Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài

Những câu hỏi liên quan
Trần thị phương thảo
Xem chi tiết
Nguyen
20 tháng 10 2019 lúc 14:49

Tham khảo:

Người lính nông dân, như một lẽ tự nhiên đã đi vào biết bao bài thơ trong văn học Việt Nam. Hình ảnh của họ hiện lên thật giản dị, gần gũi như Nhớ của Hồng Nguyên, Cá nước của Tố Hữu,… và cũng nằm trong mạch chung ấy, ta không thể không nhắc đến Đồng chí của Chính Hữu. Bài thơ là bài ca ca ngợi tình cảm đồng chí, đồng đội tha thiết, sâu nặng trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt.

Cũng như biết bao bài thơ viết về người lính nông dân khác, đọc câu thơ ta cảm nhận được sự lo toan vất vả, cuộc sống còn nghèo khó, nhọc nhằn của họ:

Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Họ thuộc mọi miền tổ quốc quy tụ về đây, người là vùng đồng bằng nước mặn đồng chua, người vùng trung du đất cày lên sỏi đá, dù ở miền quê nào cũng đều hiện lên sự khó khăn, cực nhọc. Nhưng ở họ đều có một điểm chung ấy là lên đường chiến đấu để bảo vệ quê hương đất nước. Từ anh với tôi đến câu thơ thứ ba đã có bước chuyển hóa mạnh mẽ thành đôi người. Không phải là hai mà là đôi, cho thấy giữa họ đã bắt đầu có sự gắn bó với nhau. Họ cùng nhau về đây, tự nguyện bên với nhau: "Súng bên súng đầu sát bên đầu/ Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ". Họ không chỉ kề vai sát cánh bên nhau trong chiến đấu, trong lí tưởng mà họ còn bên nhau trong những khó khăn, gian khổ của cuộc đời chiến đấu. Cái giá lạnh của núi rừng Việt Bắc có thể làm lạnh cơ thể họ, nhưng nó lại khiến cho tình cảm của những người lính trở nên ấm áp, nồng đậm hơn. Câu thơ nói về cái rét, cái lạnh mà tuyệt nhiên người đọc không thấy hơi lạnh thấu xương, chỉ thấy một cảm giác ấm áp của tình người, của tình đồng đội, san sẻ với nhau những khó khăn. Hai chữ tri kỉ thật thiêng liêng, thật đáng trân trọng, họ không còn dừng lại ở đôi bạn như thuở ban đầu mới gặp, mà trải qua những gian lao, chia sẻ với nhau mọi điều họ đã là đôi tri kỉ, thấu hiểu nhau như hiểu chính mình. Câu thơ thứ bảy: Đồng chí, vang lên là kết tinh đẹp đẽ nhất của thứ tình cảm thiêng liêng đó. Nếu không kể nhan đề thì đây là lần duy nhất từ này xuất hiện trong bài thơ, câu thơ có vị trí quan trọng, bản lề khép mở hai mạch thơ chính của cả bài. Sáu câu thơ đầu là nền tảng, là cơ sở để đến đây được nâng lên thành một tình cảm mới mẻ, sâu sắc: tình đồng chí. Đồng chí ở đây không chỉ là những người gắn bó, yêu thương, quan tâm nhau mà họ còn có chung một mục đích, lý tưởng, ý chí phấn đấu. Bởi vậy hai tiếng đồng chí càng trở nên cao quý, đáng trân trọng hơn.

Ở những câu thơ tiếp theo, tình cảm đồng chí, đồng đội được khắc họa cụ thể, rõ nét hơn. Họ - những người con của quê hương, dù mang trong mình ý chí quyết tâm, thái độ dứt khoát mặc kệ tất cả, gửi lại gia đình, ruộng nương để lên đường chiến đấu nhưng trong lòng họ vẫn không thôi khắc khoải, nhớ nhung về gia đình. Những hình ảnh giếng nước, gốc đa là những hình ảnh gần gũi, thân thương nhất với họ, bởi vậy họ luôn nhớ về chúng. Nỗi nhớ ấy cũng chính là nỗi nhớ về gia đình, về người cha, người mẹ đang ở nhà ngày ngày mong ngóng con. Trong cùng một hoàn cảnh, nên những người lính có sự đồng cảm sâu sắc với nhau. Họ cảm thông, thấu hiểu bằng tình cảm chân thành.

Hình ảnh quê nhà, cùng với sự thấu hiểu, cảm thông giữa những người đồng đội là nguồn năng lượng cổ vũ động viên họ vượt qua mọi khó khăn, thử thách:

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay

Câu thơ đã một lần nữa khắc họa hiện thực chiến tranh gian khổ, khốc liệt mà không ít chiến sĩ đã phải bỏ mạng nơi đất khách quê người. Họ thiếu thốn đủ thứ về vật chất: không giày, áo rách, quần vá. Nhưng họ có thể vượt lên tất cả hiện thực tàn khốc ấy bằng cái nắm tay nồng ấm, nó giống như cái bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi của những người lính lái xe trong thơ Phạm Tiến Duật. Chỉ cái bắt tay thôi mà mang lại sức mạnh to lớn cho những người chiến sĩ, để họ vững lòng tin, chắc tay súng bảo vệ tổ quốc:

Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.

Ba câu thơ cuối có thể coi là bức tranh đồng chí, đồng đội đẹp đẽ nhất về người lính. Trên nền hiện thực khốc liệt, hoang vu lạnh lẽo, những người lính bình tĩnh, chủ động, hiên ngang, nắm chắc cây súng sẵn sàng chiến đấu bảo vệ quê hương. Câu thơ cuối cùng là một hình ảnh thơ thật đẹp đẽ, lãng mạn, nó là biểu tượng cho người lính vừa anh dũng, kiên cường nhưng vẫn có nét thi sĩ, trữ tình, một tâm hồn đầy mơ mộng giữa hiện thực chiến tranh tàn khốc. Đây cũng là vẻ đẹp trữ tình mới mẻ, đặc sắc của thơ ca thời kì kháng chiến đã được Chính Hữu vận dụng tài tình qua hình ảnh trăng và súng mà không hề bó hẹp, khiên cưỡng.

Cả bài thơ toát lên hình ảnh của anh bộ đội cụ Hồ thật giản dị, chân thật. Người đọc còn có thể cảm nhận thấy tình cảm đồng đội gắn bó sâu nặng giữa những người đồng chí, đồng đội ấy. Chính tình đồng chí, sự cảm thông, thấu hiểu với nhau là động lực giúp họ vượt lên hoàn cảnh hiện thực khắc nghiệt. Kết hợp với ngôn ngữ giản dị, giàu sức gợi, hàm súc, tất cả các yếu tố đó đã gây nên sức ám sánh sâu đậm trong lòng người đọc.

#Walker

Khách vãng lai đã xóa
phongquang123 hoang
Xem chi tiết
Hoàng Nhi
Xem chi tiết
nguyenvankhoi196a
27 tháng 11 2017 lúc 22:00

Người lính nông dân đã đi vào thơ ca bằng những hình ảnh chân thật và đẹp trong “Nhớ” của Hồng Nguyên, “Cá nước” của Tố Hữu... nhưng tiêu biểu hơn cả là bài “Đồng chí” của Chính Hữu. Bài thơ được sáng tác vào năm 1948 là năm cuộc kháng chiến hết sức gay go, quyết liệt. Trong bài thơ này, tác giả đã tập trung thể hiện mối tình keo sơn gắn bó, ngợi ca tình đồng chí giữa những người lính trong những năm kháng chiến chống Pháp.

Cảm nhận đầu tiên của chúng ta khi đọc bài thơ là hình ảnh người lính hiện lên rất thực, thực như trong cuộc sống còn nhiều vất vả lo toan của họ. Ngỡ như từ cuộc đời thực họ bước thẳng vào trang thơ, trong cái môi trường quen thuộc bình dị thường thấy ở làng quê ta còn đói nghèo lam lũ:

                      “Quê hương anh nước mặn đồng chua,

                        Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.

Quê hương xa cách nhau, mỗi người mỗi nơi. Người quê ở miền biển “nước mặn đồng chua”, người ở vùng đồi núi “đất cày lên sỏi đá”. Song dù xa cách nhau, dù khác nhau, nhưng đều là quê hương của lam lũ, vất vả, đói nghèo. Chữ nghĩa bình thường mà như đang cựa quậy khi cuộc sống thực đã ùa vào câu thơ đem đến những cảm nhận sâu sắc về quê hương người lính.

Tuy ở những phương trời khác nhau, “chẳng hẹn quen nhau”, nhưng cùng sống và chiến đấu với nhau trong một đội ngũ, những người lính đã tự nguyện gắn bó với nhau:

                      “Súng bên súng đầu sát bên đầu

                       Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”

Cái rét ở rừng Việt Bắc đã nhiều lần vào trong thơ bộ đội chống Pháp vì đó là một thực tế ai cũng nếm trải trong những năm chinh chiến ấy. Có điều lạ là câu thơ nói đến cái rét gợi cho người đọc một cảm giác ấm cúng của tình đồng đội, nghĩa đồng bào. Câu thơ của Chính Hữu đã diễn tả tình đồng chí thật cụ thể và cô đọng, sự gắn bó giữa những người đồng chí cùng chung nhau chiến đấu “súng bên súng”, cùng chung một lí tưởng “đầu sát bên đầu”. Sự gắn bó mỗi lúc lại càng thêm sâu sắc: Là súng bên súng đến đầu bên đầu, rồi thân thiết hơn nữa là đắp chung chăn, thành tri kỉ.

Đoạn thơ đầu của bài thơ kết thúc bằng hai chữ “Đồng chí” làm sáng tỏ thêm nội dung, ý nghĩa của cả đoạn thơ. Nó giải thích vì sao người lính từ bốn phương trời xa lạ, không hẹn gặp nhau mà bỗng trở thành thân thiết hơn máu thịt. Đó là sự gắn bó giữa những người anh cùng chung một lí tưởng chiến đấu, là sự gắn bó kì diệu, thiêng liêng và mới mẻ của tình đồng chí.

Những người lính, những đồng chí ấy ra đi chiến đấu với tinh thần tự nguyện:

                         Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

                        Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

                        Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.

Họ vốn gắn bó sâu nặng với ruộng nương, với căn nhà thân thiết, nhưng cũng sẵn sàng rời bỏ tất cả để ra đi. Nhà thơ đã dùng những hình anh quen thuộc và tiêu biểu của mọi làng quê Việt Nam như biểu tượng của quê hương những người lính nông dân. Giếng nước, gốc đa không chỉ là cảnh vật mà còn là làng quê, là dân làng. Cảnh vật ở đây được nhân cách hoá, như có tâm hồn hướng theo người lính.

Tác giả tả rất thực về cuộc sống của người lính. Nhà thơ không che giấu mà như còn muốn nhấn mạnh để rồi khắc hoạ rõ nét hơn cuộc sống gian lao thiếu thốn của họ. Và phải là người trong cuộc thì mới vẽ lên bức tranh hiện thực sống động về người lính với một sự đồng cảm sâu sắc như vậy:

                        Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh.

                       Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.

                       Áo anh rách vai

                       Quần tôi có vài mảnh vá

                       Miệng cười buốt giá

                       Chân không giày

                      Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.

Thơ ca kháng chiến khi nói tới gian khổ của người lính thường nói rất nhiều tới cái lạnh, cái rét. Đoạn thơ thứ hai này kết thúc bằng câu “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Một sự cảm thông, chia sẻ vừa chân thành, vừa tha thiết làm sao. Người ta bảo bàn tay biết nói là thế. Hình ảnh kết thúc đoạn thứ hai này cắt nghĩa vì sao người lính có thế vượt qua mọi thiếu thốn, gian khổ, xa quê hương, quần áo rách vá, chân không giày, mùa đông lạnh giá với những cơn sốt rét “run người”... Hơi ấm của tình đồng chí truyền cho nhau đã giúp người lính thắng được tất cả. Hình ảnh kết thúc bài thơ chỉ có ba dòng:

                         Đêm nay rừng hoang sương muối

                        Đứng cạnh bên nhau chở giặc tới

                       Đầu súng trăng treo

Sau những câu thơ tự do đang trải dài “Đêm nay rừng hoang sương muối”... câu kết thúc thu vào trong bốn chữ làm nhịp thơ đột ngột thay đổi, dồn nén, chắc gọn, gây sự chú ý cho người đọc. Hình ảnh kết thúc bài thơ đầy thơ mộng, cái thơ mộng của gian khố, hiểm nguy: một cánh rừng, một màn sương, một vầng trăng với hai ngọn súng, hai con người chờ giặc. “Đầu súng trăng treo” cùng là một câu thơ dồn nén và có sức tạo hình, nó đẹp như một biểu tượng chiến đấu của những người lính giàu phẩm chất tâm hồn. Đó cũng là vẻ đẹp trữ tình mới của thơ ca kháng chiến, kết hợp được súng và trăng mà không khiên cưỡng.

Toàn bài “Đồng chí” từ chi tiết cuộc sống đến cảm giác của tác giả đều rất thật, không một chút tô vẽ đắp điểm, không bình luận, thuyết minh. Bài thơ thiên về khai thác đời sống nội tâm, tình cảm người lính, vẻ đẹp của “Đồng chí” là vẻ đẹp của đời sống tâm hồn người lính mà nơi phát ra vầng ánh sáng lung linh nhất là mối tình đồng đội, đồng chí hoà quyện vào tình giai cấp. Hình ảnh “đầu súng trăng treo” ở cuối bài nâng vẻ đẹp người lính lên đến đỉnh cao khái quát trong đó có sự hài hoà giữa hiện thực và lãng mạn đồng thời mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc.


 

Nguyễn Đức An
Xem chi tiết
Phạm Duy Khánh
Xem chi tiết
nmbcnb
Xem chi tiết
không có tên
Xem chi tiết
minh nguyet
1 tháng 8 2021 lúc 21:31

Em tham khảo nhé:

Tình đồng chí là sự thấu hiểu, chia sẻ những tâm tư, nỗi niềm của nhau:

-  Những người lính gắn bó với nhau, họ hiểu những nỗi niềm sâu xa, thầm kín của đồng đội mình:

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Căn nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính

-  Người lính đi chiến đấu để lại sau lưng những gì yêu quý nhất của quê hương: ruộng nương, gian nhà, giếng nước gốc đa…Từ “mặc kệ” cho thấy tư thế ra đi dứt khoát của người lính.

-  Tuy nhiên, sâu xa trong lòng, họ vẫn da diết nhớ quê hương. Ở ngoài mặt trận, họ vẫn hình dung thấy gian nhà không đang lung lay trong gió nơi quê nhà xa xôi. Nói “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” nhưng thực ra chính là nói nỗi nhớ của tiền tuyến gửi về hậu phương.

Nguyễn văn Hải
Xem chi tiết
Thảo Trần
Xem chi tiết
Hquynh
6 tháng 10 2021 lúc 12:03

D

Huỳnh Phúc Nguyên
16 tháng 6 2023 lúc 10:17

D