Quoc Tran Anh Le

Những câu hỏi liên quan
Huy Ngo
Xem chi tiết
Trần Văn Thành
22 tháng 10 2023 lúc 17:18

"Bài thơ Mùa Xuân Chín" của Hàn Mạc Tử miêu tả cảnh xuân với một tâm trạng sâu lắng và lãng mạn. Tác giả sử dụng ngôn ngữ tươi đẹp và hình ảnh tinh tế để thể hiện vẻ đẹp của mùa xuân và cảm xúc của người thơ trong bài thơ.

 

Cảnh xuân được mô tả rất tươi mới, với cây cỏ, hoa lá nở rộ, chim hót vang, và gió nhẹ thổi qua. Tác giả sử dụng những hình ảnh như "hoa đào sớm mở rộ" và "rừng xanh nắng lớn" để tạo nên một hình ảnh tươi sáng và phấn khích của mùa xuân.

 

Tuy nhiên, bài thơ cũng mang trong mình một nỗi buồn sâu thẳm. Tác giả viết về sự phôi pha của mùa xuân với cuộc đời của mình, và cảm xúc của người thơ trước sự thay đổi của thời gian. Bài thơ thể hiện sự phản ánh về sự tạm thời của cuộc sống và vẻ đẹp của mùa xuân chín, đồng thời cũng làm nổi bật sự đau thương và những kỷ niệm về tuổi thanh xuân.

 

Tóm lại, "Mùa Xuân Chín" của Hàn Mạc Tử là một bài thơ đẹp và lôi cuốn, thể hiện tài năng văn chương của tác giả và sâu sắc cảm xúc về mùa xuân và cuộc sống.

Bình luận (0)
Quoc Tran Anh Le
Xem chi tiết
Hà Quang Minh
14 tháng 11 2023 lúc 20:59

Đoạn văn tham khảo:

Câu thơ "Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời" là một nét vẽ rất đẹp trong bức tranh "Mùa xuân chín". Câu thơ gợi ấn tượng về về sắc xanh bất tận, rợn ngợp của cỏ mùa xuân. Hình ảnh chủ đạo là hình ảnh của cỏ mùa xuân rợn ngợp, tươi tốt; không gian của bức tranh là không gian mênh mông, khoáng đạt. Tuy nhiên, câu thơ Hàn Mạc Tử gợi lên sự chuyển động của cảnh vật qua từ "sóng" và từ "gợn đặc tả động thái bên trong của sự vật chứ không chỉ thuần tả sắc màu sự vật. Chính động thái đang "cựa quậy", đang "sóng sánh" ấy của cỏ khiến người đọc cảm nhận rõ hơn sức sống căng tràn của cỏ xuân và cảnh xuân.

Bình luận (0)
Khánh
Xem chi tiết
Đỗ Tuệ Lâm
11 tháng 3 2022 lúc 8:45

Trong một bài thơ, nhà thơ Thanh Hải có viết: 
   “Mùa xuân người cầm súng
   Lộc giắt đầy trên lưng
   Mùa xuân người ra đồng
   Lộc trải dài nương mạ
   Tất cả như hối hả 
    Tất cả như xôn xao”
(Trích “Mùa xuân nho nhỏ” – Thanh Hải)
Câu 1: Giải thích ý nghĩa nhan đề của bài thơ?

=> 

"Người cầm súng" và "người ra đồng" là hai hình ảnh biểu tượng cho hai nhiệm vụ chiến lược quan trọng nhất của đất nước ta ở thời điểm bài thơ ra đời.

Hình ảnh "người cầm súng" lại đi liền với hình ảnh "lộc giắt đầy quanh lưng" đã gợi cho người đọc liên tưởng đến những vòng lá ngụy trang của người chiến sĩ trên đường hành quân ra trận.

Hình ảnh "người ra đồng" được sử dụng kết hợp với hình ảnh "lộc trải dài nương mạ" gợi liên tưởng đến những cánh đồng tươi tốt, xanh thẳm, màu mỡ.

Xác định các từ trong nhan đề bài thơ là thuộc từ loại nào?

=> Từ ghép

Bình luận (0)
Thành Nguyễn
Xem chi tiết
Ngô Võ Kim Cương
Xem chi tiết
Phạm Thị Thúy Giang
1 tháng 2 2016 lúc 14:21

           Thiên nhiên là đề tài muôn thuở của thi ca. Các thi sĩ đến với thiên nhiên bằng tâm hồn nhạy cảm, tinh tế và đầy mến yêu. Không ai quên thế giới Bồng Lai tiên cảnh trong thơ Lý Bạch, núi rừng hữu tình trong thơ Nguyễn Trãi, làng quê mộc mạc đơn sơ trong thơ Nguyễn Khuyến. Và cũng không ai quên trong phong trào Thơ Mới (1930 – 1945) từng có một tiếng reo "Đây mùa thu tới" của Xuân Diệu, một tình cảm mênh mang với "Tràng giang" của Huy Cận và một nỗi niềm hẫng hụt, chơi vơi với "Đây thôn Vĩ Giạ" của Hàn Mặc Tử.

          Thiên nhiên chớm vào mùa thu trên đất Bắc trong "Đây mùa thu tới" thật đẹp mà cũng thật buồn – một vẻ đẹp, một nét buồn rất mới, rất khác so với thơ ca trung đại.

          Nếu như cảm quan nghệ thuật của thi ca trung đại là: lấy thiên nhiên làm chuẩn mực vẻ đẹp cho con người – như Nguyễn Du đã từng tả Thúy Vân: "Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang. Hoa cười ngọc thốt đoan trang. Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da” (Truyện Kiều) – thì với Xuân Diệu – "nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới" – con người là vẻ đẹp chuẩn mực cho thiên nhiên:

 

"Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang

Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng."

          Chưa ai có một cách so sánh lạ như Xuân Diệu. Cây liễu đẹp như người thiếu nữ đứng xõa tóc "chịu tang". Mỗi sợi tóc là một sợi buồn, mỗi nhành liễu là một sợi tóc. Từ cổ chí kim, không có nỗi buồn nào thấm thía đau đớn bằng nỗi buồn chịu tang. Bao nhiêu nước mắt rơi xuống mà nỗi buồn chẳng vơi. Rặng liễu với những sợi tơ liễu được kết bằng những lá liễu dài gối lên nhau "hàng hàng" rủ xuống như "lệ" giăng mắc đầy một khoảng trời làm nỗi buồn chớm thu như càng tăng thêm, thấm thía hơn. Và trong nỗi buồn ấy còn gợi lên một nỗi đau mất mát:

"Hơn một loài hoa đã rụng cành

Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh

Những luồng run rẩy rung rinh lá

Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh"

          Ngày lại ngày trôi qua, thu về, cảnh vật biến đổi, cây cối xơ xác trơ trụi, khẳng khiu như đang run rẩy, khẽ rùng mình trong gió se se lạnh: "Đã nghe rét mướt luồn trong gió". Cảm nhận về cái rét đến trong gió của Xuân Diệu là một cảm nhận mới. Thiên nhiên xôn xao, cựa mình – điều ấy thể hiện qua nghệ thuật sử dụng phụ âm “r” (rụng/rũa/run rẩy/rung rinh) và phụ âm "m" (mỏng manh) – không giống thiên nhiên trong thơ cổ mang nét tĩnh lặng, ngay cả khi "Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo" (Mùa thu câu cá – Nguyễn Khuyến) thì cả không gian thiên nhiên thu vẫn chủ yếu là tĩnh lặn Cùng với "lá vàng" trong thơ Nguyễn Khuyến, ai cũng biết bức tranh "Mùa thu vàng" của danh họa Lê-vi-tan, nhưng không đâu có một màu vàng mới và độc đáo như màu vàng của đất trời vào thu trong "Đây mùa thu tới" của Xuân Diệu. Đó không phải là những đốm vàng nhỏ mà là cả một "không gian vàng" – một màu vàng "mơ phai" rất riêng rất khó lẫn. Đó là màu vàng của "cái hồn thu qua sắc lá" (Tạ Đức Hiền) làm mùa thu bớt buồn và thêm thi vị, thêm đáng yêu. "Mùa thu tới!" – Xuân Diệu đã nhận được bức thông điệp của mùa thu và đã reo lên sung sướng: "Đây mùa thu tới! Mùa thu tới!". Giai điệu rộn rã của tiếng reo khiến ta cảm giác hình như Xuân Diệu đang hát lên tiếng hát khát vọng giao cảm với cuộc đời. Bước chân đến với trời thu của thi sĩ đầy "giục giã", "vội vàng".

          Cùng mang vẻ đẹp buồn truyền thống, nhưng nếu như thiên nhiên trong "Đây mùa thu tới" đẹp thướt tha, thì thiên nhiên trong "Tràng giang" lại mang vẻ đẹp hùng vĩ rợn ngợp của "trời rộng", "sông dài”:

"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song"

"Nắng xuống, trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu"

          Thiên nhiên ở đây đậm sắc màu cổ điển. Dòng sông mênh mang, chảy dài giữa không gian vắng lặng, bát ngát. Những con sóng gối lên nhau lớp lớp không bao giờ dừng như nỗi buồn miên man không dứt. Song song với con thuyền buông trôi, thụ động phó mặc cho cuộc đời, không một chút hi vọng là biểu hiện của nỗi buồn chia lìa, li biệt. Bao nhiêu ngả nước, bấy nhiêu ngả sầu, cảnh ở đây rất sầu: từ "con thuyền", "cành củi khô" đến "nước", "sóng" và cả "bờ xanh", "bãi vàng”, "bến cô liêu" đều mang nỗi sầu lớn. Nỗi "buồn điệp điệp" triền miên lan tỏa xuyên suốt bài thơ và cồn cào, day dứt nhất ở hình ảnh cuối bài:

"Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà"

          Nỗi buồn của Huy Cận miên man không dứt như sóng nước mênh mông bất tận, theo sóng nước lan tỏa rất xa, buồn hơn nhiều so với Thôi Hiệu (Đời Đường – Trung Quốc): "Yên ba giang thượng sử nhân sầu" (Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?). Từ nỗi buồn đằng dặc ấy, vẻ đẹp hiện lên là vẻ đẹp mênh mang đất trời. Không gian mở rộng ra mọi chiều cả về độ dài – rộng, cao – sâu. Đó là cái đẹp lặng lẽ, rợn ngợp của không gian sông nước quen thuộc, gần gũi được Huy Cận dựng lên bằng hình ảnh đơn sơ, thành những nét vẽ tinh tế, giàu màu sắc cổ điển mà vẫn mới. Thấm đượm trong cảnh là một linh hồn "mang mang thiên cổ sầu" và một cái gì như thể là linh hồn ngàn xưa của dân tộc vẫn còn vương vấn nơi bãi rộng sông dài với "bến cô liêu", với "bèo dạt", "mây", "cánh chim", "bóng chiều", với "khói hoàng hôn" với tình quê đậm đà, da diết cháy trong lòng thi nhân.

          Thiên nhiên được khúc xạ qua tâm hồn thi sĩ, mang nỗi buồn của nhà thơ. Cái đẹp thực, đẹp ảo của cảnh là cái đẹp trong sự thảng thốt của tác giả. Nỗi buồn mênh mang từ hoàn cảnh của nhà thơ là nỗi buồn gắn với thiên nhiên. Trong "Tràng giang", "nỗi buồn thấm trong từng câu chữ", đầy như dòng sông Hồng cuồn cuộn chảy.

          Trong "Đây mùa thu tới" nỗi buồn tỏa ra từ niềm cô đơn, quạnh vắng, còn trong "Đây thôn Vĩ Giạ" nỗi buồn lại nhè nhẹ cất lên từ ý thức bị lãng quên của nhà thơ. Nhưng khác với "Đây mùa thu tới" và "Tràng giang", "Đây thôn Vĩ Giạ" là một bài thơ "có bước nhảy cảm xúc" (Vũ Quần Phương), có sự chuyển đổi cảm xúc rất nhanh, rất nhuần nhị, tinh tế. Bài thơ có ba khổ thì mỗi khổ là một câu hỏi gắn với tâm trạng khác nhau của Hàn Mặc Tử, gắn với những vẻ đẹp khác nhau của thiên nhiên xứ Huế thơ mộng. Ở khổ một, thi sĩ đang vui sướng "nhìn nắng hàng cau nắng mới lên", ngắm "vườn ai mướt quá xanh như ngọc" thật đẹp đẽ của thôn Vĩ Giạ. Đó là vẻ đẹp nguyên sơ – thánh thiện, vẻ đẹp tươi tắn, rạng rỡ, trinh nguyên của xứ Huế hiện lên rõ nét trong dòng hoài niệm của Hàn Mặc Tử. Đến khổ thứ hai, cảm xúc của thi nhân chợt lắng xuống thoáng buồn:

"Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay"

          "Đây mùa thu tới" nói về nỗi buồn tàn lụi, chia lìa: "Hơn một loài hoa đã rụng cành, trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh" với cách nói phiếm định: "hơn một" đệm màu sắc văn hóa phương Tây, đầy mới mẻ. "Tràng giang" nói về nỗi buồn li biệt của cảnh: "Con thuyền xuôi mái nước song song" mang dấu ấn cổ điển. Và "Đây thôn Vĩ Giạ" cùng nói về nỗi buồn lẻ loi, tan tác: "Gió theo lối gió mây đường mây, dòng nước buồn thiu hoa bắp lay" nhưng không đơn giản chỉ có thế mà còn là nỗi buồn xa cách, bị lãng quên. Dòng sông Hương lững lờ trôi là dòng "sông trăng" chất chở nỗi buồn nhẹ nhàng, man mác của lòng người. Từ cái đẹp trinh nguyên của xứ Huế mộng mơ thực tại, dòng liên tưởng của Hàn Mặc Tử hướng về một cái dẹp mờ ảo của cảnh vật trong sự chia cách. Cũng như nỗi buồn của Xuân Diệu trong "Đây mùa thu tới", nỗi buồn của Hàn Mặc Tử ở đây cũng thật lặng lẽ, nhẹ nhàng chứ không phải triền miên, dữ dội như sóng của Huy Cận trong "Tràng giang".

          Với thể thơ thất ngôn truyền thống, nhìn chung, nỗi buồn của thơ Xuân Diệu là nỗi "buồn không nói", của thơ Huy Cận là nỗi "buồn điệp điệp", của thơ Hàn Mặc Tử là nỗi "buồn thiu”. Thiên nhiên trong cả ba bài thơ đều đẹp và buồn bởi thiếu một tình người. Tình người mà ở mỗi bài thơ được thi nhân nhắc đến là để xoa dịu nỗi buồn bị quên lãng ("Đây thôn Vĩ Giạ"); xóa cô đơn, rợn ngợp trong lòng, tìm đến một tình quê ấm áp ("Tràng giang"); xóa cái lạnh của lòng người, tìm đến một tình yêu, một khát vọng giao cảm với thiên nhiên, với cuộc đời ("Đây mùa thu tới"). Các nhà thơ có sự cảm nhận tinh tế về thiên nhiên cũng như đã biểu hiện một cách sâu sắc thế giới tâm trạng, cảm xúc của mình trước thiên nhiên đó.

          Thiên nhiên trong thơ mới là một đóng góp về mặt tư tưởng văn hóa của người Việt Nam. Điều đó đã chứng tỏ một tình yêu quê hương đất nước của các nhà thơ mới nói chung và của Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử nói riêng.

 

Bình luận (0)
Nguyen Tuan Anh
Xem chi tiết
Văn Đức
Xem chi tiết
minh nguyet
15 tháng 2 2022 lúc 20:04

Em tham khảo nhé:

Nguồn: Hoidap247

Trong bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ", nhà thơ Thanh Hải đã thể hiện tình yêu cuộc sống và trân trọng từng phút giây được sống của mình qua khổ thơ đầu tiên. Bốn câu thơ đầu là bức tranh thiên nhiên tươi đẹp mà nhà thơ Thanh Hải khắc họa. Từ "Mọc" được đảo lên đầu câu thơ cho thấy một sức sống tiềm tàng mãnh liệt của bông hoa. Những hình ảnh "dòng sông xanh, bông hoa tím biếc" chính là những hình ảnh của bức tranh thiên nhiên, bức tranh cuộc sống tươi đẹp. Nhà thơ như đang đứng trước bức tranh thiên nhiên trong tưởng tượng ấy của mình, nghĩ về những điều tươi đẹp của cuộc sống. Bức tranh được nhà thơ Thanh Hải vẽ ra không chỉ có màu sắc mà còn có âm thanh tiếng chim chiền chiện. Từ cảm thán "Ơi" và câu hỏi như trách yêu của nhà thơ đã thể hiện được vẻ đẹp của bức tranh tư tưởng trong tâm hồn nhà thơ. Dường như, bức tranh tâm tưởng trong tâm trí nhà thơ có đủ cả màu sắc, hình ảnh và âm thanh. Đó là sự khát khao, yêu thương cuộc sống, yêu những vẻ đẹp của cuộc sống. Hai câu thơ cuối "Từng giọt long lanh rơi/Tôi đưa tay tôi hứng" cho thấy một thái độ trân trọng, nâng niu từng điều, từng phút giây quý báu của nhà thơ. Hình ảnh "giọt" ở đây có thể là từng khoảnh khắc trôi qua, từng phút giây trôi qua. Hành động "hứng" của nhà thơ cho thấy thái độ trân trọng, nâng niu và khát vọng gìn giữ những điều tốt đẹp đang trôi qua trong tâm tưởng nhà thơ. Tóm lại, khổ thơ 1 chính là tình yêu cuộc sống và thái độ trân trọng, nâng niu cuộc sống của nhà thơ Thanh Hải.

Bình luận (0)
Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn Dĩnh
17 tháng 9 2019 lúc 9:55

“Chiều xuân” qua ngòi bút của Anh Thơ hiện lên qua tranh: buổi chiều tà, cảnh xuân ở đồng quê miền Bắc nước ta

- Bài thơ thể hiện sự quan sát tinh tế, bao quát cảnh vật

- Bức tranh buổi chiều yên bình, êm ả, có phần vắng lặng

→ Nắm được linh hồn cảnh vật

- Buổi chiều xuân đặc trưng ở cảnh mưa: mưa bụi, mưa xuân thưa thớt bay

- Mưa gọi mầm non thức dậy

+ Cảnh đầu tiên được tác giả chú ý là cảnh bến đò

+ Con đò dường như cũng hòa với sự êm ả của buổi chiều khi con đò “biếng lười nằm mặc nước sông trôi”

+ Điểm xuyết liên tục thêm vào bức tranh là quán tranh vắng, là những chùm hoa xoan tím “rụng tơi bời”

- Cảnh được mở rộng, cao, xa hơn

- Nêu bật đặc trưng của mùa xuân miền Bắc: cỏ non tràn biếc cỏ, đàn sáo đen, cánh bướm rập rờn,...

Khổ thứ hai hình ảnh độc đáo, đẹp, nhưng đượm buồn bởi cảnh vật chìm vào tĩnh lặng

- Ba khổ thơ là thơ tả cảnh, tập hợp thành bức tranh quê giản dị, mộc mạc, thanh nhã, hơi gợi buồn vì cảnh thanh vắng, yên tĩnh

Bình luận (0)
Tran Hoang Anh
Xem chi tiết
Trần Mạnh
20 tháng 2 2021 lúc 20:04

Câu 1: Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được sáng tác năm nào? *

A. 1975

B. 1976

C. 1980

D. 1985

Câu 2: Chọn câu trả lời đúng nhất: Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”: *

A. Là lời ca ngợi bức tranh mùa xuân tươi đẹp.

B. Là tiếng lòng tha thiết yêu mến gắn bó với đất nước, với cuộc đời; thể hiện ước nguyện chân thành của nhà thơ được công hiến cho đất nước, gớp một mùa xuân nho nhỏ của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc.

C. Là khát vọng được sống cống hiến cho đời.

D. Là lời ngợi ca mùa xuân tươi đẹp và khát vọng được bảo vệ, xây dựng đất nước.

Câu 3: Biện pháp tư từ nào được sử dụng trong 2 câu thơ: “Từng giọt long lanh rơi. Tôi đưa tay tôi hứng” *

A. So sánh

B. Ẩn dụ

C. Nhân hóa

D. Hoán dụ

Câu 4: Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ được được sáng tác theo thể thơ: *

A. Tự do 5 chữ

B. Ngũ ngôn tứ tuyệt

C. Thất ngôn tứ tuyêt

D. Lục bát

Câu 5: Cảm xúc nào của tác giả được thể hiện qua đoạn thơ: “Đất nước bốn ngàn năm. Vất vả và gian lao. Đất nước như vì sao. Cứ đi lên phía trước” *

A. Yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống

B. Lạc quan, tin tưởng, hi vọng về tương lai đất nước

C. Khao khát được cống hiến cho đất nước, cho cuộc đời

D. Say sưa ngây ngất trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước.

Bình luận (0)
Tran Hoang Anh
20 tháng 2 2021 lúc 19:58

giúp mình với :<

 

Bình luận (0)