TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC ĐƯỢC THỂ HIỆN QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ NÀO
Trình bày những biểu hiện nổi bật của truyền thống yêu nước và chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử.
truyền thống yêu nước và chống giặc ngoại xâm của dân tộc việt nam thể hiện rõ qua nhiều thời kỳ lịch sử. trong thời kỳ dựng nước và giữ nước, nhân dân đã cùng các vua hùng, các anh hùng dân tộc như hai bà trưng, bà triệu đứng lên khởi nghĩa chống ngoại xâm. trong các triều đại phong kiến, nhân dân tiếp tục chiến đấu bảo vệ bờ cõi, nổi bật là những cuộc khởi nghĩa nông dân như khởi nghĩa lam sơn chống quân minh. trong thời kỳ cận đại và hiện đại, nhân dân việt nam dưới sự lãnh đạo của đảng và các phong trào cách mạng đã đoàn kết chống thực dân, đế quốc, giành độc lập và tự do cho đất nước. truyền thống này còn được thể hiện qua tinh thần đoàn kết, sẵn sàng hy sinh vì tổ quốc và bảo vệ chủ quyền dân tộc, là nền tảng để xây dựng và phát triển đất nước trong thời bình.
Bài học lịch sử lớn nhất hiện nay được đúc rút từ công tác xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất qua các thời kỳ lịch sử Việt Nam là gì?
A. Đảng tập hợp tất cả các tầng lớp và giai cấp trong xã hội.
B. Đại đoàn kết dân tộc.
C. Thành lập các hiệp hội yêu nước.
D. Chủ nghĩa xã hội gắn liền với độc lập dân tộc.
Đáp án B
Bài học lịch sử lớn nhất hiện nay được đúc rút từ công tác xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất qua các thời kỳ lịch sử Việt Nam là thực hiện đại đoàn kết dân tộc
Những việc làm của nhân dân ta để thể hiện truyền thống biết ơn công lao của các vị anh hùng trong lịch sử dân tộc ?
tham khảo
Lãnh đạo huyện thăm, tặng quà các mẹ Việt Nam anh hùng và thương, bệnh binh. ...
Đoàn Thường Tín thăm các Trung tâm nuôi dưỡng, chăm sóc người có công. ...
Khám bệnh cho người có công tại xã Nguyễn Trãi. ...
Lãnh đạo huyện Thường Tín dâng hương tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ
liên hệ và cho biết một số truyền thống tốt đẹp được hình thành trong lịch sử của dân tộc .các truyền thống đó được phát huy như thế nào trong bối cảnh đại dịch covid-19
Tham khảo
Tinh thần tự lực, tự cường với quyết tâm “chống dịch như chống giặc”
Vào những tháng cuối năm 2019, đại dịch COVID-19 bắt đầu diễn biến ngày càng phức tạp, khó lường, khi sự lây nhiễm rộng khắp, sức tàn phá ghê gớm ở các nước lân cận và trên thế giới. Tại Việt Nam, ngày 23-1-2020, Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương đầu tiên trong cả nước xuất hiện ca nhiễm COVID-19 bởi những người đến từ vùng dịch trên thế giới. Trước tình hình đó, trong các cuộc họp chuyên đề, họp khẩn, Đảng bộ, chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh luôn dành thời gian phân tích, nhận định về dịch bệnh COVID-19 và cho rằng nguy cơ xâm nhập vào Thành phố là rất cao, có thể bùng phát bất cứ lúc nào; đồng thời, bàn giải pháp để ngăn chặn và dập dịch. Đặc biệt, giữa lúc tình hình đại dịch trong nước có diễn biến phức tạp, ngay lập tức, ngày 30-3-2020, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã ra Lời kêu gọi tới đồng bào, đồng chí, chiến sĩ cả nước và đồng bào Việt Nam ở nước ngoài cùng vào cuộc chống dịch COVID -19. Đáp lại Lời kêu gọi đó, toàn Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã phát huy truyền thống cách mạng, đoàn kết một lòng, thống nhất ý chí, hành động với tinh thần “chống dịch như chống giặc” để thực hiện hiệu quả chủ trương của Đảng, Nhà nước và sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ với quyết tâm chiến thắng đại dịch COVID-19.
Cuộc chiến chống đại dịch COVID-19 là chưa có tiền lệ, trong khi điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, vật tư y tế tại Thành phố Hồ Chí Minh phục vụ công tác phòng, chống đại dịch chưa có sự chuẩn bị tốt. Đối diện với những khó khăn, thách thức đó, tinh thần chủ động, sáng tạo, tự lực, tự cường của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục được thể hiện. Thành phố luôn theo dõi diễn biến của dịch bệnh trên thế giới, trong nước, các địa phương lân cận và phân tích mặt mạnh, mặt yếu của mình để xây dựng kịch bản, đưa ra phương án phòng, chống dịch với nguyên tắc “ngăn chặn, phát hiện, cách ly, khoanh vùng, dập dịch” được thực hiện một cách triệt để. Với nhận định phương án hữu hiệu trước mắt vẫn là ý thức của người dân, vì nếu chỉ một người thiếu ý thức trong phòng, chống dịch bệnh có thể tạo nên nguy hiểm cho những người xung quanh, dẫn đến hậu quả khó lường, vì vậy, Thành phố đã tổ chức các đợt tuyên truyền rộng rãi nhằm phát huy tinh thần “mỗi người dân là một chiến sĩ tham gia chống dịch” để mọi người luôn tự giác bảo vệ chính bản thân và gia đình trước nguy cơ lây nhiễm của dịch bệnh.
Những tháng giữa năm 2020, trong bối cảnh nguy cơ xâm nhập, lây lan của dịch bệnh ngày càng tăng, lãnh đạo Thành ủy, Ủy ban nhân dân Thành phố chỉ đạo cả hệ thống chính trị vào cuộc với tinh thần, cường độ cao hơn. Theo đó, tùy vào chức năng, nhiệm vụ, mỗi sở, ban, ngành, địa phương đã chủ động xây dựng phương án để từng tập thể, cá nhân tự chịu trách nhiệm, nhất là phát huy vai trò người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong thực hiện nhiệm vụ được phân công. Các đồng chí lãnh đạo Thành phố thường xuyên đi kiểm tra công tác phòng, chống dịch tại các đơn vị, địa phương, đến từng chốt kiểm dịch, khu cách ly tập trung để thăm hỏi, qua đó kịp thời tháo gỡ vướng mắc trong công tác phòng, chống dịch.
Đặc biệt, với ngành y tế, suốt hơn hai năm qua là chặng đường gian nan, vất vả ở tuyến đầu, bởi luôn phải đối diện trực tiếp với dịch bệnh vô cùng nguy hiểm. Thế nhưng, với tinh thần “lương y như từ mẫu”, các “chiến sĩ áo trắng” trong toàn Thành phố vẫn âm thầm cống hiến, hy sinh với trách nhiệm cao nhất để bảo vệ sức khỏe, tính mạng của người dân. Để thực hiện nhiệm vụ, họ đã gác lại việc gia đình, đi vào tâm dịch, trải qua những ngày tháng khắc nghiệt, làm việc ngày đêm, kiên cường chiến đấu.
Với sự chủ động, tinh thần tự lực, tự cường và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, nên dù trải qua ba lần dịch bùng phát, Thành phố Hồ Chí Minh đã thành công khi hạn chế thấp nhất sự lây lan của dịch bệnh trên địa bàn; đặc biệt, đến cuối năm 2020, Thành phố vẫn kiểm soát tốt dịch bệnh, không để lây lan rộng trong cộng đồng, đặc biệt chưa có trường hợp tử vong nào. Điểm đáng ghi nhận, trong bối cảnh khó khăn, thách thức, nhưng Thành phố vẫn thực hiện thành công “mục tiêu kép” vừa phòng, chống dịch bệnh, vừa phát triển kinh tế - xã hội, với tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) Thành phố trong các tháng đầu năm 2021 liên tục tăng so với cùng kỳ năm trước.
Di sản văn hóa là sản phẩm vật chất và tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền qua các thế hệ. Chúng chứa đựng bản sắc của cộng đồng, dân tộc và thể hiện sự sáng tạo của con người qua thời gian. 2. Các loại di sản văn hóa Di sản văn hóa được chia thành hai loại chính
Di sản văn hóa là những giá trị tinh thần và vật chất do con người sáng tạo, lưu giữ qua nhiều thế hệ, có ý nghĩa đặc biệt về lịch sử, văn hóa, khoa học và nghệ thuật. Di sản văn hóa thể hiện bản sắc, truyền thống của một cộng đồng, một dân tộc, góp phần tạo nên sự đa dạng và phong phú của nền văn hóa nhân loại.
Có mấy loại di sản văn hóa?Theo quy định của Luật Di sản Văn hóa Việt Nam, di sản văn hóa được chia thành hai loại chính:
1. Di sản văn hóa vật thểLà những di sản có hình dạng, vật chất cụ thể, có thể nhìn thấy, cầm nắm hoặc đo đạc được.
Ví dụ:
Di tích lịch sử – văn hóa (đền, chùa, lăng tẩm, thành quách…)Danh lam thắng cảnhCổ vật, bảo vật quốc giaKiến trúc cổ, công trình nghệ thuật, hiện vật khảo cổ học2. Di sản văn hóa phi vật thểLà những giá trị tinh thần được lưu truyền qua truyền miệng, phong tục, tập quán, kỹ năng, lễ hội...
Ví dụ:
Tiếng nói, chữ viếtTập quán xã hội, tín ngưỡngLễ hội truyền thốngNghệ thuật trình diễn dân gian (hát quan họ, hát xoan, ca trù…)Nghề thủ công truyền thốngÝ nghĩa của di sản văn hóaBảo tồn bản sắc dân tộc: Giúp các thế hệ hiểu và tự hào về nguồn cội, văn hóa truyền thống.Giá trị giáo dục: Là nguồn tư liệu sống động để giáo dục lịch sử, đạo đức, truyền thống cho thế hệ trẻ.Phát triển du lịch: Góp phần thúc đẩy kinh tế thông qua du lịch văn hóa, thu hút khách trong và ngoài nước.Gắn kết cộng đồng: Di sản là cầu nối giữa các thế hệ và các cộng đồng, tăng tính đoàn kết xã hội.Góp phần vào kho tàng văn hóa nhân loại: Di sản không chỉ có giá trị trong phạm vi quốc gia mà còn đóng góp vào sự đa dạng văn hóa toàn cầu.Di sản văn hóa là những giá trị tinh thần và vật chất do con người sáng tạo, lưu giữ qua nhiều thế hệ, có ý nghĩa đặc biệt về lịch sử, văn hóa, khoa học và nghệ thuật. Di sản văn hóa thể hiện bản sắc, truyền thống của một cộng đồng, một dân tộc, góp phần tạo nên sự đa dạng và phong phú của nền văn hóa nhân loại.
Có mấy loại di sản văn hóa?Theo quy định của Luật Di sản Văn hóa Việt Nam, di sản văn hóa được chia thành hai loại chính:
1. Di sản văn hóa vật thểLà những di sản có hình dạng, vật chất cụ thể, có thể nhìn thấy, cầm nắm hoặc đo đạc được.
Ví dụ:
Di tích lịch sử – văn hóa (đền, chùa, lăng tẩm, thành quách…)Danh lam thắng cảnhCổ vật, bảo vật quốc giaKiến trúc cổ, công trình nghệ thuật, hiện vật khảo cổ học2. Di sản văn hóa phi vật thểLà những giá trị tinh thần được lưu truyền qua truyền miệng, phong tục, tập quán, kỹ năng, lễ hội...
Ví dụ:
Tiếng nói, chữ viếtTập quán xã hội, tín ngưỡngLễ hội truyền thốngNghệ thuật trình diễn dân gian (hát quan họ, hát xoan, ca trù…)Nghề thủ công truyền thốngÝ nghĩa của di sản văn hóaBảo tồn bản sắc dân tộc: Giúp các thế hệ hiểu và tự hào về nguồn cội, văn hóa truyền thống.Giá trị giáo dục: Là nguồn tư liệu sống động để giáo dục lịch sử, đạo đức, truyền thống cho thế hệ trẻ.Phát triển du lịch: Góp phần thúc đẩy kinh tế thông qua du lịch văn hóa, thu hút khách trong và ngoài nước.Gắn kết cộng đồng: Di sản là cầu nối giữa các thế hệ và các cộng đồng, tăng tính đoàn kết xã hội.Góp phần vào kho tàng văn hóa nhân loại: Di sản không chỉ có giá trị trong phạm vi quốc gia mà còn đóng góp vào sự đa dạng văn hóa toàn cầu.Em đồng ý với những ý kiến nào sau đây ?
a) Truyền thống là những kinh nghiệm quý giá ;
b) Nhờ có truyền thống, mỗi dân tộc mới giữ được bản sắc riêng;
c) Dân tộc Việt Nam có nhiều truyền thống tốt đẹp, rất đáng tự hào;
d) Không có truyền thống, mỗi dân tộc và cá nhân vẫn phát triển;
đ) Trong thời đại mở cửa và hội nhập hiện nay, truyền thống dân tộc không còn quan trọng nữa ;
e) Không được để các truyền thống dân tộc bị mai một, lãng quên.
Đáp án đúng: (a), (b), (c), (e)
Truyền thông tốt đẹp của dân tộc là vô cùng quý giá, góp phần tích cực vào quá trình phát triển của dân tộc và mỗi cá nhân. Vì vậy, chúng ta phải bảo vệ, kế thừa và phát huy truyền thông tốt đẹp của dân tộc để góp phần giữ gìn bản sắc dân tộc Việt N
Ngày mồng 10 tháng Ba âm lịch hằng năm được chọn là ngày Quốc lễ Giỗ Tổ Hùng Vương. Điều đó thể hiện truyền thống tốt đẹp nào của dân tộc?
Truyền thống "uống nước nhớ nguồn"
Nội dung nào dưới đây đúng khi nói về trống đồng Đông Sơn ?
A. thể hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn
B. thể hiện tinh thần tự lực , tự cường của dân tộc Việt Nam
C. thể hiện niềm tự hào dân tộc thông qua truyền thống cần cù , thương thân thương ái
D. thể hiện niềm tự hào dân tộc thông qua truyền thống đúc đồng, làm gốm , trang sức
D. Thể hiện niềm tự hào dân tộc thông qua truyền thống đúc đồn, làm gốm, trang sức