Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài

Những câu hỏi liên quan
Nguyễn Thị Cẩm Ly
Xem chi tiết
Nguyễn Trọng Dương
22 tháng 9 lúc 16:07
Khi bón phân vào đất, các chất dinh dưỡng từ phân bón sẽ hòa tan trong nước đất thành các ion, sau đó được rễ cây hấp thụ và sử dụng để sinh trưởng và phát triển. Công nghệ nuôi cấy mô tế bào bao gồm các bước chính là tạo mẫu, tạo chồi, tạo rễ, sau đó là nhúng chồi rễ và cuối cùng là trồng cây con trong vườn ươm. Thành tựu của nuôi cấy mô có thể kể đến việc nhân nhanh giống sạch bệnh, tạo ra giống cây trồng có năng suất cao ở thực vật, ứng dụng trong y học để sản xuất dược liệu và thuốc cho con người, và trong nông nghiệp để nhân giống động vật quý hiếm. Keo đất là các hạt khoáng sét và chất hữu cơ có kích thước nhỏ, có điện tích bề mặt và khả năng giữ nước, giữ chất dinh dưỡng. Để cải tạo đất chua, người ta có thể bón vôi để nâng cao độ pH hoặc bón phân hữu cơ để cải thiện cấu trúc đất. Câu 1: Giải thích tại sao khi bón phân vào đất các chất dinh dưỡng lại cung cấp được cho cây? Khi phân bón được bón vào đất, các chất dinh dưỡng trong phân bón sẽ trải qua quá trình hòa tan, phân giải và phản ứng với các chất trong đất, tạo thành các dạng ion hòa tan trong dung dịch đất. Cây trồng có khả năng hấp thụ các chất dinh dưỡng này dưới dạng ion thông qua các lông hút trên rễ. Các ion dinh dưỡng này sau đó sẽ di chuyển vào bên trong cây và tham gia vào các quá trình sinh hóa như quang hợp, hô hấp, tổng hợp protein và cấu tạo nên các bộ phận của cây, từ đó cây lớn lên và phát triển. Câu 2: Trình bày các bước của công nghệ nhân giống bằng nuôi cấy mô tế bào? Công nghệ nuôi cấy mô tế bào là một quy trình nhân giống vô tính trong ống nghiệm, bao gồm các bước chi tiết như sau: Tạo mẫu vật (Tạo mẫu khởi đầu) Chọn và lấy một phần của cây mẹ khỏe mạnh (gọi là mẫu vật) như mắt ngủ, chồi nách, hoặc mô lá.Ví dụ: Để nhân giống khoai tây, người ta sẽ lấy các chồi nhỏ từ củ khoai tây khỏe mạnh. Tạo chồi (Tạo tiền phôi) Đặt mẫu vật vào môi trường nuôi cấy chứa đầy đủ dinh dưỡng và các hormone sinh trưởng thực vật.Ví dụ: Các chồi nhỏ từ mẫu khoai tây sẽ được đặt lên môi trường dinh dưỡng agar, chứa đường, vitamin, khoáng chất và các hormone giúp kích thích sự phân chia tế bào và tạo ra nhiều chồi mới. Tạo rễ (Tạo cây con) Sau khi có đủ chồi, chúng sẽ được chuyển sang môi trường khác để kích thích sự phát triển của rễ.Ví dụ: Chồi khoai tây sẽ được chuyển sang môi trường nuôi cấy có hormone auxin giúp phát triển rễ. Nhúng chồi rễ (Chuyển cây con) Các chồi đã có rễ sẽ được đưa ra khỏi môi trường nuôi cấy vô trùng và cấy vào môi trường vật liệu vô trùng.Ví dụ: Cây khoai tây con sẽ được cấy vào hỗn hợp đất vô trùng, giá thể hoặc dung dịch để rễ thích nghi với môi trường mới. Trồng cây con trong vườn ươm Cây con sẽ được đưa vào điều kiện chăm sóc đặc biệt trong vườn ươm để cây dần thích nghi với điều kiện môi trường bên ngoài và phát triển bình thường.

Câu 3: Một số thành tựu của phương pháp nuôi cấy mô tế bào

👉 Ở con người:

Sản xuất vắc-xin phòng bệnh (ví dụ vắc-xin bại liệt, viêm gan).Tạo ra mô, cơ quan nhân tạo để ghép cho bệnh nhân.Nuôi cấy tế bào gốc để nghiên cứu và chữa bệnh nan y (ung thư, tiểu đường, tổn thương tủy).

👉 Ở động vật:

Tạo ra động vật vô tính (cừu Dolly).Bảo tồn nguồn gen quý hiếm bằng cách nhân bản tế bào.Sản xuất kháng thể đơn dòng dùng trong chẩn đoán và điều trị bệnh.

👉 Ở thực vật:

Nhân nhanh giống cây trồng sạch bệnh (khoai tây, mía, hoa lan, dứa...).Tạo giống cây có đặc tính mong muốn (chịu hạn, kháng sâu bệnh).Bảo tồn các loài thực vật quý hiếm, có nguy cơ tuyệt chủng.

Câu 4: Thế nào là keo đất? Biện pháp cải tạo đất chua?

👉 Keo đất:

Là những hạt vô cùng nhỏ trong đất (có thể tích điện âm hoặc dương), có khả năng hấp phụ và giữ lại các ion dinh dưỡng, nước.Keo đất quyết định độ phì nhiêu của đất vì nó giữ và trao đổi dinh dưỡng cho cây.

👉 Biện pháp cải tạo đất chua:

Bón vôi (CaO, Ca(OH)₂) để trung hòa ion H⁺ và Al³⁺ gây chua.Kết hợp bón phân hữu cơ để tăng độ mùn, cải thiện keo đất.Thực hiện luân canh, trồng cây che phủ để hạn chế rửa trôi dinh dưỡng.


Minh Lệ
Xem chi tiết
ひまわり(In my personal...
15 tháng 7 2023 lúc 12:37

Sự khác nhau về nhu cầu năng lượng và các chất dinh dưỡng ở các độ tuổi, giới tính, tình trạng mang thai và hoạt động thể lực:

- Theo độ tuổi: Nhu cầu năng lượng và các chất dinh dưỡng tăng dần đến tuổi trưởng thành (15 – 19 tuổi) rồi giảm dần khi tuổi về già. Giải thích: Nhu cầu năng lượng và các chất dinh dưỡng tăng dần đến tuổi trưởng thành (15 – 19 tuổi) do ở độ tuổi này cần nhiều năng lượng và nguyên liệu cho hoạt động sinh trưởng và phát triển thể chất mạnh mẽ. Ngược lại, khi tuổi về già, quá trình sinh trưởng và phát triển giảm dần nên nhu cầu năng lượng và các chất dinh dưỡng giảm dần.

- Theo giới tính: Nhu cầu năng lượng và các chất dinh dưỡng ở nam thường cao hơn ở nữ. Giải thích: Nam giới thường có quá trình sinh trưởng và phát triển thể chất mạnh mẽ hơn, hoạt động thể lực cao hơn,… nên cần nhiều năng lượng và nguyên liệu cho hoạt động sống hơn.

- Theo tình trạng mang thai: Nhu cầu năng lượng và các chất dinh dưỡng ở phụ nữ mang thai cao hơn phụ nữ không mang thai. Giải thích: Phụ nữ mang thai cần nhiều năng lượng và các chất dinh dưỡng hơn bình thường để vừa cung cấp cho cơ thể mẹ vừa cung cấp cho thai nhi phát triển khỏe mạnh.

- Theo hoạt động thể lực: Người hoạt động thể lực nhẹ có nhu cầu năng lượng và các cất dinh dưỡng thấp hơn người hoạt động thể lực trung bình và người hoạt động thể lực nặng. Giải thích: Người hoạt động thể lực nặng tiêu hao nhiều năng lượng cho các hoạt động làm việc ở cường độ cao nên nhu cầu năng lượng và các chất dinh dưỡng ở những người này cao hơn.

Đỗ Trọng TÍn
Xem chi tiết
Kiều Đông Du
Xem chi tiết
Đỗ Khánh Chi
6 tháng 12 2019 lúc 8:16
+ Có khả năng di chuyển
+ Tự dưỡng, tổng hợp các chất hữu cơ từ nước và CO2  
+ Có hệ thần kinh và giác quan
+ Dị dưỡng (khả năng dinh dưỡng nhờ chất hữu cơ có sẵn)
+ Không có khả năng tồn tại nếu thiếu ánh mặt trời
Vân Anh Nguyễn Thị
Xem chi tiết
Nguyễn Trần Thành Đạt
Xem chi tiết

Sự khác biệt giữa khoa học về vật chất (vật lí, hóa học,...) và khoa học về sự sống (sinh học):

- Khoa học vật chất (vật lí, hóa học,...) nghiên cứu vật không sống.

- Khoa học sự sống (sinh học) nghiên cứu vật sống.

Venus Blink
Xem chi tiết
Dịch Vương An An
Xem chi tiết
Selina Moon
20 tháng 2 2016 lúc 16:56

Warning risk mothers were obese by eating more fish in pregnancy

Children of mothers who eat too much fish in pregnancy,  amely more than 3 meals / week, with the risk of obesity in the first year of life compared with children whose mothers who ate fish less when brought thai.Cac US scientists have issued a warning on the study published in the Journal of the American Medical Association (JAMA) issued on 15 / 2. to draw conclusions on, the scientists of the University of Crete has conducted analysis of more than 26,000 data pairs of mother and child in the US and many European countries, it was found Au.Ket kids whose mothers ate more than three servings of fish per week during pregnancy is the risk of overweight, obesity than children whose mothers ate fish less. In addition, mothers who ate more fish also increases the risk of other harmful chemicals commonly found in fish, particularly mercury, causing complications for pregnant nhi.Theo scientists, fish and other seafood providing ample nutrition for pregnant women and their unborn babies, to help children develop the brain. However, pregnant women should be noted only eat up to three servings of fish per week, especially those types of fish to eat only natural, not contaminated

Khánh Huyền Nguyễn Thị
20 tháng 2 2016 lúc 17:47

Warning risk mothers were obese by eating more fish in pregnancy Children of mothers who eat too much fish during pregnancy, namely more than 3 meals / week, with the risk of obesity in the first year of life compared with children whose mothers ate less fish during pregnancy. US scientists have issued a warning on the study published in the Journal of the American Medical Association (JAMA) on 15 / 2. to draw conclusions on, the scientists of the University Crete has conducted analysis of more than 26,000 data pairs of mother and child in the US and many European countries Au.Ket found children whose mothers ate more than three servings of fish per week during pregnancy with risk of overweight, higher obesity compared to children whose mothers ate fish less. In addition, mothers who ate more fish also increases the risk of other harmful chemicals commonly found in fish, particularly mercury, causing complications for pregnant nhi.Theo scientists, fish and other seafood providing ample nutrition for pregnant women and their unborn babies, to help children develop the brain. However, pregnant women should be noted only eat up to three servings of fish per week, especially those types of fish to eat only natural, not contaminated.

^-^

 

Thiên Thần Hạnh Phúc
20 tháng 2 2016 lúc 17:58

Warning risk mothers were obese by eating more fish in pregnancy

Children of mothers who eat too much fish during pregnancy, namely more than 3 meals / week, with the risk of obesity in the first year of life compared with children whose mothers ate less fish during pregnancy. US scientists have issued a warning on the study published in the Journal of the American Medical Association (JAMA) on 15 / 2. to draw conclusions on, the scientists of the University Crete has conducted analysis of more than 26,000 data pairs of mother and child in the US and many European countries Au.Ket found children whose mothers ate more than three servings of fish per week during pregnancy with risk of overweight, higher obesity compared to children whose mothers ate fish less. In addition, mothers who ate more fish also increases the risk of other harmful chemicals commonly found in fish, particularly mercury, causing complications for pregnant nhi.Theo scientists, fish and other seafood providing ample nutrition for pregnant women and their unborn babies, to help children develop the brain. However, pregnant women should be noted only eat up to three servings of fish per week, especially those types of fish to eat only natural, not contaminated. ko bít chắc chắn đâu nhahihi

Light Sunset
Xem chi tiết

D

C

C

B

anime khắc nguyệt
16 tháng 3 2022 lúc 8:19

45 c

scotty
16 tháng 3 2022 lúc 8:19

Câu 45: Cơ thể sinh vật được coi là môi trường sống khi:

 A. Chúng là nơi ở của các sinh vật khác.

 B. Các sinh vật khác có thể đến lấy chất dinh dưỡng từ cơ thể chúng.

 C. Cơ thể chúng là nơi ở, nơi lấy thức ăn, nước uống của các sinh vật khác.

 D. Cơ thể chúng là nơi sinh sản của các sinh vật khác.

Câu 46: Vì sao nhân tố con người được tách ra thành một nhóm nhân tố sinh thái riêng:

 A. Vì con người có tư duy, có lao động.

 B. Vì con người tiến hoá nhất so với các loài động vật khác.

 C. Vì hoạt động của con người khác với các sinh vật khác, con người có trí tuệ nên vừa  khai thác tài nguyên thiên nhiên lại vừa cải tạo thiên nhiên.

 D. Vì con người có khả năng làm chủ  thiên nhiên.

Câu 47: Những loài có giới hạn sinh thái rộng đối với nhiều nhân tố sinh thái, thì chúng có vùng phân bố như thế nào?

 A. Có vùng phân bố hẹp.                             B. Có vùng phân bố hạn chế.

 C .Có vùng phân bố rộng.                                    D. Có vùng phân bố hẹp hoặc hạn chế.

Câu 48: Khi nào các yếu tố đất, nước, không khí, sinh vật đóng vai trò của một môi trường?

 A. Khi nơi đó có đủ điều kiện thuận lợi về nơi ở cho sinh vật.

 B. Là nơi sinh vật có thể kiếm được thức ăn.

 C. Khi đó là nơi sinh sống của sinh vật.

 D. Khi nơi đó không có ảnh hưởng gì đến đời sống của sinh vật.