đưa ra một bài học đầu tiên về công cuộc giữ nước đó là phải cảnh giác trước kẻ thù. Ngoài ra còn có các phong tục, văn hóa truyền thống của dân tộc, các nghề thủ công được truyền đi nhiều đời,...
1. Nhà nước Văn Lan , Âu Lạc ra đời như thế nào ? Vào thời gian nào ? Ở đâu?
2. Tổ chức của nhà nước Văn Lan , nhà nước Âu Lạc ?
3. Đời sống vật chất , tinh thần của người Việt ở thời kì Văn Lan , Âu Lạc như thế nào ?
4. Chính sách cai trị của các triều đại phong kiến phương bắc đối với nước ta như thế nào ?
Mấy bạn giải nhanh giúp mik nha
tham khảo :
câu 1.
Hình thành. Theo hai bộ sử ký Đại Việt sử ký toàn thư (viết ở thế kỷ 15) và Đại Việt sử lược (viết ở thế kỷ 13), thì nhà nước Âu Lạc được Thục Phán (thủ lĩnh bộ tộc Âu Việt) thành lập vào năm 258 TCN sau khi đánh bại vị vua Hùng cuối cùng của nước Văn Lang, ông lên ngôi và lấy niên hiệu là An Dương Vương.
câu 2.
+ Tổ chức nhà nước: Đứng đầu nhà nước là vua Hùng, vua Thục. Giúp việc cho vua là các Lạc hầu, Lạc tướng. Cả nước chia làm 15 bộ do Lạc tướng đứng đầu. Ở các làng xã đứng đầu là Bồ chính.
câu 3
Cư dân Văn Lang - Âu Lạc có đời sống vật chất và tinh thần khá phong phú.
* Đời sống vật chất:
- Ăn: Nguồn lương thực chính là thóc gạo (gạo nếp và gạo tẻ), ngoài ra còn có khoai, sắn. Thức ăn có các loại cá, thịt, rau, củ.
- Ở: Tập quán ở nhà sàn.
- Nghề sản suất chính: trồng lúa nước, chăn nuôi, nghề thủ công.
- Đi lại chủ yếu bằng thuyền bè trên sông
- Mặc: Nữ mặc áo, váy. Nam đóng khố.
* Đời sống tinh thần:
- Tín ngưỡng:
+ Sùng bái tự nhiên (thờ thần Mặt Trời, thần Sông, thần Núi và tục phồn thực).
+ Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, sùng kính các anh hùng, người có công với làng nước là nét đặc sắc của người Việt cổ.
- Dần dần hình thành một số tục lệ: cưới xin, ma chay. Lễ hội khá phổ biến, nhất là hội mùa.
- Có tập quán nhuộm răng đen, nhai trầu, xăm mình; cả nam lẫn nữ đều thích đeo đồ trang sức.
câu 4
1. Chính sách cai trị của triều đại phong kiến phương Bắc
a. Về bộ máy cai trị
- Năm 179 TCN, Triệu Đà chiếm được Âu Lạc. Từ đó, các triều đại phong kiến phương Bắc đều sáp nhập nước ta vào lãnh thổ Trung Quốc, chia thành các đơn vị hành chính như châu-quận, dưới châu – quận là huyện.
- Từ sau khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40-43), chính quyền từ cấp huyện trở lên đều do người Hán nắm giữ.
- Chính quyền đô hộ cho xây dựng các thành lũy lớn ở trụ sở các châu-quận như thành Luy Lâu. Bắc Ninh, Tống Bình- Đại La,… và bố trí lực lượng quân đồn trú để bảo vệ chính quyền. Từ nhà Hán, các triều đại đều áp dụng luật pháp hà khắc và thẳng tay đàn áp các cuộc đấu tranh của nhân dân ta.
b. Về kinh tế
- Nhà Hán chiếm đoạt ruộng đất, bắt nhân dân ta cống nạp sản vật quý hiếm, hương liệu, vàng bạc. Những sản phẩm quan trọng như sắt và muối bị chính quyền đô hộ giữ độc quyền.
- Nhà Ngô và nhà Lương siết chặt ách cai trị, đặt thêm thuế, bắt hàng ngàn thợ thủ công giỏi ở Giao Châu đem về nước.
- Những hình thức bóc lột chủ yếu của các triều đại phong kiến phương Bắc đối với nhân dân ta thời Bắc thuộc:
+ Sử dụng chế độ tô thuế.
+ Bắt cống nạp sản vật quý (ngọc minh cơ, sừng tê, ngà voi, đồi mồi...).
+ Nắm độc quyền về sắt và muối đối với người Việt.
c. Về xã hội và văn hóa
- Chính sách cai trị về văn hóa của các triều đại phong kiến phương Bắc đối với nhân dân ta thời Bắc thuộc:
+ Mở trường lớp dạy chữ Hán
+ Áp dụng luật Hán.
+ Tìm cách truyền bá văn hóa, phong tục phương Bắc.
- Nho giáo, tư tưởng lễ giáo phong kiến Trung Quốc được truyền bá vào Việt Nam.
- Tuy nhiên, việc dạy chữ chỉ giới hạn trong một số ít người ở các vùng trung tâm. Cả ngàn năm Bắc thuộc, số người Việt được trọng dụng chỉ là thiểu số.
Vị trí của thời kì Văn Lang - Âu Lạc trong lịch sử dân tộc là
A. Định hình bản sắc, truyền thống của dân tộc Việt Nam
B. Mở đầu thời kì dựng nước, định hình bản sắc, truyền thống của dân tộc Việt Nam
C. Mở đầu thời kì dựng nước, phát triển bản sắc, truyền thống của dân tộc Việt Nam
D. Giữ vững bản sắc, truyền thống của dân tộc Việt Nam
Mn xem bài cho mình ý kiến góp ý ạ! Có thể bạn đã nghe qua về "Truyền kì mạn lục", một tác phẩm văn xuôi có giá trị của văn học cổ nước ta ở thế kỉ XVI có ảnh hưởng sâu sắc đến lòng người mọi thời. Và tôi chính là nhân vật Vũ Nương, một phụ nữ đẹp người, đẹp nết đã phải lấy cái chết để minh oan trước sự ghen tuông vô cớ của chồng mình. Tôi tên thật là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương, Sinh ra trong gia đình có hoàn cảnh nghèo khó, tuy vậy vẫn được cha mẹ dạy bảo ân cần chu đáo từ nhỏ, hiểu được lễ nghĩa nên người trong làng khen tôi tính tình thùy mị nết na lại thêm có tư dung tốt đẹp nên mọi người yêu quý mà gọi cho cái tên Vũ Nương. Lại được ơn trời cho thêm tự dụng tốt đẹp. Đến tuổi mười tám, độ tuổi rực rỡ nhất của người con gái, tôi được Trương Sinh cưới về làm vợ. Về nhà chồng, tôi cũng biết tính chồng đa nghi hay ghen với vợ nên tôi hết sức giữ gìn khuôn phép vợ chồng chưa từng xảy ra chuyện bất hòa. Vợ chồng tôi ăn ở êm ấm, lại sắp có đứa con đầu lòng nên càng vui mừng hạnh phúc biết bao. Nhưng rồi Chồng tôi đi lính loạt đầu vì tuy là con nhà giàu nhưng vì ít học nên. trong buổi tiễn đưa tồi dặn dò, chỉ mong chàng bình yên trở về không cầu công danh, áo gấm. Thời gian đăm đắm trôi qua đến cữ tôi sinh bé đặt tên là Đản, phần nào vơi bớt nỗi cô đơn nhớ mong chồng. Mẹ chồng tôi lại vì quá nhớ thương con trai mà ngã bệnh, tôi cố hết sức thuốc thang lễ bái thần phật mong mẹ sớm khoẻ song vì tuổi già bệnh nặng mà mẹ đã không qua nổi Tôi đau lòng thương xót, lo ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ của mình. Kể từ đó chỉ còn có tôi cùng bé Đản, nhớ thương chồng và muốn bù đắp cho đứa con bé nhỏ không có cha bên cạnh, tôi thường trỏ bóng mình trên tường vào mỗi tối rồi bảo với con là “cha Đàn lại đến kia kìa!”. Bé Đản còn nhỏ nên ngây ngô tưởng thật, thường vui đùa cùng chiếc bóng. Năm sau dẹp giặc, đất nước thái bình, việc quân sự. Chồng tôi may mắn bình an trở về như mong đợi, hạnh phúc như vỡ òa tuy nhiên khi nghe tin mẹ mất, chồng tôi rất buồn, anh đã hỏi mộ mẹ rồi dắt đứa con nhỏ đi thăm. Tôi không biết trên đường đã xảy ra chuyện gì, nhưng khi trở về, tâm trạng anh vô cùng tồi tệ, sau đó anh nặng lời với tôi, trách tôi hư hỏng, làm chuyện trái đạo lý… Tôi cũng không hiểu đến cùng. Biết nguyên nhân vì sao, thấy anh như vậy, anh chỉ biết khóc và tủi thân. Dùng hết lời để giải thích, hỏi chàng chuyện kia là ai nói nhưng chàng lại giấu mà không trả lời. Tôi vốn biết thân phận mình là con kẻ khó, nương tựa được nhà giàu, chưa từng có suy nghĩ trái đạo lý như vậy. Nhưng nay điều đâu bay buộc, tai họa ập đến. Tôi bàng hoàng sửng sốt, vừa khóc thổn thức vừa giải thích: "Thiếp vốn con nhà nghèo khó, được nương tựa nhà giàu, vẫn lấy sự nết na thuỳ mị, công dung ngôn hạnh làm đầu. Vợ chồng sum họp chưa được bao lâu, chia xa chỉ vì lửa binh chứ không vì lí do gì khác. Trong ba năm cách biệt, thiếp một mực giữ gìn tiết hạnh, không tô son điểm phấn, không bén gót chốn chơi bời, một mực nhớ thương và chung thuỷ với chàng. Xin chàng hãy tin thiếp, đừng nghi oan cho thiếp mà tội nghiệp". Danh dự của bản thân bị bôi nhọ, giấc mơ một gia đình hạnh phúc cũng từ đây tan vỡ, tuyệt vọng đến tột cùng tôi chỉ biết tìm đến con đường tự vẫn để chứng minh mình trong sạch.Hàng xóm thương tôi cũng bênh vực và biện bạch giúp nhưng rốt cuộc chẳng có kết quả gì. Chàng mắng nhiếc tôi thậm tệ rồi đánh đuổi tôi đi. Lòng tôi đau đớn, xót xa, cay đắng đến tuyệt vọng. Tôi đã nương dựa vào chàng những mong có một gia đình đầm ấm, hoà thuận, hạnh phúc. Nhưng giờ đây, trâm gãy bình tan, tình cảm vợ chồng sứt mẻ. Dù vẫn thương chồng, thương con tha thiết, nhưng tôi đâu còn mặt mũi nào mà sống ở trên đời này thêm nữa. Nghĩ vậy tôi đến bến Hoàng Giang, ngửa mặt lên trời than cầu mong thần linh chứng giám cho tấm lòng thủy chung của mình, xong gieo mình xuống sông. May thay, Linh Phi, vợ vua Thủy Tề, thấu hiểu nỗi oan của tôi rẽ đường nước cho tôi xuống thủy cung và cho tôi lưu lại ở đó. Một hôm gặp Phan Lang, một người dân làng trong lúc hoạn nạn đã được Linh Phi cứu giúp. Phan Lang kể cho tôi nghe sự việc. Chẳng là Trương sau khi thấy vợ chết, rất tức giận nhưng vẫn động lòng thương cho vợ đi tìm xác nhưng không thấy vô cùng ân hận. Mấy hôm sau, thấy Trương Sinh bày hội chợ ba ngày ba đêm ở bến sông Trường Giang. Tôi cũng thấy thương chồng con vì không có ai chăm sóc. Cho nên đến ngày thứ ba, tôi lúc ẩn lúc hiện cùng năm mươi chiếc kiệu hoa, võng lọng mà Linh Phi ban cho. Tôi vẫn ở giữa sông mà nói vọng vào bờ lời tạ từ với chồng con rồi từ từ biến mất mãi mãi. Bởi lẽ nơi chốn trần gian nào có chuyện người chết sống lại, cũng một phần vì tôi muốn ở lại để báo đáp ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Sau đó tôi liền trở về thủy cung, không một lần trở lại. Dù quá khứ đã lùi xa nhưng có lẽ những người trong cuộc vẫn bị ám ảnh day dứt. Tôi chỉ mong rằng qua câu chuyện cuộc đời tôi để mọi người lấy đó làm bài học để giữ lấy hạnh phúc. Hạnh phúc gia đình không chỉ được xây dựng trên nền tảng của tình yêu thương mà còn phải có sự tin tưởng và tôn trọng lẫn nhau.
Hãy nhận xét về nhưng chuyển biến về cơ cấu xã hội ở nước ta giửa thời văn lang-âu lạc và thời kì bị đô hộ
THỜI KỲ VĂN LANG - ÂU LẠC | THỜI KỲ BỊ ĐÔ HỘ |
Vua | Quan lại đô hộ |
Quý tộc | Hào trưởng Việt Địa chủ Hán |
Nông dân công xã | Nông dân công xã Nông dân lệ thuộc |
Nô tì | Nô tì |
Thế nhá
Thời Văn Lang - Âu Lạc |
Thời kì bị đô hộ |
||
Vua | Quan lại đô hộ | ||
Quý tộc |
|
||
Nông dân công xã |
Nông dân công xã Nông dân lệ thuộc |
||
Nô tì | Nô tì | ||
Mình bị thừa mất 1 dòng cuối.
Chúc các bạn học giỏi
1. Nhà nước Văn Lang được tổ chức như thế nào
Hãy cho biết sự thành lập nhà nước Văn Lang
2. Giữa nhà nước Văn Lang và nhà nước Âu Lạc giống nhau và khác nhau như thế nào?
3.Nhà nước Âu Lạc sụp đổ trong hoàn cảnh nào ?
Sắp thi học kì 1 rồi
Giusp mình nha
câu 3:Đất nước Âu Lạc yên ổn chưa được bao lâu thì xảy ra cuộc xâm lược của Triệu Đà.
Triệu Đà là một tướng của nhà Tần, được giao cai quản các quận giáp phía bắc Âu Lạc (tương ứng với Quảng Đông, Quảng Tây thuộc Trung Quốc ngày nay). Năm 207 TCN, nhân lúc nhà Tần suy yếu, Triệu Đà đã cắt đất ba quận, lập thành nước Nam Việt, sau đó đem quân đi đánh các vùng xung quanh và đánh xuống Âu Lạc. Quân dân Âu Lạc, với vũ khí tốt và tinh thần chiến đấu dũng cảm, đã đánh bại các cuộc tấn công của quân Triệu, giữ vững nền độc lập của đất nước. Triệu Đà, biết không thể đánh bại được quân ta, bèn vờ xin hòa và dùng mưu kế chia rẽ nội bộ nước ta.
Năm 179 TCN, sau khi đã chia rẽ được nội bộ nhà nước Âu Lạc, khiến các tướng.giỏi như Cao Lỗ, Nồi Hầu phải bỏ về quê, Triệu Đà lại sai quân đánh Âu Lạc. An Dương Vương do không đề phòng, lại mất hết tướng giỏi, nên bị thất bại nhanh chóng. Âu Lạc rơi vào ách đô hộ của nhà Triệu.
Câu 2:Những điểm giống và khác nhau của nhà nước Văn Lang và nhà nước Âu Lạc :
- Giống nhau :
+ Có tổ chức từ trên xuống dưới, lấy làng, chạ làm cơ sở (đơn vị hành chính).
+ Tuy còn đơn giản nhưng đã là tổ chức chính quyền cai quản cả nước.
- Khác nhau :
Thời Âu Lạc, quyền hành của nhà nước đã cao hơn và chặt chẽ hơn. Vua có quyền thế hơn trong việc trị nước. Sự phân biệt giữa tầng lớp thống trị và nhân dân sâu sắc hơn
Bạn tham khảo nha :
Câu 1 : Bài 12 : Nước Văn Lang | Học trực tuyến
Câu 2 : Bài 16 : Ôn tập chương I và chương II | Học trực tuyến
Câu 3 : Bài 15 : Nước Âu Lạc (tiếp theo) | Học trực tuyến