Những câu hỏi liên quan
Trần Hải Việt シ)
Xem chi tiết
︵✰Ah
13 tháng 2 2022 lúc 16:45

Em thích nhân vật Mừng vì hoàn cảnh gia đình của Mừng và Mừng đã anh dũng hi sinh để giúp các chú bộ đội giết giặc

Tham Khảo 

Mừng là nhân vật xuất hiện sớm nhất, nhà nghèo, mẹ bị mắc bệnh hen suyễn nặng và bị người cha nuôi lợi dụng bóc lột. Mừng tham gia vào "Vệ quốc đoàn" (Đội thiếu niên trinh sát) chỉ vì trong sân huấn luyện có lá tầm gửi để chữa hen suyễn cho mẹ. Sau khi gia nhập Mừng lập chiến công dẫn đường cho các chiến sĩ đi đánh "ngôi lầu kiên cố của thằng thực dân cáo già Lơ-bơ-rít". Mừng nhờ người đưa lá tầm gửi về cho mẹ rồi tiếp tục theo bộ đội rút lên chiến khu, tại chiến khu em làm liên lạc. Mừng phát hiện âm mưu ăn cắp bản đồ của Kim điệu - gián điệp của quân đội Pháp trà trộn vào chiến khu. Mừng cố ngăn chặn nhưng không được và bị cả chiến khu nghi là Việt gian. Em hy sinh khi giúp bộ đội giật bom giết địch lúc quân Pháp siết chặt vòng vây vào chiến khu Hòa Mỹ. Em được minh oan và đã lấy tên em và mẹ em cho một ngọn núi: "núi mẹ con em Mừng".

Bình luận (0)
Trần Hải Việt シ)
Xem chi tiết
Kudo Shinichi
13 tháng 2 2022 lúc 13:52

Tk

Nhưng nó không thật, vì đây không phải một cuốn tự truyện, nó được tác giả xây dựng nên từ những sự việc có thật, bằng tài hoa bằng ngòi bút của mình đưa người đọc trở về thời chiến một cách sinh động, tự nhiên, sinh động nhất, để rồi các bạn tự hỏi bản thân rằng câu chuyện kia có thật , Vịnh sưa là ai, Mừng là ai.

Bình luận (1)
Phạm Trí Anh
Xem chi tiết
Phạm Trí Anh
14 tháng 5 2021 lúc 21:40

Mùa 2 sẽ ra mắt vào Thứ sáu tuần sau!

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa
Hello Kity
Xem chi tiết
Kudo Shinichi
8 tháng 10 2017 lúc 11:08

Một tuần trước ngày Huế nổ súng kháng chiến, dân trong thành phố được lệnh tản cư hết về các vùng quê. Nhưng qua mấy ngày đầu đánh nhau, tin tức thắng lợi từ Mặt trận đưa về dồn dập. Tin thắng lợi một đồn mười, mười đồn trăm, nên đồng bào chắc mẩm tụi Tây sắp đầu hàng đến nơi rồi. Do đó, không ai bảo ai, mon men kéo dần về phía thành phố. Họ nóng lòng sốt ruột được mau mau trở về dọn dẹp lại nhà cửa, phố xá, trở về với công việc làm ăn thường ngày.

Cuối cùng họ tụ tập lại đông đúc phía bên này cầu Bao Vinh. Bên kia cầu thuộc khu vực mặt trận A, ai muốn sang phải có giấy phép của Ban chỉ huy Mặt trận cấp.

Như đã thành lệ, tờ mờ sáng là đồng bào túa hết ra đường, kéo đến đứng chen chúc ở đầu cầu, chờ nghe tin tức thắng lợi của Mặt trận đêm qua. Họ chen lấn, ùn ùn mỗi lúc một sát đến chỗ bậc đá bước lên cầu. Nếu không có anh Vệ Quốc Quân cầm ngang khẩu súng trường dài như cây sào chăn vịt đứng gác ngay trước mặt, chắc cả khối người chen chúc này đã tràn qua bên kia cầu như nước vỡ bờ.

Ðồng bào nhao nhao hỏi anh lính gác:

-Ðêm qua quân ta mần ăn có khá không anh?

-Nện tụi Tây ở vị trí mô mà súng, lựu đạn nổ như rang bắp cả đêm rứa?

-Liệu tụi hắn sắp sửa "hô-lê-manh" chưa, cho bà con về dọn dẹp nhà cửa, phố xá?

Bị bà con hỏi tối tăm mặt mũi, anh lính gác chỉ còn biết nhăn nhó đề nghị:

-Xin bà con đứng xê xê ra cho tôi một chút! Ðứng sát vô tui ri còn biết gác xách làm răng?

Sáng hôm đó, từ trong đám đông chen chúc ồn ào ấy, có thằng bé lợi dụng đúng lúc anh lính gác còn mải nhăn nhó đề nghị với đồng bào, luồn ra sau lưng anh và chạy tót sang bên kia cầu. Anh chưa kịp quát gọi lại, nó đã mất vào dãy phố kê đầu cầu bên kia.

Không thể bỏ trống chỗ gác để đuổii theo, anh chỉ còn biết dậm chân dậm cẳng, làu bàu bực tức:

-Con cái nhà ai mà nghịch hơn quỉ!

Có mấy đứa bán kẹo gừng, đậu phộng rang cũng lấp lõm định bắt chước chú bé vừa rồi, nhưng anh lính gác đã nhanh tay tóm cổ áo lôi lại hết.

Một thằng bán kẹo gừng, mắt lác thiên lác địa, trề môi nói với đứa bạn vừa bị tóm cổ lôi lại:

-Tụi bay không bắt chước nổi thằng ni mô! Hắn lanh hơn chuột nhắt. Chơi trốn tìm, ù mọi, thả đỉa ba ba... với hắn chỉ có thua. Ðừng hòng mà sờ được vào ngừơi hắn.

-Răng mi biết?

-Tao chơi mãi với hắn còn lạ chi.

-Hắn khoe từ hôm nổ súng, hắn đã tót được qua khu vực Mặt trận ba, bốn lần.- Chú bé bán đậu phụng rang nói chen vào

Hắn lọt qua bên đó làm chi?

-Coi chơi!

-Hắn có kể chuyện chi hay không?

-Khối! Nhưng thú nhất là sáng mô hắn cũng gặp một toán Vệ Quốc Ðoàn mà chỉ nhỏ bằng tụi ta thôi, nhiều đứa còn nhỏ hon. Toán ni chạy dọc theo bờ sông, tập quân sự một hai, tập ném lựu đạn, bắn súng...vui ghê lắm. Hắn đứng coi mà thèm rệu cả nuớc miếng!

-Vệ Quốc Ðoàn mà chỉ nhỏ bằng tụi ta thì đánh tây răng được? Hay là hắn nói láo?

-Răng không đánh được? - Thằng bán đậu phụng rang vênh mặt lên nói. - Chánh phủ cứ thử lấy tau vô Vệ Quốc Ðoàn coi, có chết cha tụi Tây không?

Thằng bán kẹo gừng mắt lác cười ngạo:

-Lấy mi vô Vệ Quốc Ðoàn thì thà lấy tau còn hơn! Tau chẳng cần súng đạn gì hết - Nó rút trong túi quần ra một cái súng cao su, kéo căng hai sợi chun. - Có cái ni, tau nhắm trúng mắt tụi Tây, tụii Vê-giê* tau nẻ. Cha con hắn tha hồ mà mù.

* *


Toán "Vệ Quốc Ðoàn con nít" lúc này đang nối nhau thành hàng một, rầm rập lên phía cầu Ðông Ba cũ.

Chạy dẫn đầu là anh Vệ Quỗc Quân chỉ huy. Anh trạc hai ba, hai bốn tuổi, dáng người tầm thước, vai rộng ngực nở, tóc búi kiểu móng lừa, cổ đeo lủng lẳng chiếc còi mạ kền sáng loáng. Sáng hôm đó trời lạnh cắt ruột, anh chỉ mặc độc chiếc may ô trắng và quần đùi xanh ống bó sát đùi

Còn toán trẻ ăn mặc tạp nham. Quá nửa mặc áo quần Vệ Quốc Ðoàn sửa ngắn lại. Nhiều đứa bơi trong những chiếc áo trấn thủ rộng nhu áo thụng tế. Có đến hơn chục đứa nai nịt "xanh-tuya-rông" da, có khoá đồng to tướng và đeo cả bao đạn. Có trời biết được trong những cái bao đạn sứt sẹo, méo mó ấy, chúng ních nhét những gì!

Dãy phố ven đường cửa đóng then cài kín mít. Đồng bào khu vực này đã tản cư hết từ đêm đầu kháng chiến. Hàng chục con chó lạc mất chủ, họp thành đàn chạy loăng quăng trên đường, tranh nhau ngửi bới các đống rác kiếm ăn. Con nào con ấy hai hông lép kẹp, xương sườn nhô cao như vừa nuốt hàng chục chiếc cạp rổ vào bụng.

Khi toán trẻ rầm rập chạy qua, lũ chó sợ hãi, tán toạn. Chúng chuồn hết vào các hẻm phố, chõ mõm ra sủa váng. Bọn trẻ dậm chân, vỗ đùi, doạ lại lũ chó.

Con đường ồn ào hẳn lên trong chốc lát.

Lên đến cầu Đông Ba cũ, anh chỉ huy thổi một hồi còi dài lảnh lói. Toán trẻ dừng lại. Nhiều đứa nghịch ngợm vờ mất đà đâm chúi vào lưng đứa chạy trước...

-Tập hợp ba hàng dọc! - Anh chỉ huy quay lại dõng dạc hô

Toán trẻ lập tức trở lại trật tự. Loáng một cái chúng đã sắp thành đội hình ba hàng dọc, với tư thế rất nghiêm chỉnh.

-Điểm số

Đáp lại tiếng hô anh chỉ huy, những đứa dừng ở hàng dọc bên trái, nối tiếp nhau đếm to như hét : Một! Hai! Ba! Bốn! năm! Sáu! Bảy! Tám! Chín! Mười!...Hết.

-Ơ...ơ...Dạ chưa hết...Mười một! - Một đứa đứng lẻ ra một mình ở cuối đội cuống quýt kêu toáng lên. - Báp cáp anh, em bị lẻ hàng ạ!

_Lẻ là thế nào? - Anh chỉ huy hỏi vặn lại, như hoàn toàn không tin cái chuyện vô lý đó. - Toàn đội chúng ta có ba mươi em, tập hợp thành mười hàng ba, làm sao lại lẻ được.

-Dạ rứa mà em bị lẻ thiệt ạ. - Thằng bị lẻ hàng nhớn nhác nhìn ngược nhìn xuôi, nhăn nhó, bối rối trả lời.

-Các em kiểm tra lại xem có hàng nào đứng hai không? - Anh chỉ huy như vẫn tin chắc rằng đây chỉ là trò nghịch ngợm của bọn trẻ mà thôi.

Nhưng cả đội sau khi nhốn nháo kiểm tra hàng ngũ, đồng thanh trả lời:

-Báo cáo anh, hàng mô cũng đứng đủ ba cả ạ!

Anh chỉ huy rời chỗ đứng, đi dọc xuống phía dưới, đưa mắt kiểm tra từng hàng một, miệng lẩm bẩm:

-Quan số dội đang ba mươi bỗng hoá ra băm mốt là nghĩa lý gì?

Nhưng chính anh cũng đam ngơ ngác. Đứng là hàng nào cũng đứng đủ ba và cuối đội vẫn lẻ ra một đứa

Anh liền đi ngược trở lên, soát kỹ lại lần nữa. Kết quả anh lôi được một thằng lạ hoắc, không biết từ đâu chui ra đứng lọt vào giữa đội.

Cả đội trợn tròn mắt kêu lên: Ủa!

Hai đứa đứng cùng hàng với thằng bé lạ hoắc này, há hốc mồm vì quá sửng sốt:

-Uơ trời! Rứa mà từ nãy tới chừ tố cứ tưởng hắn là thằng Hoà-đen! Nước da hắn cũng đen thui có khác chi anh Hoà-đen nhà mình mô các cậu

Cái đứa có tên là Hoà-đen đứng cách dố hai hàng, nghe vậy liền cau mặt , nói với lên:

Một đứa đứng bên trái vẻ mặt liến láu, đưa tay vuốt vuốt ngực Hoà-đen ngoác miệng ra cười:

-Đưa ta vuốt bớt cục tự ái xuỗng cho. Hề, hề, hề...đen vừa vừa hay đen thui thì cũng là họ "cột nhà cháy" cả thôi mà.

Thằng bé lạ hoắc chui bừa vào hàng ngũ đội, chính là cái thằng luồn sau lưng anh lính gác, tót qua cầu Bao Vinh lúc nãy. Nó cũng trạc tuổi Hoà-đen, vóc dáng cũng sàn sàn, nhưng nước da, của đáng tội, có đen hơn tý chút, Hoà-đen tự ái kể cũng phải. Cách ăn mặc nó cũng kém xa Hoà-đen. Hoà-đen diện quân phục với áo trấn thủ rộng như áo tế, còn thằng này đánh độc cái áo cộc nâu ngắn hở cả rốn với cái quần đùi xanh bạc phếch, đít vá hai miếng to tướng.

Anh chỉ huy nắm chặt cánh tay nó kéo lại sát trước mặt, hỏi to gần như quát:

-Em ở đâu? Tên là chi? Sao dám cả gan chui bừa vào hàng ngũ Vệ Quốc Đoàn?

Thằng bé sợ hãi cúi mặt nhìn xuống đường, bàn chân di di một hòn đất, trả lời lý nhí trong cổ họng, chẳng ai nghe được gì. Anh chỉ huy sốt ruột không muốn mất thì giờ thêm, bỏ tay nó ra, nghiêm mặt nói:

-Em phải ra ngay khỏi khu vực này. Đây là khu vực Mặt trận em nhớ chưa?

Anh quay lại nói với cả đội

-Các em thật lơ là, vô ý thức. Có một kẻ lạ mặt chui vào hàng ngũ mà chẳng hay biết gì hết

Cả đội thì thào hỏi nhau

-Không biết hắn lọt vô giữa đội mình lúc mô mà tài rứa hè?

-Chắc cái lúc tụi mình còn mải trêu chọc lũ chó

-Thằng ấy chui cổng rạp hát rạp xiếc chắc bợm phải biết

-Tớ cho hắn chơi cú ấy được. Tớ là tớ phục đó! - Cái đứa có bộ dạng liến láu vừa trêu chọc Hoà-đen lúc nãy, vừa nói vừa gật gật đầu

2

Anh chỉ huy thổi một hồi còi dài, cắt đứt tiếng thì thào bàn tán. Anh đứng nghiêm, nói

-Anh báo trước để các em biết, khoa mục tập hôm nay hơi khó, đòi hỏi các em phải gan dạ, bình tĩnh. - Anh cao giọng hỏi to. - Trong đội ta có em nào chưa biết bơi, đưa tay lên anh xem?

Không một đứa nào giơ tay. Trẻ con sinh ra và lớn lên bên bờ sông Hương, không biết bơi lặn là chuyện hiếm

-Tốt lắm. - Anh gật đầu. - Khoa mục tập hôm nay là nhảy từ trên thành cầu xuống sông. - Anh đưa tay chỉ lên cái thành cầu sắt sơn đen, ngay phía trên đầu bọn trẻ.

Cả đội nhìn theo tay anh chỉ. Tất cả cùng rụt vai, lắc đầu lè lưỡi

-Đội trưởng chơi cú khoa mục ni coi bộ gay go đây!

-Cao đến ba mét chứ không ít!

-Ba mét răng được! Xoàng xoàng cũng phải năm mét

Bọn trẻ nhớn nhác hết nhìn xuống sông lại nhìn lên thành cầu, ước lượng chiều cao sắp phải nhảy.

Cả đội nhảy qua các bậc đá xây, chạy lên cầu. Vẫn không quên nghịch ngợm, chúng dẫm chân thật mạnh, làm cho ván cầu kêu rầm rầm.

Mưa phùn đã tạnh, nhưng gió lạnh vẫn thổi từng cơn không ngớt. Bọn trẻ cởi áo quần vắt lên thành cầu. Tất cả rét run, nổi hết da gà. Chúng đứng nép sát vào nhau, miệng suýt xoa như ăn ớt, hai tay vòng lên ôm cổ, lưng cong lại như lưng tôm.

Đội trưởng troà đứng lên cái cột bê tông giữa cầu, quay lại nhìn cả dội, nghiêm mặt nói:

-Tất cả các em đứng thẳng lên! Bỏ hai tay ra khỏi cổ. Hiên ngang lên anh xem nào? Đàng hoàng là những Vệ Quốc Quân sắp ra trận giết giặc cứu nước mà sợ gió, sợ lạnh à! Thế thì trước bom đạn như mưa của giặc, các em sẽ còn sợ đến mức nào? Các em có muốn mang tiếng là những chiến sĩ hèn nhát không?

-Không ạ! Không ạ! - Cả đội nhao nhao trả lời. Tất cả lập tức đứng thẳng người, miệng thôi xít xoa. Có đứa còn làm bộ hiên ngang, ngực ưỡn ra, bụng thót lại, tay khuỳnh khuỳnh chống nạnh. Nhìn bộ điệu chúng, anh chỉ huy mặt đang nghiêm thế mà phải bật phì cười. Anh rất hiểu, đối với các chiến sĩ nhỏ tuổi của mình, không có lời động viên nào hiệu quả bằng chạm đến lòng tự trọng. Anh nói tiếp:

- Khoa mục hôm nay tuy khó nhưng các em phải gắng tập cho được. Trong hoàn cảnh địa hình chiến đấu của thành phố Huế chúng ta, rất có thể các em sẽ gặp trường hợp phải nhảy từ những vị trí rất cao xuống sông. Do đó, chúng ta cần phải tập trước cho quen. Các em chú ý, xem anh nhảy thị phạm rồi các em tiếp tục nhảy theo sau

Anh quay mặt ra sông, đứng thẳng tắp trên cột trụ như pho tượng trên bệ, hai cánh tay đưa thẳng trước mặt, đôi cẳng chân vạm vỡ săn chắc những bắp thit, khẽ nhún nhún rất dẻo. Anh tung người lên cao. Thân hình anh như một mũi tên bay chênh chếch xuống sông, cắp phập vào làn nước xanh ngăn ngắt, lăn tăn gợn sóng. Cả đội chồm hết lên thành cầu nhìn theo. Chúng chặc chặc lưỡi trầm trồ:

-Đội trưởng "lông-giông" * tuyệt đẹp bay hè

-Còn phải nói trước đây anh từng làm "săm-pi-ông" * bơi của Huế mình mà!

Dưới sông, đội trưởng đã trồi đầu khỏi mặt nước. Anh đưa tay vuốt vuốt mặt, nhìn lên cầu giục:

-Nào các em nhảy đi! Em nào bị chuột rút đã có anh cứu.

Bọn trẻ đứa nọ đùn đứa kia:

-Cậu nhảy trước đi!

-Thì cậu nhảy trước đi!

-Thành cầu chật ri đứng nhảy một lần răng được

Nhưng rồi chẳng đứa nào dám nhảy trước. Mấy đứa trèo lên thành cầu lại tụt xuống, lè lưỡi:

-Ngợp quá! Cứ như là đứng trên nóc lầu chợ Đông Ba mà nhảy xuống ấy

-Đội trưởng bày ra chi ra cái khoa mục gay go ri không biết!

-Xê ra, xê ra! - Cái thằng có bộ mặt liến láu ban nãy trêu chọc Hoà-đen đưa tay gạt các bạn ra hai bên, làm điệu bộ hăng hái trèo lên thành cầu. - Không cậu mô dám nhảy thì để tớ nhảy trước cho coi, rồi gắng mà bắt chước nghe! Khó cóc chi mà cứ kêu là khó!

-A, a, anh Tư-dát lại dám xung phong nhảy trước! Chuyến ni e trời sập cái rầm mất thôi. - Cả đội reo ầm lên

-Anh Tư-dát chuyến ni nhảy được, nhất định tụi mình phải đổi tên là Tư-gan.

-Nhưng gan chi mới được chứ?

-Gan thỏ!

Mặc cho các bạn trêu chọc, Tư-dát mặt vẫn phớt tỉnh. nó đã đứng thẳng lên được trên cái trụ đội trưởng vừa đứng, hai đầu gối va nhau lập cập. Nó nói với các bạn, đầu không ngoái lại:

-Anh em mở to mắt mà coi tài lão gia!

Tư-dát làm điệu bộ in hệt đội trưởng. Hai tay cũng đưa thẳng ra đằng trước, bộ dò như hai ống sậy cũng nhún nhún khá dẻo. Nhưng đội trưởng chỉ nhún vài cái, còn nó thì nhún liền tù tì hàng chục cái, làm các bạn nhìn theo hoa cả mắt.

Tư-dát bất thình lình hô to.

-Hai...ba! Này!

Nó hô dõng dạc đến nỗi làm cho cả đội tưởng là nó đang lao xuống sông. Nhưng bất ngờ nó ngồi thụp xuống cột cầu, nghẹo đầu, méo mồm, trợn mặt làm trò hề. Cả đội bị mắc lỡm ôm bụng cười bò. Hình như cả đội đã quá quen với những trò đùa của Tư-dát.

Đội trưởng chạy lên cầu, hỏi to:

-Em nào dám xung phong nhảy trước làm gương cho cả đội anh xem nào?

Cả đội thin thít đưa mắt nhìn nhau. Cái vinh dự "nhảy trước làm gương cho cả đội" xem ra đứa nào cũng thèm. Nhưng cứ nhìn từ thành cầu xuống sông, cặp dò chúng đã bủn rủn.

Đội trưởng gặng hỏi:

-Không em nào dám nhảy à?

-Dạ em! Em xin nhảy

Cả đội quay lại. Thật không ngờ. "Em xin nhảy" lại chính là thằng bé lạ hoắc chui bừa vào hàng ngũ đội lúc nãy. Nãy giờ nó vẫn chưa chịu đi mà lén trèo lên cầu, đứng co ro ở lề cầu bên kia, tò mò theo dõi buổi tập.

Với vẻ sợ sệt, lo lắng, vừa nói nó vừa hấp tấp bước sang lề cầu bên nay. Không đợi đội trưởng có đồng ý hay không, nó bíu tay trèo phắt lên thành cầu.

-Ai mượn mà cũng làm trạng!...

-Tau đó dám nhảy!

-Chắc lại nhảy kiểu Tư-dát chớ chi!

Như không thèm để ý đến tiếng xì xào khích bác của cả đội, nó đứng thẳng trên thành cầu, quay lại nói với đội trưởng, giọng khẩn khoản:

-Em mà nhảy được, anh cho em vô đội với anh hỉ!

Nghe giọng nói và nhìn vẻ mặt nó, cả đội liền hiểu ngay nó sẽ nhảy thật! Chúng bỗng thấy xấu hỏ và tự ái ghê gớm. Để cho một thằng không biết từ xó xỉnh nào chui ra, đòi nhảy trước làm gương thì thật xấu hổ cho cả đội!

Còn thằng bé không kịp biết đội trưởng có ưng thuận hay không, quay mặt luôn ra sông, nhún khẽ hai chân một cái, và bay thẳng xuốn sông. Đội trưởng buột miệng khen:

-Chú này nhảy khá lắm!

-Ui trời! - Nhiều tiếng kêu sửng sốt. - Nó nhảy mà vẫn để nguyên cả quần áo tề!

Mặt sông xanh biếc. Lăn tăn sóng, đón lấy nó, nhẹ nhàng, thân thuộc, chứ không ầm ĩ như đón những anh mới tập nhảy. Thân hình nó uốn cong, luồn sâu xuống nuwóc và nổi lên rất nhanh. Nó lắc lắc đầu giũ nước, khoắt tay bơi lượn vòng, ngửa mặt nhìn lên cầu và bất ngờ toét miệng cười. Cả đội ức quá, đau giẫy lên như bất thình lình bị ai quất roi mây vào mông.

Thế là quên hết sợ hãi và chẳng cần ai dục, chúng ào ào trèo lên thành cầu thi nhau hét to:

-Hai..ba...này! - Rồi lao ầm ầm xuống sông.

Trên cầu lúc này chỉ còn trơ lại một mình Tư-dát. Vẻ liến láu đã biến đi đâu hết. Nó hết nhìn xuống sông lại nhìn lên thành cầu, điệu bộ luống cuống như gà mắc tóc. Đội trưởng nhìn nó mỉm cười, nhẹ nhàng hỏi:

-Thế nào? Chẳng lẽ em định đeo mãi cái tên Tư-dát sao?

Tư-dát vụt đứng thẳng người, nhìn đội trưởng nói to:

-Dạ không! Lần này em nhất định đổi được cái tên Tư-gan-cóc-tía! Rồi nó trèo phắt lên thanh cầu.

Và chẳng cần nhún nhiếc gì hết, nó nhắm mắt nhắm mũi, nhảy

bừa xuống sông.

Bọn trẻ đang bơi lội ì oạp, hò nhau tránh dạt ra hai bên để Tư-dát khỏi nhảy trúng lên đầu. Chúng reo vang cả mặt sông:

-A...a...Anh Tư-dát nhảy dù! Anh Tư-dát nhảy dù

Tư-dát nhảy không chúc đầu mà hai chân xuống trước. Nó rơi đánh ùm như quẳng xuống sông cả hòn đá tảng. Nước vọt lên đến gần thành cầu. Nó chìm nghỉm khá lâu mới thấy nổi lên. Các bạn bơi xúm lại quanh nó, mừng rỡ nói

-Ui chao! Cậu làm tụi tớ hết cả hồn...Tưởng cậu đứt hơi ở luôn dưới đó

Tư-dát thở lấy thở để, khạc khạc nước, hổn hển nói:

-Vừa lặn xuốn đáy sông tớ gặp ngay một anh cá gáy to bằng hai bàn tay xoè. Anh ta lượn qua trước mặt tớ, quyệt cả đuôi vô trán. Tớ rượt theo chụp luôn. Chụp năm sáu cú liền, một cú trúng đuôi, một cú trúng vây, hai cú trúng đầu! Rứa mà anh ta vùng thoát được hết! Tiếc quá, không thì trưa ni đội ta được bữa cháo cá lu bù

Nhiều đứa bị sặc nước phì cười

3

Đội trưởng thổi còi báo xong buổi tập. Cả đội bơi vào bờ, rầm rập chạy lên cầu, vơ vội quần áo mặc vào người. Lúc này tất cả mới thấm lạnh. Đứa nào đứa nấy run cầm cập. Chúng nghiêng đầu nhảy cho nước trong tai chảy ra. Ván cầu kêu rầm rầm.

Đội trưởng hô đội tập hợp ngay trên cầu, nhận xét buổi tập. Riêng thằng bé lạ hoắc chui bừa vào hàng ngũ đội, một mình đứng nép vào lề cầu bên kia. Nó cởi quần áo ướt sũng, vắt khô nước rôi giũ phơi lên thành cầu.

Đội trưởng hỏi:

-Em ban nãy đâu rồi?

-Dạ, em đây a. - Nó cầm cái quần cộc đang vắt dở hấp tấp chạy sang, đứng khép nép trước mặt đội trưởng.

Cả đội trố mắt nhìn nó, phá lên cười. Nhiều tiếng xì xào:

-Cậu ni vô phép quá! Ai lại đi ở lỗ ở truồng mà nói chuyện với cấp chỉ huy!

Lúc này nó mới chợt nhớ ra. Nó giũ giũ cái quần ướt xỏ chân vào. Nhưng vì vội và cuống, chú xỏ hai chân vào một ống quần, và ngã chổng kềnh xuống ván cầu. Đội trưởng cũng phải phì cười, cúi xuống đỡ nó dậy, ôn tồn nói:

-Không sao, cứ ở truồng thế cũng được. Đừng mặc quần áo ướt mà lạnh. Anh quay sang hỏi cả đội:

-Có em nào mặc hai áo hai quần, cởi cho em này mượn bớt một.

Lập tức có hơn chục em cởi áo, quần chạy lại dúi vào tay nó.

Nó đứng sững, đưa cả hai tay ôm đầy một ôm áo quần, mặt ngẩn tò te. Tư-dát nhanh nhẹn bước ra khỏi hàng, đến ôm đỡ quần áo cho nó, vừa cười vừa nói:

-Để lão gia giúp cho một tay, chứ coi bộ dạng chú mi chư quen diện loại "com-lê" hảo hạng ni mô.

Tư-dát vắt cả đống áo quần lên thành cầu: Cầm từng chiếc một ướm thử vào người thằng bé. Chiếc nào coi bộ không vừa, Tư-dát vo viên ném trả lại đứa cho mượn. Chọn hết cả ôm mới được hai cái áo và một cái quần tạm vừa người chú. Tư-dát nói, giọng anh nạt yêu em:

-Mặc ngay bộ "com-lê" ni vô không thì lạnh sưng phổi chết bây giờ. Ai bảo nghịch cho lắm!

Tư-dát vừa giúp nó mặc áo quần vừa méo mồm trợn mắt làm trò hề, chọc cười các bạn.

Khi áo quần coi bộ đã tươm tất, đội trưởng hỏi nó:

-Em tên là gì?

-Dạ, em tên Mừng

-Em mấy tuổi

-Dạ, mười hai.

-Nhà em ở mô?

-Dạ, ở dưới Bao Vinh tê...

-Rứa cha mẹ em làm nghề chi?

Mừng ngắc ngư một tý, rồi lý nhí trả lời

-Dạ...em không có cha mẹ...

Đội trưởng chăm chú nhìn em, ngạc nhiên hỏi.

-Không có cha mẹ thì em ở với ai

Mừng cúi mặt như cố tránh cái nhìn của anh, giọng ngập ngừng:

-Dạ... em đi ở giữ em,...

-Chủ nhà hay đánh chửi em lắm phải không?

-Dạ...

-Thế em có biết đội này làm công việc chi không mà xin nhập?

Mừng ngây người nhìn anh.

-Dạ...dạ...làm...làm...- Chú đưa mắt nhìn cả đội, như muốn nói: "Các anh bày giúp cho tui với"

Nhiều em bỗng thấy thương hại Mừng, thì thào nhắc:

-Làm trinh sát...Làm trinh sát...

Đội trưởng đưa tay ra hiệu không được nhắc.

Như mở cờ trong bụng, Mừng vội vã đáp

-Dạ, làm khinh sát!

-Làm chi?

-Dạ làm khinh sát ạ.

Trong hàng có tiếng càu nhàu:

-Nhắc một đàng quàng một nẻo. Làm khinh sát là làm cái cóc khô chi

Trên moi đội trưởng thoáng nụ cười. Anh nói:

-Thôi được. Nếu quả đúng là em không còn cha mẹ nữa, thì anh đồng ý cho em gia nhập đội. Đội chúng ta không phải làm khinh sát, mà trinh sát. Đội Thiếu niên trinh sát Trung đoàn Trần Cao Vân. Công việc của người đội viên trinh sát, sau này em sẽ được học. Có điều chắc chắn nhất là nay mai đội chúng ta sẽ được ra Mặt trận cùng với các anh lớn, đánh Tây. Em có thích đánh Tây không?

Mừng mắt sáng lên, hăm hở đáp:

-Dạ thích lắm!

-Tại sao thích?

câu hỏi cắc cớ này mới càng khó trả lời. Mừng ngập ngừng ấp úng mãi. Rồi bất ngờ, chú ngẩng nhìn đội trưởng trả lời khá rành rọt:

-Dạ...dạ...vì tụi Tây hay đá đít người mình.

Cả đội trợn tròn mắt nhìn nó, cứ ngờ là nó nói giỡn. Nhiều em đỏ bừng mặt vì cố nhịn cười. Đội trưởng cũng cố nhịn cười, hỏi:

-Thế em đã trông thấy Tây đá đít ai bao giờ chưa?

-Dạ có chớ! ở xóm em có bác Húng là cha cậu Ngò chơi thân với em. Bác ấy làm ngề kéo xe. Một bữa, có thằng Tây râu ria xồm xoàm, to chình inh như con bò, thuê xe bác ấy từ ga lớn đến cầu An Cựu mà chẳng trả được cho bác ấy một xu. - Nét mặt Mừng lộ vẻ tức tỗi - Đã rứa hắn lại còn đá giày vô đít bác ấy, chửi "cô-soong, cô-soong"* bác ấy ngã dúi, va đầu vô cột điện, loã máu.

Bác ấy phải nằm liệt giường, không đi kéo xe được. Rứa là cả nhà cậu Ngò bị đói...

Đội trưởng quay sang hỏi cả đội:

-Theo các em, Mừng trả lời đúng hay sai?

-Dạ, sai, sai!

-Sai toét!

-Em nào trả lời đúng, thử nói anh nghe xem nào?

Một chú đứng ở hàng thứ hai, giơ tay rồi đứng nghiêm, trả lời như đọc bài học thuộc lòng:

-Em đánh Tây vì chúng là bọn thực dân cướp nước. Hơn tám mươi năm chúng đã đô hộ nước ta, gây bao cảnh lầm thanh đói khổ...

Đội trưởng ngắt lời...

-Em định đọc hết cả bài học chính trị vừa học đêm qua có phải không? Theo anh, em Mừng trả lời không những không sai mà còn rất hay! Tụi Tây là một tụi hết sức tàn ác và láo xược. Đã đi xe quỵt lại còn đá đít cả người kéo xe! Các em phải biết lấy đó làm điều căm tức để nay mai ra trận càng thêm dũng cảm, hăng hái cùng với các anh nện chúng thật đích đáng để trả thù cho bác Húng và còn biết bao nhiêu đồng bào ta bị chúng ức hiếp. Chúng ta nhất định phải tống cổ hết chúng nó về nước, để người Việt Nam ta không còn bị chúng hành hạ nữa.

Mừng mở to mắt nhìn đội trưởng có vẻ như chưa dám tin là anh khen minh thật. Còn cả đội, sau khi nghe đội trưởng nói rõ thêm ý nghĩa câu trả lời của Mừng, đều cảm thấy tức tụi Tây thực dân ứa máu

-Cố tổ chúng nó chứ! - Nhiều em thầm rủa. - Đã đi xe quỵt không biết nhục lại còn chửi người ta "cô-soong" với đá đít người ta làm loã đầu chảy máu!

Đội trưởng hỏi Mừng:

-Thế em có thể làm được gì để đánh Tây?

-Dạ, bơi ạ. - Mừng hăm hở trả lời.

-Tốt lắm, tài bơi lặn của em thì anh và các bạn đã được trông thấy rồi đấy. Ngoài bơi ra em còn biết làm gì nữa?

-Dạ trèo cây ạ! Cây cao mấy em cũng trèo được!

-Rất tốt, trèo leo là một môn rất cần cho người chiến sĩ trinh sát.

-Dạ nấu cơm ạ!

-Nấu cơm cũng rất cần. Mỗi người chiến sĩ đều phải biết tự nấu lấy ăn lúc cần thiết...

-Dạ..dạ em còn biết bồng em ạ...

-Hơ hơ hơ... - Tiếng Tư-dát cười to. - Hắn bồng em giỏi rứa, nay mai ra trận hễ bắt được thằng tù binh mô là giao ngay cho hắn bồng về nộp cấp chỉ huy!

Mừng tưởng Tư-dát nói thật, lo lắng nói với đội trưởng:

-Nhưng thằng Tây to rứa em sợ bồng không nổi...

-To cũng phải bồng! To cũng phải bồng! Ai khiến cậu khai là biết bồng em làm chi! - Cả đội cười ngất, nhao nhao hét to trêu Mừng.

Đội trưởng xua xua tay, mặt nghiêm lại nói:

-Các em không nên cười. Người chiến sĩ trinh sát cần phải biết bồng em và làm bất cứ việc gì để giúp đỡ nhân dân.

Mừng được đội trưởng khen, đã trở nên hoạt bát mạnh dạn hơn. Nó nhăn nhăn trán, cố nhớ xem mình còn có thể làm được gì nữa. Nó mang máng đoán rằng, nếu mình càng làm được nhiều việc thì cấp chỉ huy càng dễ cho nhập đội.

-Hết rồi phải không? - Đội trưởng đặt tay lên đầu Mừng mỉm cười hỏi.

-Dạ...dạ còn...

-Còn thì kể đi

-Dạ, chọi dế ạ.

Cả đội lần này phải bò lăn ra ván cầu mà cười. Tư-dát gò lưng ôm bụng cười ngắt ngắt không thành tiến, chảy cả nước mắt nước mũi. Nó nói đứt quãng qua tiếng cười:

-Ối, ối, ối...hắn làm tớ đến đứt ruột mà chết mất thôi các cậu ơi! Ối, ối, ối...

Đội trưởng cũng cười ngất, xoa đầu Mừng hỏi:

-Chú mình chọi dế có khá không?

-Dạ nhứt hạng ạ! Dế em đã lên đài là hạ đo ván hết tất cả dế của tụi bạn em trong xóm!

-Thế thì cho em được sắp vào hàng. Bắt đầu từ giờ phút này trở đi, em được chính thức công nhận là đội viên đội Thiếu niên trinh sát Trung đoàn Trần Cao Vân. Em nhớ chưa?

-Dạ, nhớ rồi ạ! - Mừng đáp như reo, rồi chen luôn vào đứng ở giữa hàng. Có lẽ nó cho rằng có đứng chính giữa như vậy mới chắc chân trong đội

Doanh trại đội Thiếu niên trinh sát là một ngôi lầu hai tầng kiểu biệt thự, xung quanh có hàng rào sắt bao bọc. Hai cánh cổng sắt đồ sộ mở ra trước cái sân rộng, rải sỏi. Đằng sau là một khu vườn lớn, um tùm những tán cây cổ thụ.

Về đến doanh trại, đội trưởng gọi Mừng vào phòng làm việc. Anh hỏi rõ họ tên nó để ghi vào sổ quân tịch.

-Em họ chi?

-Dạ...dạ em tên Mừng.

-Tên thì anh biết rồi, anh muốn hỏi họ em kia?

Mừng đứng ngẩn nhìn anh ngắc nga ngắc ngứ một lúc rồi đáp:

-Dạ...dạ họ chi chi ấy...

-Họ chi chi là họ gì mới được chứ? - Đội trưởng lạ lùng nhìn nó. - Trần hay Lê, hay Nguyễn, hay Đặng.

Miệng hơi há ra, nó hết nhìn đội trưởng lại nhìn cuốn sổ to giấy trắng mở rộng trước mặt anh. Mỗi lần có ngọn gió lạnh từ ngoài cửa sổ lùa vào, các trang giấy phần phật như cánh con chim trắng vỗ muốn bay.

-Thế nào? Em đã nhớ ra họ gì chưa?

Mừng dựa ngực vào mép bàn, mặt nhăn nhó thiểu não. Nó có vẻ nghĩ ngợi lung lắm.

-Dạ...dạ em không có họ, - nó đột ngột nói.

-Sao lại không có họ được hở chú mình? AI có tên mà chẳng có họ?

-Dạ, em không có họ thiệt mà... - giọng Mừng gần muốn khóc. - Cả xóm em, ai cũng gọi em là thằng Mừng, chẳng ai gọi họ em cả...

Lý do không có họ của nó lạ đời chưa! Mấy em đang đứng quanh đó đều bụm miệng cố nhịn cười. Tư-dát cười rung cả người, chạy vụt ra khỏi phòng, rầm rĩ loan báo:

-Các cậu ơi, các cậu ơi! Vô mau buồng của đội trưởng mà coi thằng đội viên mới của đội ta không có họ! Không Trần, không Lê, không Nguyễn, không Đặng, không có cóc khô chi hết a!

Gần nửa đội đang chơi trước sân, bỏ hết các trò chơi, xúm quanh Tư-dát hỏi:

-Hắn không có họ thiệt à? Cậu chỉ bịa thôi?

-Tớ mà bịa thì tớ chết không kịp ngáp! Cậu mô không tin cứ chạy vô mà coi.

-Nhưng tại răng lại không có họ được?

-Tại...tại cả cái xóm Bao Vinh ai cũng gọi hắn là thằng Mừng, không thấy ai gọi họ hắn cả! - Tư-dát ôm bụng cười tưởng muốn đứt hơi. - Hắn nói kể cũng có lý! Đi ra đường, gặp ai họ: ê Mừng! CHứ không thấy ai gọi: ê Lê Mừng, ê Trần Mừng hay ê Đặng Mừng, thì có tài thánh cũng không biết được họ mình là chi!

Thế là tất cả xô nhau chạy rần rần về phía buồng đội trưởng ngồi làm việc. Tư-dát vừa chạy như ngựa tế vừa reo:

-Mau lên các cậu ơi! Mau lên! Chắc chắn đang còn nói nhiều câu tức cười nữa, không nghe được thì tiếc lắm.

Chúng kéo vào đứng vây kín bàn giấy của đội trưởng, vòng trong vòng ngoài. Tất cả chăm chăm nhìn vào miệng Mừng, hồi hộp chờ nó nói thêm những câu tức khác.

Mừng thì vẫn một mực:

-Em nói thiệt... em không có họ...

Gặng hỏi mãi không được, cuối cùng đội trưởng đành phải ghi cụt lủn độc một chữ: Mừng vào cột "Họ và tên". Anh ghie thêm vào cột "bị chú": "Em này lỡ quên mất họ". Rồi anh duyệt lại danh sách các tiểu đội các tổ, xem nên bố trí chú đội viên mới này vào tổ nào. Du - tiểu đội trưởng tiểu đội một, cúi xuống nói thầm vào tai đội trưởng:

-Anh cho Mừng vào tiểu đội em. Tiểu đội em còn thiếu một...

Đoàn - tiểu đội trưởng tiểu đội hai, đứng ở vòng ngoài, chôm người, vít vai mấy bạn đứng trước xuống, nói chen vào:

-Anh Du khôn nghe! Đề nghị đội trưởng bố trí Mừng vào tiểu đội em. Tiểu đội em còn thừa chỗ nắm.

-Được, được! - Đội trưởng gật gật đầu nói - Để anh còn xem đã.

Mấy phút sau anh ngẩng lên nói với Mừng:

- Anh bố trí em vào tiểu đội ba, tổ bốn, do em Vịnh làm tổ trưởng.

Tư-dát tặc tặc lưỡi:


-Tiếc quá, tiếc quá! Đội trưởng mà cho hắn vô tổ tớ thì tớ chỉ cười cũng đủ no, chẳng cần cơm nước chi hết! - Nó ghé vào tai Mừng thì thầm xúi:

-Cậu xin với đội trưởng về tổ sáu của tớ hơn. Tổ tớ vui nhất đội. Đừng dại mà ở tổ bốn của Vịnh-sưa. Cậu ấy là kỷ luật sắt gớm lắm.

Mừng vẫn dựa ngực vào mép bàn đứng im có vẻ chẳng hiểu đầu cua tai nheo ra sao hết. Tư-dát huých huých cùi chỏ vào sườn Mừng giục:

-Cậu xin đi, xin ngay đi!

Vừa lúc đó đội trưởng ngẩng lên gọi:

-Em Tư!

-Có mặt! - Tư-dát rập hai gót chân nghe độp to như tiếng gót giày đinh rập vào nhau, đứng nghiêm ngay lại.

-Em chạy đi gọi em Vịnh vô đây cho anh.

-Có mặt! - Tư-dát đáp to vang cả gian buồng. Nó làm động tác đằng sau quay rất đúng, rất đẹp và nghiêm chỉnh. Và cũng rất bất ngờ, nó giật cái mũ bêrê tím đội trên đầu, tung lên cao đến tận trần nhà, rồi nhảy phốc lên với điệu bộ người giữ gôn bắt bóng, bắt lấy cái mũ, ôm ghì vào ngực và chạy biến ra khỏi phòng

5

Vịnh - tổ trưởng tổ bốn, đang ngồi cạnh bể nước trước cửa nhà bếp, nhặt rau giúp các chị cấp dưỡng. Nó trạc mười bốn tuổi, mặc bộ quân phục màu đất, sửa ngắn lại, với chiếc áo trấn thủ rộng thùng thình. Ngang lưng thắt cái thắt lưng da to bản, một bên hông đeo cái bao đạn da cũ kỹ, méo mó. Nhưng cái khoá thắt lưng và cái nút cài bao đạn bằng đồng được đánh bóng vàng choé; như vàng thật. Đặc biệt hai bàn tay em chẳng có chút gì là bàn tay trẻ con, chúng to, thô, lòng bàn tay đầy chai, và nhiều vết rạn đen trên các móng tay. Đó là bàn tay của những người từng quen công việc nặng nhọc.

Hai hàm răng Vịnh thưa rếch như răng cá voi, nên các bạn trong đội gọi em là Vịnh-sưa.

Cuộc đời của Vịnh-sưa cũng là cuộc đời của khá nhiều đội viên khác trong đội...

Mồ côi cha từ nhỏ, mẹ bỏ đi lấy chồng. Người bác ruột đem nó về nuôi. Bác làm thợ nguội ở nhà máy đèn Huế. Gia đình bác mỗi ngày một thêm túng bấn vì quá đông con, với đồng lương chết đói. Đang học lớp tư, nó phải thôi học ở nhà bồng em, thổi cơm cho bác. Mới chín, mười tuổi đầu, nó đã pahỉ làm việc quần quật suốt từ sáng đén tối. Người bác gái ác nghiệt thường xuyên đánh đập nó chẳng khác gì đứa ở. Bác trai đi làm suốt ngày nên không thấu được hết tình cảnh vợ mình hành hạ đứa cháu nhỏ mồ côi...Còn nó thì cứ nín lặng, sợ bác biết bác buồn, em thương bác lắm. Một lần nó mang cơm trưa đến xưởng cho bác, gặp lúc thằng cai Tây đang cự bác cái gì đó, rồi dang tay tát bác hộc cả máu mũi. Nếu bác không kịp trừng mắt ra hiệu thì suýt nữa nó đã quăng cái cặp lồng cơm vào mặt thằng Tây.

Năm mười một tuổi, bác xin cho nó vào học việc ở xưởng. Nối nghiệp bác, nó học nghề nguội. Bàn tay nhỏ bé của nó biết cầm cái kìm, cái búa, cái dũa... từ đó. Cách mạng tháng Tám thành công: Vịnh-sưa vẫn tiếp tục học nghề ở nhà máy điện. Nhưng bây giờ học nghề vui lăm. Tụi chủ Tây đã bị cách mạng tống cổ đi hết. Bác của Vịnh được bầu vào ban Quản đốc xưởng nguội. Bịnh còn nhớ mãi, hôm bác được bầu, trở về nhà, bác khóc ròng nói với nó: "Ân tình cách mạng to lớn quá cháu ơi! Bác cháu mình cho dù tới chết e cũng không đền đáp nổi!"

Tháng sáu năm 1946, một đơn vị Vệ Quốc Đoàn thuộc tiểu đoàn Tiếp phòng quân, về đóng quân trong khu vực nhà máy. Cũng như bao chú bé khác, gặp dịp may hiếm có này, Vịnh xoắn ngay lấy đơn vị Vệ Quốc Đoàn, và không rời ra nữa. Hễ có phút nào rảnh rỗi là nó từ xưởng máy tót ngay sang với các anh bộ đội. Nó tìm cách giúp các anh những công việc vặt làm vệ sinh doanh trại, tìm giẻ với dầu luyn cho các anh lau súng... Nó còn trổ nghề thợ nguội, chữa giúp các anh bộ phận súng bị hóc. Bàn tay cầm cái dũa, cái cưa sắt, đục sắt... nom cũng ra dáng lắm.

Một hôm, chính trị viên đơn vị đứng ngắm Vịnh-sưa trong bộ quần áo lấm lem dầu mỡ, chăm chú, thận trọng dũa một bộ phận súng bị hóc, tủm tỉm cười nhận xét: "Nhỏ bằng cái đầu đạn rứa mà chú mình nom đã có thớ một tay thợ súng lành nghề". Từ hôm đó, anh gọi Vịnh là "Chú thợ súng nhỏ". Cả đơn vị cũng bắt chước gọi theo.

Dạo đó, đơn vị thiếu một liên lạc chạy công văn giấy tờ. Một hôm, nhân nó sang chơi, chính trị viên đơn vị gọi nói vào buồng làm việc, mời uống nước chè xanh quấy đường, tỉ tê hỏi rõ hoàn cảnh gia đình nó. Sau đó, anh ngỏ ý muốn tuyển nó vào làm liên lạc cho đơn vị. Đang ngồi Vịnh đứng bật ngay dậy. Nó như không còn tin vào lỗ tai mình nữa. Ngay cả trong mơ nó cũng không thấy được một hạnh phúc lớn đến như thế có thể đến với mình. Nó nói không kịp thở: "Em đã muốn xin với các anh từ lâu, nhưng em sợ... em không dám... Đã rứa anh cho em ở lại đay luôn, chiều ni em không về nhà nữa..." Chính trị viên nói: "Em cũng cần phải về nhà để lấy đồ đạc quần áo, với xin phép bác em chứ?". Vinh nói: "Bác em đang làm việc bên xưởng, em chạy ù qua đó xin phép luôn. Còn đồ đạc quần áo, em chẳng có chi, ngoài bộ áo quần đang mặc". Trong bụng Vịnh sợ lúc mình chạy về nhà, các anh thay đổi ý kiến, không đồng ý nhận mình nữa. Còn chính trị viên nghe nó nói mà thương quá. Anh định búng sau khi Huế giải phóng, anh sẽ đưa nó về nhà mình nuôi, cho đi học.

Chiều hôm đó, Vịnh-sưa chính thức ra nhập Vệ Quốc Đoàn, liên lạc viên của đại đội ba, tiểu đoàn Tiếp phòng quân. Huế nổ súng kháng chiến, đại đội của Vịnh đánh nhau ở Mặt trận khu C. Nó được dự mấy trận đanh mở màn ác liệt nổi tiếng: cầu Kho Rèm, nhà hàng 

Sáp-Phăng-rông. Trường Thiên Hữu. Trong trận xung phong vô trường Thiên Hữu, chính trị viên bị thương nặng. Vịnh-sưa đi sát bên các anh, khóc suốt từ Mặt trận về đến trạm quân y. Trước khi tắt thở, anh gọi Vịnh lại bên cáng, xoa đầu âu yếm nói: "Lau nước mắt đi em. Em giữ lấy cái áo trấn thủ của anh mà mặc, đừng chôn nó theo anh phí đi. Ra trận nhìn cái áo của anh thì nhớ trả thù cho anh..." Cái áo trấn thủ rộng thùng thình nó đang mặc chính là của chính trị viên hy sinh để lại.

Sau đó mấy hôm, Vịnh-sưa được lệnh triệu tập về đội Thiếu niên trinh sát trung đoàn vừa thành lập.

Về đội chỉ mấy hôm, em đã được đội trưởng đặc biệt tín nhiệm, cử làm tổ trưởng tổ bốn, kiêm tiểu đội trưởng tiểu đội ba. Hầu hết các bạn trong đội đều yêu và nể nó, có bạn sợ là đằng khác. Học tập, công tác nó đều gương mẫu. Làm bất cứ việc gì dù nhỏ nhặt đến đâu nó cũng làm đến nơi đến chốn.

Chu đáo, tận tuỵ, kỷ luật, đó là những đức tính Vịnh-sưa đã học được của chính trị viên trong những ngày sống cạnh anh. Chết rồi, anh để lại cho nó cuộc sống mẫu mực, trong sạch, tốt đẹp, cùng tình thương yêu của anh qua hơi ấm chiếc áo trấn thủ ngày ngày nó vẫn mặc...

Chỉ cần nhìn cách thức Vịnh-sưa giữ gìn chiếc áo trấn thủ cũng đã biết nó thương nhớ anh đến chừng nào. Trước khi đi ngủ bao giờ nó cũng cởi áo ra gấp vuốt thật thẳng nếp, gối lên đầu. Đi tập về nếu có một vết bùn nhỏ dây vào là nó phải lấy nước gột cho kỳ sạch... Hồi chưa về đội, một lần nó chạy liên lạc, gặp một anh Vệ Quốc Quân cao lớn, mặt cái áo len mới tinh màu rượu chát, vác một khẩu đại liên đui-dờ-xết. Anh ơi ới gọi nói lại, đặt khẩu súng xuống, cởi cái áo len đưa cho nó và nói: "Mặc cái len thượng hạng ai mà khẩu đại liên dầu mỡ đen ngòm thật phí hoài. Em cởi cái áo trấn thủ đưa đay anh, rôi cầm cái áo len ni mà diện". Anh tưởng chú liên lạc chắc phải sướng mê người về sự đổi chác quá lợi này. Nhưng thật bất ngờ, Vịnh-sưa chẳng buồn nhìn cái áo len. Nó lắc đầu nói với anh: "Anh cso đem tất cả len dạ của thành phố Huế mình mà đổi lấy áo trấn thủ ni, em cũng không đổi mô". Nói rồi nó chạy biến, để anh Vệ Quốc Quân với cái áo len thượng hảo hạng trong tay, đứng sững nhìn theo kinh ngạc không hiểu làm sao chú ta lại đòi đến mức ấy?

Tuy chỉ mới biết đọc biết viết, nhưng nhờ tập luyện hết sức chăm chỉ nên các khoa mục trinh sát rất khó như vẽ bản đồ, đánh tín hiệu bằng cờ, Vịnh-sưa là một trong mấy đội viên giỏi nhất. Mười lười thề danh dự của Vệ Quốc Đoàn nó "đọc ngược" được, như lời Tư-dát khen.

Riêng tinh thần kỷ luật của nó thì không chê vào đâu được. Đội trưởng phân công tổ nó đào một cái hố rác sâu tám mươi phân. Đào xong, nó lấy thước đo hẳn hoi. Không sâu hơn mà cũng không nông hơn. Nội quy đội đề ra. Những đêm không tập khoa mục trinh sát, mười giờ phải lên giường ngủ. Thế là đúng mười giờ nó bắt cả đội phải lên giường, dù đang chơi vui, rôm rả đến mấy. Trước khi đi ngủ nó không bao giờ quên khám chân các tổ viên. Đứa nào chân bẩn, nó dựng dậy bắt đi rửa cho bằng được. Nếu cù nhầy, cãi lại, lập tức nó lên giọng giải thích: "Kỷ luật quân đội là kỷ luật sắt. Nếu không có kỷ luật thì quân đội không thể chiến đấu được." Đó là những câu nó học được của chính trị viên, và chỉ chờ dịp là đưa ra áp dụng. Tư-dát nói: "Vịnh-sưa là kỷ luật sắt gớm lăm" là do vậy.

* *

-Vịnh-sưa ơi, Vịnh-sưa! Lên ngay, lên ngay! Đội trưởng có việc thượng khẩn gọi cậu! - Từ xa, Tư-dát đã réo gọi ầm ĩ. - Cậu ngồi đây mà tớ cứ chạy quanh tìm bở hơi tai.

Chưa kịp để Vịnh-sưa hỏi, Tư-dát liến láu nói luôn

-Lên, lên mà nhận tổ viên mới, không nó sổng mất thì tiếc lắm. Hắn tên là Mừng, nhưng không có họ! Không Trần, không Lê, không Nguyễn, không Đặng, không có cóc khô chi hết a hơ hơ... - Tư-dát lại ôm bụng cười ngất và tin chắc Vịnh-sưa cũng sẽ cười theo với cái tin ngộ nghĩnh đó.

Nhưng Tư-dát chưng hửng. Vịnh-sưa không hề nhếch mép lại còn cau mặt nói:

-Không có họ thì có cái chi đáng cười mà cậu cũng cười? Đã không biết được họ mình là chi, chắc ở nhà hắn phải khổ lắm...

Vẻ liến láu trên khuôn mặt Tư-dát biến mất. Chú ta cứng lưỡi, tảng lờ rút lui êm. Nó đi vào nhà bếp, vờ hỏi cơm đã chín chưa/

Vịnh-sưa đứng lên, bưng rổ rau đã nhặt sạch vào bếp. Nó trở ra bể rửa tay, lau khô, sửa lại quân phục chỉnh tể rồi chạy vào gặp đội trưởng.

6

Vịnh-sưa dắt Mừng về chỗ nằm của tổ mình. Có đến nửa đội rồng rắn theo sau. Chúng tò mà muốn xem cung cách các bạn tổ bốn tiếp đón tổ viên mới như thế nào

Chỗ nằm của tổ bốn là hai tâm phản kê liền nhau, sát bên cửa sổ góc trái ngôi nhà. Đầu phản giáp tương hai chiếc chăn đơn gấp vuông vắn, cùng với ba chiếc ba lô nằm thanh một hàng thẳng tắp, cự ly rất đều nhau. Vịnh-sưa nói với Mừng:

-Đây là "nhà" của tổ bốn mình. Cậu Bồng nằm ngoài, rồi đến cậu Kim, chừ thêm cậu nữa rồi đến tớ. Cho cậu nằm giữa cho ấm. Có ra vườn cậu nhớ đi lối cửa trước, đừng nhảy qua cửa sổ mà tha hết đất cát vô phản.

Mừng ngoan ngoãn gật đầu.

Vịnh-sưa quay lại chỉ một bạn trạc mười bốn, mười lăm tuổi, mặt mũi xinh trai, mắt một mí:

-Đây là cậu Kim. Còn đây là cậu Bồng - Bồng cũng trạc mười ba, mười bốn, người thấp, mặt vuông, trán ngắn, tóc húi cua

Vịnh nói với Kim và Bồng:

-Đội trưởng dặn tổ ta phải yêu thương, chăm sóc Mừng như đứa em út trong nhà. Mừng mới vô đội, lại nhỏ tuổi nhất tổ... Thêm nữa, Mừng không có cha mẹ, anh em, nhà cửa chi hết...

Bồng và Kim đứng sát bên Mừng, vẻ lúng túng vì chưa biết nên bắt đầu lời dặn của đội trưởng như thế nào.

Vịnh-sưa lại nói:

-Chừ tổ mình phải kiêm thêm cho Mừng vài bộ áo quần để thay đổi. Đợi cho đến khi được ban Quân nhu Mặt trận cấp phát còn lâu. Với lịa, phải sửa soạn cho Mừng cái ba lô. Mai kia ra Mặt trận không có ba lô, biết lấy chi đựng quần áo đồ lề?

-Phải đó, phải đó! - Bồng và Kim lập tức hưởng ứng.

Kim nhảy phóc lên phản, lôi cái ba lô con cóc Hướng đạo sinh (Hồi còn ở nhà, Kim đã vào đội Sói Con Hướng đạo sinh) lục lấy ra một cai sơ mi cộc tay vải ca rô và cái quần ka ki xanh còn mới, đẩy tới trước mặt Mừng:

-Cậu lấy bộ ni mà mặc...Mình mặc hơi chật, cậu mặc chắc vừa...

Bồng cũng mở ba lô lôi ra một tấm nhung màu huyết dụ, rộng gần bằng cái mền đơn. Nó giũ rộng tấm nhung ra, rồi gấp lại, đặt vào tay Mừng, giọng hào hiệp:

-Cho cậu đó để làm mền đắp. Ngó bộ mỏng rứa chứ đắp ấm gớm lắm

Mừng há miệng, mắt mở to nhìn không chớp, tấm nhung đỏ chói trong tay. Chưa bao giwò nó được nhìn thấy một cái gì chói lọi đến thế, rực rỡ đến thế. Nó buột kêu lên khe khẽ, giọng gần như sợ sệt:

-Ui cha, cái chi mà đẹp dữ ri anh?

-Nhung! - Tư-dát đứng ngay phái sau chen vào nói - Chứ mi chưa nhìn thấy nhung khi mô à?

Tư-dát cầm lấy tấm nhung trong tay Mừng, đưa cao lên, ngoẹo đầu bên này ngoẹo đầu bên kia, làm bộ ngắm nghía:

-Thứ nhung ni là đắt tiền gớm lắm đấy. - Nó gật gật đầu làm bộ mặt quan trọng. - Trước Cách Mạng, ở Huế chỉ có Nam Phương hoàng hậu với tớ là hay dùng thứ nhung ni thôi. Hoàng hậu thì để may áo dài, còn tớ thì may quần đùi.

Trước khi về đội, Bồng là liên lạc của tiểu đoàn mười bảy. Trong trận xunh phong khách sạn Mô ranh, vị trí kiên cố nhất của bọn giặc trong thành phố Huế, Bồng xẻo tấm nhung này ở cái màn sân khấu rạp chiếu bóng của khách sạn.

Nó cất giữ cẩn thận lắm, trời lạnh cắt ruột cũng không giở ra đắp. Thế mà bây giờ nó lấy ra cho phắt Mừng.

Vừa lúc đó các bạn những tổ khác cũng kéo đến. Hoà-đen mang cho Mừng một cái thìa bạc (cũng lấy được ở vị trí giặc) và một cái chén ăn cơm. Hoà-đen nói với Mừng:

-Đời bộ đội, sau súng đạn, thì hai thứ ni là quan trọng nhất đó nghe.

Châu tổ bảy mang cho Mừng một cái áo len ngắn tay. Hiền tổ một lao sầm sầm từ trên cầu thang gác xuống, tay vung vẩy cái túi dết vải bạt. Nó quàng luôn vô cổ Mừng, lùi lại một bước ngắm nghía:

-Vừa đẹp! Cậu nhỏ người, đeo cái túi dết ni còn tiện gấp trăm cái ba lô. Cậu đừng khinh nó nhỏ. Cứ tọng thử vô đó năm bộ quần áo coi!Lọt thỏm!

Các bạn khác cũng ùn ùn mang đến cho Mừng nào áo, nào quần, nào thắt lưng da, bao đạn, và bao nhiêu đồ vật linh tinh khác. Vịnh-sưa phải xua xua tay kêu lên:

-Thôi các câu, thôi các cậu! Cho nhiều ri cậu ta tha làm răng cho nổi!

Đồ lề, quần áo, các bạn mang đến trang bị cho Mừng, chất thành đống to tướng trên phản. Mừng đứng sững nhìn đống đồ đạc các bạn cho, miệng cứ mấp máy định nói gì mà không nói được. Hai mắt nó tự nhiên đỏ hoe:

Hoà-đen đứng cạnh, nhìn mắt bạn, ngạc nhiên hỏi:

-Ơ, răng mắt cậu đỏ rứa?

-Không biết có con chi hắn bay vô mắt tui ấy... - Mừng đưa nắm tay lên dụi dụi mắt, ấp úng nói.

-Đưa tớ thổi bụi cho. - Hoà-đen chụm môi ghé vào mắt bạn. Mừng bỏ nắm tay ra, hai mắt ướt nhoà...

Vịnh-sưa ngồi chồm hỗm trên phản, chọn áo quần đồ lề cần thiết xếp vào túi dết cho Mừng. Vừa xếp nó vừa rên rẩm:

-Các cậu ấy cho lăm đồ đạc ri thì ba lô túi dết mô mà đựng cho xuể?

Khi trong phòng chỉ còn lại hai đứa, Mừng ngồi xuống cạnh Vịnh, rủ rỉ nói:

-Được vô Vệ Quốc Đoàn sướng quá anh hè?

Vịnh-sưa ngẩng lên nhìn Mừng, cặp mắt long lanh ấm áp:

-Còn phải nói chi nữa! Sướng nhất hạng

7

Sáng hôm đó, đội trưởng được điện của ban Tham mưu Trung đoàn triệu tập có việc khẩn. Anh cho đội nghỉ buổi tập bà giao cho Du, tiểu đội trưởng tiểu đội hai, làm trực nhật.

Đêm qua, cả hai Mặt trận Khu B và Khu C, tiếng súng nổ rất dữ. Pháo sáng từ các vị trí giặc vọt lên tới tấp, sáng rực một góc trời Nam thành phố. "Ông già bảy lăm" "ho" dồn dập gấp mấy những đêm trước. Lúc ông "ho" cả đội đều thức, nằm im nhẩm đếm theo từng phát một.

Đội trưởng vừa đi khỏi, cả đội ùa hết ra sân mặc dầu trời vẫn lắc rắc mưa. Đứng tụm năm tụm ba trên sân, chúng bàn tán tranh cãi, phỏng đóan về kết quả trận đánh đêm hôm qua. Hiền từ trong nhà chạy ra, nhập vào một nhóm đông nhất đang tụ tập dưới gốc cây mù u, đang tranh cãi rất hăng. Mừng cũng ở trong nhóm này, nhưng nó chỉ đứng im há miệng lắng nghe. Nó hết nhìn bạn này đến bạn khác, vẻ thán phục. Hiền chen vào giữa nói:

-Cãi nhau làm chi cho mệt! Chút nữa đội trưởng về sẽ có thông báo của Mặt trận. Chừ có việc ni là hay hơn cả. Có cậu mô thích tập xiếc thì theo tớ tập cho vui đi! - Không thấy có bạn nào hưởng ứng, Hiền quay sang Mừng, cầm lấy cánh tay Mừng nắn nắn và nói:

-Cậu nhỏ người mà chắc ghê. Cậu tập xiếc nhất định phải mau thành tài. Cậu có thích tập xiếc không? Tớ dạy cho.

Mừng ngơ ngác:

-Xiếc như mấy ông bán dầu cù là ở chợ Đông Ba?

Hiền chưa kịp trả lời, Tư-dát đã chen vào:

-Cậu đừng có nghe hắn dỗ ngon dỗ ngọt, tập xiếc tập xót mà u đầu gãy cổ có ngày. Khối cậu trong đội nghe hắn dỗ ngon dỗ ngọt theo hắn tập xiếc cót, mọc sừng trước trán rồi đó. - Nó cười quay lại nói với Hiền. - Cậu cũng nên dẹp cái môn xiếc xót của dậu đi cho anh em nhờ. Quay đi quay lịa cũng chỉ có trò nhào lộn với trò trồng cây chuối...

Hiền đỏ mặt cãi:

-Người ta còn có trò đi trên dây thép...

-Đi trên cây tre gác lên hai cái ghế thì có! - Tư dát trề môi nói - Nhát gan như tớ cũng chạy trên đó được.

Hiền ức quá, cố chống chế:

-Môn xiếc chính của tớ là môn dạy thú kia. Nếu có gấu tớ cũng dạy được.

Tư-dát càng trêu già:

-Cậu dạy được gấu thì tớ dạy được cả sư tử, tây ngu(Tê giác), bò tót. - Tư-dát quay sang nói với Mừng. - Cậu biết không, hồi mới về đội, không biết cậu ta tròng được ở đâu con chó mực bị lạc mất chủ, lôi về đội dạy đi xe đạp. Cậu ta chăm anh chó hơn mẹ chăm con, nhịn cả phần cơm cho chó ăn. Cậu ta dạy dỗ tài giỏi đến nỗi con chó quay lại đớp cho một cú vô bắp vế, máu chảy ướt cả quần...

-Chừ con chó ấy mô rồi? Mừng nhìn Hiền tò mò hỏi.

-Hắn dựt đứt xích chạy mất từ đời tám hoánh! - Tư-dát trả lời tranh. - Tớ mà nói láo tớ đi đầu xuống đất. Cậu muốn có ngày bị chó dại cắn chết, cứ việc theo cậu ta mà xiếc với xót.

Hiền ức muốn phát khóc, nhưng không làm sao nói lại với cái mồm liến láu của Tư-dát. Nó đưa mắt lườm Tư-dát, rồi định bỏ đi chỗ khác. Nhưng Tư-dát không chịu buông tah, níu tay Hiền lại, chỉ về phía một gốc cây vông đồng ở gần cuối sân:

-Có cậu Vệ mới về đội chiều hôm qua kia kìa. Theo tớ, cậu nên tập xiếc cho cậu ấy hơn. Bộ cậu ấy ngơ ngơ mà hiền như con gái rứa, cứ chịu khó dỗ ngon dỗ ngọt, răng cậu ấy cũng theo.

Vệ là đội viên thứ ba mươi hai của đội. Nó đến nhập đội vào năm giờ chiều hôm qua. Trước đây, nó là liên lạc của trung đội Ca-nông Bảy lăm. Hồi Huế mới nổ súng, nhiều bạn trong đội thỉnh thoảng vẫn gập nó cưỡi con ngựa ô, lóc cóc đi theo sau khẩu Ca-nông, trên đường di chuyển vị trí.

Vệ trạc tuổi Vịnh-sưa, thân hình rất mảnh giẻ cân đối. Gương mặt nó không đẹp nhưng có một vẻ hết sức dễ thương. Cặp mắt to, sáng, dịu dàng như mắt lai, thường ánh lên một vẻ buồn buồn rất lạ. Đặc biệt nó có cái đầu to quá cỡ y như đầu người lớn chắp vào, đội cái mũ ca lô dạ tím rất diện. Những ón tóc đen nhánh như lông quạ thò ra ngoài mũ, xoăn xoăn thành búp. Mới về đội chiều hôm qua, nó đã được các bạn tặng luôn cho cái biệt hiệu: Vệ-to-đầu.

Lúc này, Vệ đang đứng khom lưng, hai tay chống gối, chăm chú xem Vịnh-sưa dũa một vỏ đạn đui-xết để làm cán dao nhíp.

-Vệ ơi Vệ! tới đây, tới đây, có việc ni hay lắm. - Tiếng Tư-dát gọi to.

Vệ chạy lại, Tư-dát túm lấy tay, hỏi:

-Cậu có thích tập xiếc không, tớ xin giới thiệu với cậu, - Tư-dát chỉ vào Hiền, - đây là một ông thầy xiếc tài nhất nhì Đông Dương...

Vệ mắt chớp chớp, hết nhìn Tư-dát lại nhìn Hiền như có vẻ lấy làm lạ lắm.

-Trước khi vô Vệ Quốc Đoàn, cậu cũng đi làm xiếc à? - Vệ hỏi Hiền. - Cậu ở gánh nào vậy?

Tư-dát lùi lại phía sau bụm miệng nhịn cười. Bụng chắc mẩm đã cho được cậu đội viên mới vào "xiếc" và nhất định sẽ có những pha cười nôn ruột.

Hiền miễn cưỡng trả lời Vệ:

Mình có ở gánh nào đâu...Hồi còn đang đi học, mình mê xiếc lắm. Bao nhiêu gánh xiếc tới Huế. Mình chẳng bỏ sót gánh nào. Tạ Duy Hiển này, Long TIên này, Đô-cô-ha-ma này... Mình đi coi nhiều lần rồi về bắt chước tự tập lấy. Khi mô đánh Tây xong, mình sẽ xin đi theo một gánh xiếc...

-Thế cậu đã tập được những trò gì rồi? - Vệ chăm chú hỏi.

-Chỉ mới được có mấy trò... Trồng cây chuối, đi bằng hai tay, đi trên dây thép...

-Cậu ấy còn nhai được cả cơm cháy rau ráu như là nhai mảnh chai bóng điện ấy. Tài ghê lắm Vệ ạ - Tư-dát chêm vào.

Vệ không để ý đến lời trêu chọc của Tư-dát. Nó nói với Hiền, giọng hồi hộp:

-Cậu diễn thử vài trò cho mình xem với. Lâu lắm mình không được xem xiếc:

-Đi, đi lại đằng kia mình diễn cho coi. - Hiền cầm tay Vệ-to-đầu định kéo đi. - Rồi tuỳ cậu chọn, thích tập trò nào mình sẽ dạy cho trò ấy. Không khó lắm đâu.

-Trồng cây chuối với đi bằng hai tay thì ở đâu chẳng diễn được? - Vệ ngạc nhiên hỏi.

-Nhưng ở đây toàn đá với sỏi, đằng kia có bãi cỏ, lỡ ngã đỡ đau hơn. Nhưng mình sợ là sợ cho cậu mới tập, chứ với mình ở đâu chẳng chơi được!

Hiền xắn hai ống tay áo, nhảy lùi lại một bước, chuẩn bị diễn trò trồng cây chuối. Nó định bụng sẽ trổ hết tài, diễn thật xuất sắc, làm cho tay đội viên mới này phải lác mắt, và sẽ nằng nặc xin theo học.

Nhưng bữa nay nó bị xúi quẩy quá! Sau khi đã nhặt hết những viên đá nhọn. Hiền cẩn thận chúi đầu xuống đất, gắng sức tung hai chân để dựng ngược người. Nhưng hai chân lại nặng nề rơi xuống cứ y như bị buộc đá vậy. Sỏi đá ấn vào đầu nó đau điếng người. Mặt nó đổ bừng vì gắng sức.

Tư-dát liền bước lại, túm lấy hai cổ chân Hiền vui vẻ dựng ngược lên, cười nói:

-Để tớ trồng giúp cho. Chuối trông cứ bổ xiêu bổ sấp mãi rứa thì đứt hết rễ còn chi!

Hiền đứng lên vừa ức vừa ngượng. Nó xoa xoa hai đầu gối, chống chế:

-Tại mấy bữa ni chân tớ hơi bị đau, chứ mọi lần tớ chỉ hự một cái là lên ngay.

Vệ-to-đầu nãy giờ vẫn chăm chú theo dõi Hiền diễn xiếc. Khi Hiền đứng lên, Vệ đưa tay phủi phủi những sợi rác trên tóc bạn. Nó bỗng lột cái mũ ca lô dạ tím ra khỏi đầu và cẩn thận luồn vào giữa cầu vai áo quân phục. Các bạn ngạc nhiên thấy trên đầu nó, giữa những món tóc xoăn xoăn đen nhánh như lông quạ, có ba bốn cái sẹo to dài nhẵn bóng như những vết chém.

Vệ nhỏ nhẻ nói với các bạn đang đứng xung quanh

-Mình cũng biết ít trò xiếc...

Trước những cặp mắt nghi ngờ của các bạn, Vệ đột ngột hét lên một tiếng nghe rất lạ tai. Và nhanh không kịp chớp mắt nó chúi người lộn nhào hai vòng rồi đứng lên người thẳng tắp. Chưa kịp để cho các bạn ngạc nhiên, nó chống hai tay xuống đất, dựng ngược người, và cứ thế đi bằng hai tay, rất nhanh về phía ngôi nhà khi còn cách tường chừng hai bước, nó làm một động tác nhào lộn hết sức đẹp mắt trước khi đứng thẳng lên. Bức tường trước mặt có một khuôn cửa sổ hình tròn, không có cánh cửa. Nó lại thét lên một tiếng chói tai, tung người bay lọt qua khuôn cửa sổ, vào bên trong nhà.

Các bạn định ào vào bên trong nhà để xem Vệ có việc gì không. Nhưng bên trong đã nghe tiếng Vệ thét lên và cả người đã bay vọt ra bên ngoài. Chớp mắt nó đã đứng thẳng trước mặt các bạn, người không hề chao đảo ngả nghiêng.

Tất cả cứ tròn xoe mắt nhìn theo Vệ, miệng kêu: "Ơ...ơ" Tồi tất cả cùng một lúc, nhảy lên như choi choi, vỗ tay rôm rốp:

-Đúng là xiếc chính cống! Đúng là xiếc chính cống! Bờ-ra-vô Vệ-to-đầu! Bờ-ra-vô Vệ-to-đầu.

Trước sự tán thưởng nồng nhiệt của các bạn, gương mặt đỏ hồng lên. Vì cao hứng, vui thích, nó dẫn các bạn đi thẳng đến chỗ sợi dây thép phơi quần áo ở góc bên trái sân. Sợi dây to bằng đầu đũa, cao quá tầm tay với, căng từ hai gốc cây mù u cách nhau chừng mười thước. Trên dây đung đưa nào áo trấn thủ, khăn mặt, quần sơ mi... Tư-dát đoán là Vệ sắp diễn trò đi dây thép, nó liền chạy tới trước, vơ tất cả áo quần cuộn lại thành một bó và quăng lên thành bể nước cạnh đó.

Vệ nhảy lên níu sợi dây thép, gần sát chỗ buộc và gốc cây, rồi nhún người đu lên. Loáng một cái nó đã đứng lên sợi dây thép, người hơi lúng liếng một chút. Nhưng nó dang thẳng hai tay, lấy được thăng bằng một cách dễ dàng. Khoan thai nhẹ nhàng nó bước từng bước ngắn, vững, đi sang đầu dây thép bên kia, dưới những bước chân sợi dây thép hơi võng xuống, khẽ đung đưa... Khi còn cách gốc cây chừng non một bước, nó bỗng trượt chân, nhào nghiêng nười. Các bạn kêu rú, sợ hĩa, chậy xô hết cả lại, giơ tay ra định đỡ. Nhưng hai kheo chân nó đã lẹ làng ngoặc vào sợi dây thép, treo ngược người, đầu dốc xuống đất. Té ra nó làm động tác giả để doạ các bạn chơi. Vẫn treo người trên dây thép, nó ngẩng lên nhìn vẻ lo lắng sợ hãi của các bạn với ánh mắt dịu dàng như mắt nai, và mủm mỉm cười rất dễ thương.

Vừa lúc đó đội trưởng đi họp về. Anh đến ngay trước mặt Vệ lúc nào không hay. Vệ chợt nhìn thấy anh, mỉm cười bối rối. Nó vội vàng vịn tay vào vai Hiền, nhẹ nhàng buông mình xuống đất.

Đội trưởng gọi Vệ vào phòng làm việc. Cả đội ùa vào theo, đứng chật gian phòng. Đội trưởng quyết định bổ xung Vệ vào tổ Hiền. Sau đó anh hỏi chuyện nó tại sao biết làm xiếc, và tập xiếc từ bao giờ.

Té ra trước khi gia nhập Vệ Quốc Đoàn, Vệ là diễn viên nhào lộn của một gánh xiếc rong. Nó kể:

... Gánh xiếc rong của nó do một ông Khách(Người Tàu) to lớn, có cặp mắt xếch ngược như mắt tướng hát bội, làm chủ gánh. Ông này trước là diễn viên trụ cột của một đoàn mãi võ Sơn Đông, chuyên bán thuốc cao, rất có tiếng tăm ở Sài Gòn-Chợ Lớn. Sau vì một chuyện xích mích gì đó với người trưởng đoàn, ông ta tách khỏi đoàn và lập một gánh xiếc rong để sinh sống. Gánh xiếc này vẻn vẹn có năm diễn viên: Chủ gánh, Vệ, một anh lùn, một con khỉ và một con gấu. Gánh xiếc rong nhỏ bé của nó từng đi diễn khắp lục tỉnh Nam Kỳ, sang cả Nam Vang. Lúc này cả đội mới hiểu ra vì sao giọng nói của Vệ lơ lớ đá giọng Sài Gòn.

8

Lần đầu tiên Hiền và nhiều bạn khác trong đội mới được biết cuộc đời của người làm xiếc rong chẳng mê ly vui thú như chúng vẫn thường tưởng tượng. Trái lại, đó là một cuộc sống gian truân, vất vả, cực nhục đến ghê người. Cuộc sống ấy đã để lại trong trí nhớ chú bé có cặp mắt dịu dàng như mắt nai này biết bao kỉ niệm hãi hùng...

Chính người Khách mãi võ Sơn Đông vừa làm chủ gánh vừa dạy xiếc cho các diễn viên. Ông ta dạy anh lùn tung hứng ném dao, dạy con khỉ, con gấu múa thanh long đao, đi xe đạp, dạy Vệ nhảy qua vòng lửa có cắm dao cùng các trò nhào lộn, đi trên dây thép... Về các môn xiếc, ông ta tuyệt giỏi, không một môn nào ông không đạt đến mức điêu luyện. Nhưng ông cũng ác vô cùng. Lúc dạy, tay ông ta không bao giờ rời cây roi da. Con khỉ, con gấy, anh lùn và Vệ, mỗi lần làm sai, làm hỏng, ông ta quất không tiếc tay, lại còn phạt nhịn đói. Nhìn ông ta đánh con khỉ với con gấu mới thương! Dưới những trận mưa roi da, hai con vật ôm mặt kêu rú lên, lăn lộn dưới đất, chắp tay lạy ông rối rít...

Để cạnh tranh với hàng trăm gánh xiếc rong hồi đó, ông chủ bắt anh lùn và Vệ diễn những trò hết sức ghê rơn, làm người xem phải dựng tóc gáy. Lên mười tuổi, Vệ đã phải phi tân bay qua vòng lửa cháy rần rật có cắm mười hai lưỡi dao nhọn hoắt. Phải đi trên dây thép căng cao hai thước, và bước tới đâu, ông chủ đẩy theo tới đó một bàn gỗ có bốn bánh xe, bên trên cắm ngược mười hai lưỡi dao như sẵn sàng chờ nó ngã xuống... Nhưng khủng khiếp hơn cả là trò nó phải làm bia sống cho anh lùn ném dao.

Người diễn viên có tài tung hứng và ném dao tuyệt vời này xấu xí dễ sợ. Anh ta cao chỉ hơn một mét nhưng đôi vai rất rộng nên trông cứ như người vuông. Anh có cái đầu to hết cỡ. Trong biển quảng cáo, anh thường được trưng là "Người lùn nhất thế giới về tài tung hứng và ném dao"

Làm bia sống cho anh lùn ném dao, Vệ phải cởi trần, mặc quần cộc thun bó sát người. Nó đứng dựa lưng vào một tấm ván mỏng dựng trên cái giá gỗ, hai tay dang thẳng, hai chân xoạc rộng, toàn thân không nhúc nhích, như đã bị đóng đinh vào tấm ván. Anh lùn đứng cách xa nó chừng mười bước, tay cầm một nắm dao găm sáng loáng. Sau một hồi đánh phèng phèng cổ động, ông chủ hô lên một tiếng như sấm "Tả lớ này!". Lập tức anh lùn cầm từng con dao một ném phầm phập vào quanh người Vệ. Dao cắm sát đỉnh đầu, sát hai vai, luồn dưới hai nách, hai bên hông, hai bên bạn, cuối cùng là dưới hai bàn chân. Vừa đúng mười hai lưỡi. Lưỡi nào cũng cắm cách người nó chỉ vài ba phân, có lưỡi dính sát da... Và càng ném cắm sát dao càng được người xem tung tiền thưởng. Lúc Vệ bước ra khỏi tấm ván, mười hai lưỡi dao cắm trên ván vẽ thành một hình người nho nhỏ...

Mặc dầu đã đứng làm bia sống hàng mấy trăm lần, nhưng Vệ không làm sao quen được. Kể đến đây, bất giác nó rùng mình. Thật khủng khiếp! Lúc đó hai mắt nó nhắm nghiền nên nghe càng rõ tiêng dao rít quanh mình. Mỗi lần lưỡi dao bay đến cắm phập vào ván, rung lên bần bật, chất thép lạnh chỉ chạm khẽ vào da thịt mà nhói thấu đến tận óc. Một cảm giác kinh hoàng không sao tả xiết làm cho khắp người nó mồ hôi vã ra như tắm. Mồ hôi chảy ròng ròng suốt từ chân tóc đến hai gan bàn chân. Nhiều lần căng thẳng quá, nó tưởng có thể ngã gục xuống chết ngất. Nhưng nó đã cố hết sức để đứng vững, không run. Nếu run và chỉ cần một li leo xê dịch, dao sẽ cắm vào người như chơi.

Những vết sẹo dài như chém trên đầu Vệ chính là những vết dao anh lùn lỡ ném hơi quá tay...

Ngồi nghe Vệ kể chuyện làm xiếc, hai thái dương đội trưởng mồ hôi rịn lấm tấm. Anh sững sờ kêu lên:

-Thế cha mạ, quê quán em ở đâu mà phải lưu lạc vô tận Sài Gòn làm xiếc rong? Nó kể:

... Nó theo gánh xiếc từ ngày còn nhỏ lắm, nó không nhớ là năm lên mấy nữa. Cha mạ quê quán thì chỉ còn nhớ là cả nhà nó sống chui ríc dưới một cái gầm cầu sắt to lắm. Người gồng gánh, ô tô, tàu hoả đi lại rầm rập trên đầu suốt ngày, suốt đêm. Cha nó thường mặc bộ áo quần xanh, rách rưới, nồng nặc mùi vôi. Nó không nhớ mặt cha nhưng cái mùi vôi nồng nặc trên áo quần cha sau mỗi buổi chiều đi làm về, thì cho đến tận bây giờ nó vẫn như còn ngửi thấy... Cứ chiều đến nó lại trèo lên mặt đường nhựa đón cha. Thấy bóng cha từ xa, nó chạy ào đến. Cha bồng nó lên tay, hôn hít rồi móc móc túi... Cha bắt nó nhắm mắt, há miệng thật to, rồi lẹ làng đút vô miệng, khi cái kẹo cau, khi cái kẹo bi, ngọt cho đến tận bây giờ... Một buổi chiều, nó đứng đón cha hoài, đón đến tối câm tối mù cũng không thấy cha về. Chiều hôm sau, rồi chiều hôm sau nữa, cũng không thấy cha về. Má nó thì cứ lăn lóc dưới đất, đầu tóc rũ rượi, khóc gào như đã hoá điên. Má ôm ghì nó, vùi nó vô trong đống tóc rối bời, bê bết đất bụi, rồi lại lăn lóc, lại kêu khóc... Rồi một buổi sáng, những người chèo đò vớt má nó từ dưới sông lên. Tóc má trét đầy bùn. Người ta xúm lại đào một cái hố to giữa bãi bắp, bó má xuống hố, lấp đất lại. Nó đói quá, cả ngày đứng trên đường xin ăn. Người cho miếng bánh, người cho cục cơm... Một hôm có một ông mặt mũi dữ tợn như ông tướng cầm gươm trước cửa đền hiện ra trước mặt nó. Ông đứng chống nạnh, không nói, không rằng trừng trừng ngó nó một lúc lâu. Nó sợ co rúm người lại. Ông này bất thình lình chụp lấy bàn tay nó đang ngửa chìa ra xin ăn, dắt đi gần như kéo. Nó sợ quá nên chẳng dám kêu, cũng chẳng dám khóc. Hai chân lết quết chạy theo ông. Ông ta đưa nó đến một quán cơm, cho ăn cùng với một con khỉ, một con gấu, và một anh lù tịt đầu rất to... Lúc đầu nó sợ người lùn này lắm, còn sợ hơn cả cái ông kéo nó đi. Nhưng anh lùn cười với nó hiền khô, dỗ: "Đừng sợ, đừng sợ em ạ. Anh chỉ lùn thôi. Mà người lùn thì hiền hơn cả con nít". Anh gắp miếng thịt trong bát đang ăn bỏ vào bát nó.

Sau đó cái ông mặt mũi dữ tợn ấy đưa nó lên tàu cùng với anh lùn, con khỉ, con gấy. Con tàu chạy suốt ngày suốt đêm, đến một nơi nào đó rất xa... Ông ấy chính là người Khách mãi võ Sơn Đông, chủ gánh xiếc rong...

Câu chuyện của Vệ làm nhiều bạn nổi hết gai ốc, lo sợ thay cho bạn và thương bạn quá chừng. Nhiều đứa quay mặt đi giấu vội nước mắt. Mừng thì khóc thật sự, nó gục đầu vào vai Bồng, khóc nấc lên thành tiếng. Bồng cũng khóc nhưng chỉ nấc lên khe khẽ và ngước mắt chảy lặng lẽ trên hai gò má thô ráp. Tư-dát giả bộ cười nhưng miệng méo xệch thành mếu. Vịnh-sưa đưa ống tay áo dụi cặp mắt đỏ hoe,lắp bắp, tức tối hỏi Vệ:

-Khổ đến nước ấy răng cậu không bỏ trốn quách, cứ đèo queo mãi với cái thằng chao chủ xiếc ấy làm chi?

-Nhưng biết trốn đi mô được? - Vệ hỏi lại như muốn nói với tất cả các bạn có mặt ở đso. Cặp mắt to dịu dàng như mắt nai của nó ánh lên một vẻ buồn sâu thẳm.

-Hồi đó làm chi đã có Vệ Quốc Đoàn như bây giờ cho mình trốn theo? - Vệ khẽ thở dài - Thêm nữa mình cũng thương anh lùn lắm. Anh ấy tuy thân mình mặt mũ...

Bình luận (0)
Nguyễn Đỗ Hậu Thành
10 tháng 11 2017 lúc 20:37

lên google nha

Bình luận (0)
Vũ Mai Chi
Xem chi tiết

Ở nước ta, ai cũng biết rất nhiều những anh hùng đã hy sinh để bảo vệ và giành lại độc lập cho đất nước. Nhưng trong số các anh hùng đó, người mà em và bao các bạn thiếu nhi như em rất thán phục và cần noi gương chính là nhân vật Lượm trong văn bản "Lượm" của nhà thơ Tố Hữu.

Lượm là một cậu bé thanh mảnh, nhỏ nhắn. Cậu có đôi chân thật nhanh nhẹn. Đặc biệt, Lượm luôn đội chiếc mũ ca lô trên đầu, lệch về một phía trông thật ngộ nghĩnh và đáng yêu. Chú liên lạc này luôn đeo một cái xắc xinh xinh trên vai trông rất ra dáng “cán bộ”. Đó cũng là một cậu bé rất yêu đời. Mồm cậu luôn huýt sáo như những con Chim Chích đang hót vang lưng trời. Tuy công việc của người chiến sĩ nhỏ rất nguy hiểm nhưng cậu rất yêu thích công việc mà mình đã lựa chọn. Lượm rất lạc quan trong khi làm nhiệm vụ. Cậu nhảy nhót trên đường, vừa đi, vừa nhảy, cười tít cả hai mắt. Ngày qua ngày, Lượm như một con chim đang hướng tới Mặt Trời rực rỡ.

Lượm không sợ nguy hiểm. Cậu đã vượt qua bom đạn để đưa những bức thư khẩn cực kỳ quan trọng cho các đơn vị khác. Rồi cho đến một ngày, Lượm đi liên lạc trên một con đường làng quê vắng vẻ. Những bông lúa chín vàng đã làm Lượm ngây ngất trong mùi thơm ngọt ngào. Cái mũ ca nô của chú bé nhấp nhô trên đồng. Lượm bị phát hiện, thế là những tiếng súng vang lên. Đạn bay vun vút như đan chéo vào nhau đuổi theo chú bé. Lượm chạy như bay nhưng vẫn không tránh được những viên đạn của địch. Chú bé ngã xuống, tay vẫn nắm chặt bông lúa thơm ngái.

Lượm thật xứng đáng là một tấm gương sáng cho các thế hệ thiếu nhi đồng trong hiện tại và trong tương lai noi theo.

#Học tốt#

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa
Phạm Trí Anh
14 tháng 5 2021 lúc 22:04

Đó là phiên bản ngoài đời, còn trong truyện nó lại xảy ra thế này: Lượm, hay Lượm - sứt, là một chú bé can đảm trong mọi công việc được giao. Chú nổi tiếng là lanh trí, thông minh. Khi bị bắt, chú vẫn ôn tồn an ủi Thúi - một đứa bé bán kẹo gừng cho mụ Cả Lễ rất nghiêm khắc, chẳng hiểu lí do cắc cớ làm sao lại bị gán là Tư - dát, người dẫn đường cho Lượm. Chú luôn săn sóc mọi người, như cái lần chú giúp Ngạnh - một bạn tù cùng bị nhốt ở lao Thừa Phủ, đang bị sốt. Chú khôn ngoan, nhanh trí đến nỗi tên quan cáo già nhất, Sô - lê cũng không khuất phục được chú bằng tiền bạc, sự sung sướng và danh vọng... Ba lần vượt ngục chính là sự tích tụ nhiều lần mà tâm chú hướng nhiều nhất về Vệ Quốc Đoàn, nơi mà chú từng làm việc để bảo vệ nước, bảo vệ dân. Chú cũng làm thân được với Lép - sẹo, một tay anh chị trôm cắp có tiếng, và cùng trốn thoát ở lần vượt ngục thứ ba.

Mặc dù cuối cùng, mình nghe nói Lượm đã bị bắn chết - theo lời của Sô - lê nói với Kim - một điệp viên đã được đào tạo, vốn cũng là Vệ Quốc Đoàn cùng Lượm và các bạn khác, cuối cùng lại bị dụ dỗ và trà trộn vào hàng ngũ Việt Minh, lấy cắp và dò tin tức trên bản đồ bên mình. Thế nhưng, hình bóng chú bé Lượm quả cảm vẫn sâu trong tim chúng ta.

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa
Đào Phương Linh
21 tháng 4 2022 lúc 21:20

Ở nước ta, ai cũng biết rất nhiều những anh hùng đã hy sinh để bảo vệ và giành lại độc lập cho đất nước. Nhưng trong số các anh hùng đó, người mà em và bao các bạn thiếu nhi như em rất thán phục và cần noi gương chính là nhân vật Lượm trong văn bản "Lượm" của nhà thơ Tố Hữu.

Lượm là một cậu bé thanh mảnh, nhỏ nhắn. Cậu có đôi chân thật nhanh nhẹn. Đặc biệt, Lượm luôn đội chiếc mũ ca lô trên đầu, lệch về một phía trông thật ngộ nghĩnh và đáng yêu. Chú liên lạc này luôn đeo một cái xắc xinh xinh trên vai trông rất ra dáng “cán bộ”. Đó cũng là một cậu bé rất yêu đời. Mồm cậu luôn huýt sáo như những con Chim Chích đang hót vang lưng trời. Tuy công việc của người chiến sĩ nhỏ rất nguy hiểm nhưng cậu rất yêu thích công việc mà mình đã lựa chọn. Lượm rất lạc quan trong khi làm nhiệm vụ. Cậu nhảy nhót trên đường, vừa đi, vừa nhảy, cười tít cả hai mắt. Ngày qua ngày, Lượm như một con chim đang hướng tới Mặt Trời rực rỡ.

Lượm không sợ nguy hiểm. Cậu đã vượt qua bom đạn để đưa những bức thư khẩn cực kỳ quan trọng cho các đơn vị khác. Rồi cho đến một ngày, Lượm đi liên lạc trên một con đường làng quê vắng vẻ. Những bông lúa chín vàng đã làm Lượm ngây ngất trong mùi thơm ngọt ngào. Cái mũ ca nô của chú bé nhấp nhô trên đồng. Lượm bị phát hiện, thế là những tiếng súng vang lên. Đạn bay vun vút như đan chéo vào nhau đuổi theo chú bé. Lượm chạy như bay nhưng vẫn không tránh được những viên đạn của địch. Chú bé ngã xuống, tay vẫn nắm chặt bông lúa thơm ngái.

Lượm thật xứng đáng là một tấm gương sáng cho các thế hệ thiếu nhi đồng trong hiện tại và trong tương lai noi theo.

Bình luận (0)
Vũ Văn Chung
Xem chi tiết
Vũ Văn Chung
Xem chi tiết
Nguyễn Trần Thành Đạt
Xem chi tiết
Quoc Tran Anh Le
30 tháng 1 lúc 16:46

- Nhân vật Thị Kính: Đẹp người, đẹp nết, hết lòng yêu thương gia đình nhưng bị gia đình chồng nghi oan.

- Cách tác giả dân gian xây dựng nhân vật: Chia theo hai tuyến: Một tuyến là nhân vật đầy tâm sự, gánh chịu nhiều bi kịch trong cuộc đời và một tuyến là nhân vật có đức hạnh, kiên định trong niềm tin và tôn trọng lễ nghi.

Bình luận (0)
Phương Dung
Xem chi tiết
Thảo Phương
24 tháng 10 2016 lúc 12:41

Lão Hạc là truyện ngắn phản ánh chân thực nhất cảnh đời cơ cực, nhiều cay đắng nhất của người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Có thể nói là xã hội này đầy rẫy những bất công, đẩy người nông dân vào bế tắc, tuyệt vọng, không lối thoát. Nam Cao đã xây dựng thành công hình ảnh Lão hạc với đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân nhưng cuối cùng số phận bi thảm. Cái chết của Lão Hạc cuối truyện luôn ám ảnh người đọc, bởi giá trị mà nó muốn nhắn gửi sâu xa như thế nào.

Không phải bỗng nhiên lão Hạc muốn tìm đến cái chết, bởi chẳng ai muốn chết cả. Chỉ khi túng quá, quẫn quá, và không còn con đường nào khác để đi thì cái chết là sự giải thoát nhẹ nhàng nhất. Lão Hạc sau khi bán cậu Vàng được 5 đồng, thấy day dứt, thấy mình thật tệ bạc với nó quá. Lão tính đi tính lại, cuối cùng cũng tích được 30 đồng gửi ông Giáo, bao giờ con trai ông về thì nhờ ông Giáo gửi lại con trai.

Suy nghĩ về cái chết của lão Hạc – văn lớp 8

Ngay từ đầu câu chuyện, Nam Cao đã giới thiệu hoàn cảnh vô cùng khó khăn, cùng cực và cô độc của Lão Hạc. Con trai thì đi cao su biền biệt chưa thấy về, lão già yếu, chỉ sống với cậu Vàng và mảnh vườn nhỏ. Lão thương con trai và mong muốn nó quay trở về đây. Tấm lòng đó của Lão thực sự đáng trân trọng và cảm phục.

 

Tuy nhiên cuộc sống càng ngày càng thiếu thốn, bệnh tật triền miên, lão không muốn cậy nhờ ông giáo và không muốn làm phiền đến hàng xóm nên đã xin Binh Tư ít bả chó. Lão bảo lão xin bả chó để bẫy ***** đi lạc nhưng thực ra để giải thoát bản thân mình, cũng là để tiền lại cho con, không làm gánh nặng cho bất kì ai.

Cái chết của lão Hạc để lại trong lòng người đọc nhiều ám ảnh. Lão chết, cái chết đó giàu giá trị nhân văn, cũng như phản ánh chân thực hiện trạng xã hội Việt Nam lúc bấy giờ đang rơi vào bế tắc như thế nào.

Vì bế tắc, vì nghèo đói, vì lòng tự trọng nên cái chết là sự lựa chọn cuối cùng, dù là bất đắc dĩ thì nó cũng có thể kết thúc trong êm đẹp. Xã hội Việt Nam bất giờ cái nghèo đói tràn lan, thực dân phong kiến đã đẩy những người nông dân đến bước đường cùng như thế này.

Vốn dĩ lão Hạc là người có lòng tự trọng rất cao, nên dù khó khăn thế nào, lão cũng không muốn cậy nhờ bất cứ ái. Chính lòng tự trọng “hác dịch” đó đã buộc lão phải nghĩ đến cái chết, dù thực tâm lão vẫn muốn sống và khát sống một cách mãnh liệt. Một sự đối lập đến chua xót như vậy.

Lão chết, cái chết bộc lộ cao nhất tình yêu thương con vô bờ bến. Ông không muốn làm gánh nặng cho con sau này, ông muốn giành dụm hết tiền cho con, mình không dùng đến đồng nào. Tình cảm ấy thật vĩ đại và vượt khỏi sức tưởng tượng của con người.

Cái chết của Lão Hạc vừa phản ánh sự bế tắc của thời đại, của con người; đồng thời giải phóng chính lão hạc khi muốn mang đến những điều tốt đẹp cho đứa con của mình.

Thật vậy, truyện ngắn “Lão Hạc” kết thúc với cái chết đầy bi kịch và bế tắc của lão đã khiến người đọc suy nghĩ rất nhiều về con người, tình người, về cái đói, cái nghèo và về lòng tự trọng.

Bình luận (0)
Linh Phương
24 tháng 10 2016 lúc 12:49

Văn học hiện thực phê phán là dòng văn học với những cảnh đời trớ trêu, cay đắng, bất hạnh. Văn học về những con người bị áo cơm ghì sát đất, phải sông tha hóa, sống kiếp sông mòn, của những cảnh đời bị đẩy vào bước đường cùng không lối thoát,... Nước mắt và cái chết có thể coi là những mô tiếp quen thuộc của văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945. Mô tip ấy ám ảnh nhiều trong sáng tác của nhà văn Nam Cao: Chí phèo chết trong vũng máu của chính mình ngay trong khi khát vọng trở về với cuộc đời bị dập tắt; Lang Rận, Mụ Lợi tự tử trong sự ghẻ lạnh, đàm tiếu của người làng; Bà cái Tí chết vì một bữa no duy nhất của cuộc đời,... Có lẽ trong những cái chết ấy thì khó quên nhất chính là cái chết của lão Hạc - một lão nông nghèo khổ, bất hạnh trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao. Ta hãy đọc lại những dòng văn Nam Cao tả lại cái chết của lão Hạc: “Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nảy lên. Hai người đàn ông lực lưỡng phải ngồi đè lên người lão. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết. Cái chết thật là dữ dội. Chẳng ai hiểu lão chết vì bệnh gì mà đau đớn và bất thình lình như vậy”. Những dòng văn này trước hết làm tôi giật mình về một cái chết thật dữ dội và kinh hoàng. Đây không phải là một cái chết bình thường. Đó là cái chết của người do bị trúng độc bả chó. Bất giác tôi có cảm tưởng như không phải cái chết của một người bình thường mà là cái chết như của một con chó. Lão Hạc trong cái chết của mình vô cùng đau đớn, vô cùng vật vã, cùng cực về thể xác. Cả đời đã khổ, đến khi nhắm mát xuôi tay, lão đâu có hề được bình yên về với đất mẹ. Cái chết của lão Hạc thật bất ngờ - bất ngờ với tất cả, cả Binh Tư và người láng giềng thân thiết là ông giáo; cả mọi người trong làng. Sự bất ngờ của cái chết càng làm cho câu chuyện thêm căng thẳng, thêm xúc động. Mâu thuẫn bế tắc được đẩy lên đến đỉnh điểm và kết thúc một cách bi đát và tất yếu. Lão Hạc không thể tìm con đường nào khác để tiếp tục sống mà không ăn vào tiền của con, hoặc bán mảnh vườn. Lão đành chọn cái chết, đành tự chấp nhận đau khổ để nuôi hi vọng cho người con trai. Với một tính cách như lão Hạc thì cái chết là một tất yếu, cách chết mà lão chọn cũng là một tất yếu. Người đọc bao thế hệ trước cái chết của lão Hạc đều xúc động nghẹn ngào khi phát hiện ra những ý nghĩa sâu sắc ẩn sau cái chết đầy đau đớn về thể xác kia của lão. Lão không chọn cách chết nào khác mà chết như cách chết của một ***** ăn phải bả, bởi với lão đến tận lúc chết, ám ảnh về cậu Vàng, về việc mình đã trót lừa một ***** vẫn day dứt lương tâm lão. Lão đã chọn một cách giải thoát đáng sợ nhưng lại như một cách để tạ lỗi cùng cậu Vàng. Lão Hạc yêu thương ***** như con trai nhưng lại nỡ lừa bán nó để cho thằng Mục giết thịt, thì lão cũng phải tự trừng phạt mình, tự chịu hình phạt như một ***** chết vì ăn phải bả. Lão Hạc chết trong đau đớn, vật vã ghê gớm về thể xác nhưng chắc chắn lão lại thanh thản về tâm hồn vì đã hoàn thành nốt công việc cuối cùng với đứa con trai vẫn “bặt vô âm tín” với hàng xóm láng giềng về tang ma của mình. Lão chết để giữ phần ấm cho con, để giữ lại hi vọng cho người con trai duy nhất đang ở nơi xa của mình. Cái chết của lão là biểu hiện cao nhất của tình phụ tử thiêng liêng, của đức hi sinh cao cả. Cái chết của lão Hạc một mặt góp phần bộc lộ tính cách và số phận của lão Hạc, cũng là một điển hình sắc nét của số phận và tính cách của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám: nghèo khổ, bế tắc, nhưng giàu lòng yêu thương và đức hi sinh cao cả, mặt khác, cái chết của lão Hạc cũng có ý nghĩa tố cáo hiện thực xã hội thực dân nửa phong kiến đã đẩy những con người lương thiện vào bước đường cùng, phải chấp nhận cái chết như cách duy nhất kết thúc cuộc đời nhiều đau khổ. Cái chết của lão cũng giúp những người xung quanh lảo hiểu con người lão hơn, quý trọng và thương tiếc lão hơn. Kết thúc câu chuyện bằng cái chết của nhân vật chính, Nam Cao đã tôn trọng cái lô gích của sự thật cuộc đời, đồng thời làm tăng sức ám ảnh, hấp dẫn và khiến người đọc cảm động hơn. Cái chết của lão Hạc tuy mang đậm màu sắc bi thảm nhưng nó cũng khiến người đọc ấm lòng hơn bởi nó mang lại cho họ niềm tin vào bản chất tốt đẹp của con người trước hoàn cảnh nghiệt ngã của cuộc đời. Đó cũng chính là giá trị nhân văn sâu sắc mà nhà văn gửi gắm trong thiên truyện ngắn này.

Bạn tham khảo nha!

Bình luận (0)
Nguyễn Hoàng Vũ
6 tháng 11 2016 lúc 21:50

Lão chết vì bị bét của Cậu Vàng lây sang.

Bình luận (1)