Những câu hỏi liên quan
trần tuyết đỏ
Xem chi tiết
minh nguyet
8 tháng 5 2021 lúc 22:50

Bạn tham khảo nhé:

XD là nhà thơ của tình yeu và tuổi trẻ, là " ônh=g hoàng của thi ca tình yêu'. Trước Cách mạng, XD nổi tiếng với 2 tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió> Chinha hai tập thơ ấy đã khiến XD trở thành " nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới". Bài thơ " VVọi vàng: nằm trong tập Thơ thơ là bài thơ tiêu biểu cho nhnậ định này của Hoài Thanh

Như Hoài Thanh đã nhận xét “Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Ông đã đem đến cho thơ ca đương thời một luồng gió mới với quan điểm sống mới mẻ đầy sáng tạo, về tình yêu, về sắc xuân, về tuổi trẻ. Xuân Diệu lo sợ ám ảnh về thời gian.

“Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi”

Ông đã xưng “Tôi” thay cho “Ta và ta”. Trong lối viết thơ cũ, luôn bị gò bó về câu chữ, người viết không được xưng danh hay chỉ “Tôi”. Thơ ông  thể hiện nỗi khát khao được sống, tham lam tranh giành tuổi trẻ với thời gian. Vì thời gian qua mau nên ông nghĩ hãy sống hết mình với tuổi trẻ. Xuân Diệu đã sáng tác ra bài thơ Vội Vàng để thể hiện khát vọng của mình.

“Thà một chút huy hoàng rồi vụt tắt

Còn hơn buồn le lói  suốt trăm năm”

Từng câu, từng chữ của Xuân Diệu thể hiện rõ niềm khát khao với cuộc sống; yêu đời và ham muốn cuồng nhiệt. “Hỡi Xuân Hồng ta muốn cắn vào ngươi”. Thơ ông luôn có những từ nghữ sáng tạo, giọng điệu say mê, sôi nổi thể hiện rõ mạch cảm xúc ngôn từ, hình ảnh thơ.

“Ta đắm say cùng Xuân Diệu”

Thơ ca của ông luôn đằm thắm, ru người đọc bằng giọng đầy thắm thía, khiến người đọc như đắm chìm sâu vào từng câu từng chữ.

“Ta muốn ôm cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn

Ta muốn………………………………………………….”

“Ta muốn” điệp từ lặp lại liên tục thể hiện niềm khát khao với cuộc sống luôn thay đổi, chạy đua từng ngày, thời gian như quá tham lam nên cứ trôi nhanh trôi mãi không ngừng, không chờ đợi bất kỳ một ai, muốn trân trọng cuộc sống này.

“Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”

Thời gian có thể tuần hoàn nhưng tuổi trẻ thì chẳng thể nào trở lại vì vậy chúng ta đừng ngại ngùng, đừng sợ sệt, hãy sống với niềm yêu thích, hãy sống tất cả và làm những điều mình mong muốn.

“Anh bảo em xích lại thêm chút nữa

Như thế vẫn còn là xa lắm”

Ông luôn bày tỏ thể hiện rõ tình yêu của mình khao khát được hòa nhập với người mình yêu, khao khát đắm say với tình yêu mãnh liệt.

Thơ ca đương đại luôn tuân thủ nhiều niêm luật, nội dung và hình thức bị gò bó, phải nói về đất nước, lòng yêu quê hương đất nước…theo một lối quy cũ, không phá cách. Nhưng Xuân Diệu đã đem lại cho thơ đương đại một cái nhìn nhận mới về câu từ, so với các nhà thơ mới khác, thể hiện rõ quan niệm sống, tình yêu khát khao với cuộc đời này. “Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong tình trường cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng cùng với Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn rồi trở về hồn ta cung Huy Cận.”

Xuân Diệu đã thể hiện rõ phong cách của riêng mình, một phong cách lạ, độc đáo nhưng trữ tình, đặc biệt khác hẳn so với những nhà thơ mới khác, ông chính là nỗi ám ảnh  về thời gian của thơ ca đương đại. Ông là niềm tự hào, sự cháy bỏng sống hết mình mà chúng ta cần học hỏi. Hãy cứ yêu và sống hết với cuộc đời mình, để mai này không phải luyến tiếc, hối hận vì ngày hôm qua chúng ta chưa làm được.

Bình luận (0)
Quang Nhân
8 tháng 5 2021 lúc 22:50

Bạn tham khảo nhé !

.MB: - Giới thiệu tác giả, tác phẩm

       - Nêu nhận định của Hoài Thanh

II.TB

 1. Giaỉ thích

  - Thơ mới; là trào lưu văn học xuất hiện từ năm 1932-1945, thoát khỏi hệ thống thi pháp của văn học trung đai, mang ý thức hệ tư sản và quan điểm nghệ thuât vị nghệ thuật, diễn đạt cách cảm nhận thế giới bằng hình thức mới, cảm nhận mới, thể hiện sâu sắc cảm xúc mới, giọng điệu mới của tầng lớp trí thức Tây học

- Phải đén Xuân Diệu cái tôi các nhân mới được bôvj lộ 1 ccahs đầy đủ nhất,nhiệt thành nhất, nghệ thuật diến đạt về thế giới đạt đến độ hiện đại nhất, cách tân nhất " xuân diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới"

 - Xuân Diệu có nhiều cách tân về nội dung và nghệ thuật thơ.
- Xuân Diệu có nhiều sáng tạo đem đến cho thơ ca nguồn cảm xúc mới, quan niệm sống mới.

 2. Bình luận

   * Mới về nội dung

 - Cái nhìn nghệ thuật mớ mẻ

  + Con người là trung tâm của thế giới

  + con người cá nhân ham sống, ham yếu và được khẳng định mạnh mẽ, nồng nhiệt 

- Nhìn thế giới trong sự vận động, đổi thay nên XD luôn vội vàng, cảm giác thời gian trôi đi quá mau, không còn kiểu an nhiên tự tại như thi sĩ xưa

- Cái nhìn hướng về hiện tại, lấy hiện tại làm lí tưởng thẩm mĩ

- Thoát khỏi hệ thống ước lệ mang tính thi pháp ước lệ cổ điển, lần đầu tiên XD nhìn con người uộc sống bằng cặp mắt xanh non biếc rờn

* Về NT

  - Thể thơ 7 chữ nhưng mở rộng kéo dãn, thay đổi hình dáng câu thơư

3. Chứng minh qua " Vội vàng"

 - Khổ thơ đầu: Ước mơ kì lạ muốn tắt nắng buộc gió, khẳng định một cái tôi mạnh mẽ khác người.
- Khổ thơ thứ hai: Những hình ảnh thể hiện sự sống, vẻ đẹp của thiên nhiên mùa xuân trong cảm nhận của XD rất khác biệt: đó là thiên đường trên mặt đất.
- Khổ thơ thứ ba: Quan niệm về thời gian tuổi trẻ và tình yêu của con người đối lập với thời gian tuyến tính, tuần hoàn của thiên nhiên. Ý thức về sự hữu hạn, ngắn ngủi của cuộc đời, của tuổi trẻ.
- Khổ thơ cuối: Lời giục giã hãy sống vội vàng

4. Bình luận

-  Nhận xét của Hoài Thanh về Xuân Diệu là hoàn toàn đúng đắn. Khẳng định vị trí đặc biệt của nhà thơ Xuân Diệu trên thi đàn VHVN hiện đại.

III.KB: Khẳng định lại nhận định và giá trị cũng như những đóng góp của Xuân Diệu đới với văn học nước nhà

* bài làm tham khảo

XD là nhà thơ của tình yeu và tuổi trẻ, là " ônh=g hoàng của thi ca tình yêu'. Trước Cách mạng, XD nổi tiếng với 2 tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió> Chinha hai tập thơ ấy đã khiến XD trở thành " nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới". Bài thơ " VVọi vàng: nằm trong tập Thơ thơ là bài thơ tiêu biểu cho nhnậ định này của Hoài Thanh

Như Hoài Thanh đã nhận xét “Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Ông đã đem đến cho thơ ca đương thời một luồng gió mới với quan điểm sống mới mẻ đầy sáng tạo, về tình yêu, về sắc xuân, về tuổi trẻ. Xuân Diệu lo sợ ám ảnh về thời gian.

“Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi”

Ông đã xưng “Tôi” thay cho “Ta và ta”. Trong lối viết thơ cũ, luôn bị gò bó về câu chữ, người viết không được xưng danh hay chỉ “Tôi”. Thơ ông  thể hiện nỗi khát khao được sống, tham lam tranh giành tuổi trẻ với thời gian. Vì thời gian qua mau nên ông nghĩ hãy sống hết mình với tuổi trẻ. Xuân Diệu đã sáng tác ra bài thơ Vội Vàng để thể hiện khát vọng của mình.

“Thà một chút huy hoàng rồi vụt tắt

Còn hơn buồn le lói  suốt trăm năm”

Từng câu, từng chữ của Xuân Diệu thể hiện rõ niềm khát khao với cuộc sống; yêu đời và ham muốn cuồng nhiệt. “Hỡi Xuân Hồng ta muốn cắn vào ngươi”. Thơ ông luôn có những từ nghữ sáng tạo, giọng điệu say mê, sôi nổi thể hiện rõ mạch cảm xúc ngôn từ, hình ảnh thơ.

“Ta đắm say cùng Xuân Diệu”

Thơ ca của ông luôn đằm thắm, ru người đọc bằng giọng đầy thắm thía, khiến người đọc như đắm chìm sâu vào từng câu từng chữ.

“Ta muốn ôm cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn

Ta muốn………………………………………………….”

“Ta muốn” điệp từ lặp lại liên tục thể hiện niềm khát khao với cuộc sống luôn thay đổi, chạy đua từng ngày, thời gian như quá tham lam nên cứ trôi nhanh trôi mãi không ngừng, không chờ đợi bất kỳ một ai, muốn trân trọng cuộc sống này.

“Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”

Thời gian có thể tuần hoàn nhưng tuổi trẻ thì chẳng thể nào trở lại vì vậy chúng ta đừng ngại ngùng, đừng sợ sệt, hãy sống với niềm yêu thích, hãy sống tất cả và làm những điều mình mong muốn.

“Anh bảo em xích lại thêm chút nữa

Như thế vẫn còn là xa lắm”

Ông luôn bày tỏ thể hiện rõ tình yêu của mình khao khát được hòa nhập với người mình yêu, khao khát đắm say với tình yêu mãnh liệt.

Thơ ca đương đại luôn tuân thủ nhiều niêm luật, nội dung và hình thức bị gò bó, phải nói về đất nước, lòng yêu quê hương đất nước…theo một lối quy cũ, không phá cách. Nhưng Xuân Diệu đã đem lại cho thơ đương đại một cái nhìn nhận mới về câu từ, so với các nhà thơ mới khác, thể hiện rõ quan niệm sống, tình yêu khát khao với cuộc đời này. “Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong tình trường cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng cùng với Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn rồi trở về hồn ta cung Huy Cận.”

Xuân Diệu đã thể hiện rõ phong cách của riêng mình, một phong cách lạ, độc đáo nhưng trữ tình, đặc biệt khác hẳn so với những nhà thơ mới khác, ông chính là nỗi ám ảnh  về thời gian của thơ ca đương đại. Ông là niềm tự hào, sự cháy bỏng sống hết mình mà chúng ta cần học hỏi. Hãy cứ yêu và sống hết với cuộc đời mình, để mai này không phải luyến tiếc, hối hận vì ngày hôm qua chúng ta chưa làm được.

Bình luận (0)
Nguyễn Quốc Đạt
Xem chi tiết
Nguyễn Việt Dũng
25 tháng 12 2023 lúc 22:52

a. Nhà thơ Lò Ngân Sủn được tác giả bài viết gọi là “người con của núi” vì những bài thơ của Lò Ngân Sủn khiến người đọc như được khám phá những đỉnh núi xa thơ mộng và mãnh liệt.

b. Câu văn nêu vấn đề chính được bàn luận trong bài: Vậy điều gì đã nuôi dưỡng và bồi đắp nên vẻ đẹp thơ mộng và mãnh liệt ấy trong ông?

c. Những câu thơ được dẫn đóng vai trò minh họa rõ nét thể hiện chủ đề chính được nói đên trong bài Nhà thơ Lò Ngân Sủn thật sự là “người con của núi”.

d. Câu cuối cùng của bài viết tạo nên sự liên kết và giải thích lý do cho những câu mở đầu.

Bình luận (0)
Xem chi tiết

Đoạn văn cơ mà bạn @Trần Đình Thiên

Bình luận (0)
Trần Đình Thiên
2 tháng 8 2023 lúc 17:14

Gia đình là một khái niệm vô cùng quan trọng và linh thiêng trong cuộc sống của chúng ta. Đó không chỉ là một nhóm người cùng chung sống dưới mái nhà êm ái, mà còn là nơi chúng ta tìm thấy sự yêu thương, chăm sóc và nâng đỡ.

Gia đình là nơi chúng ta có thể trở về sau một ngày làm việc căng thẳng, nơi chúng ta có thể thả lỏng tâm trí và tìm thấy sự an lành. Gia đình là nơi chúng ta chia sẻ niềm vui, nỗi buồn, những kỷ niệm đáng nhớ và những thăng trầm trong cuộc sống. Gia đình là nơi chúng ta học hỏi, trưởng thành và phát triển.

Gia đình cũng là nơi chúng ta được yêu thương và quan tâm. Trong gia đình, chúng ta có thể tìm thấy sự chia sẻ, sự thông cảm và sự đồng cảm. Gia đình là nơi chúng ta có thể mở lòng, chia sẻ những suy nghĩ, những ước mơ và những khó khăn trong cuộc sống. Gia đình là nơi chúng ta có thể tìm thấy sự ủng hộ và sự động viên trong những thời điểm khó khăn.

Hạnh phúc thực sự là khi chúng ta có được cả hai, một nơi để về và những người để yêu thương. Khi chúng ta có một gia đình yêu thương, chúng ta cảm nhận được sự an lành và hạnh phúc trong cuộc sống. Gia đình là nơi chúng ta có thể tìm thấy sự bình yên và ổn định. Gia đình là nơi chúng ta có thể tạo dựng những kỷ niệm đáng nhớ và chia sẻ niềm vui cùng nhau.

Vì vậy, chúng ta nên trân trọng và yêu thương gia đình của mình. Chúng ta nên dành thời gian để chăm sóc và xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với gia đình. Vì chỉ có gia đình mới mang lại cho chúng ta sự ấm áp, sự yên bình và hạnh phúc thực sự trong cuộc sống.

Bình luận (0)
BKoy
2 tháng 8 2023 lúc 19:24

Gia đình, nơi bình yên chúng ta có thể quay về sau những mệt mỏi, nơi chứa chan tình yêu thương vô hạn, là nơi tất cả được chữa lành. Theo đánh giá chủ quan, mỗi thành viên trong gia đình gắn kết với nhau bằng quan hệ huyết thống, vợ chồng, nhưng nếu nhìn rộng hơn, nó còn gắn kết với nhau bằng tình yêu thương vô điều kiện. Gia đình đối với ta là nơi để mang đến và trao đi yêu thương, là ngôi trường đầu tiên chúng ta học cách làm người và học cách sống. Mỗi gia đình như một tế bào trong xã hội, nhiều tế bào tạo nên một cơ thể vận hành hoàn chỉnh. Nếu không có gia đình, ta sẽ chẳng còn nơi để về, chẳng còn nơi để yêu thương, để được dạy dỗ. Nếu không có gia đình, còn đâu một xã hội vui tươi, hạnh phúc? Ta không thể lớn lên thành ngưòi nếu không có bố mẹ nuôi dưỡng, từ bé, dòng sữa mẹ nuôi lớn ta, bàn tay cha ấp ủ che chở ta để lớn hơn, chúng ta có thể vững bước. Cũng thật khó để chia sẻ với ai một chuyện buồn, vui nếu không có anh chị em. Trong kho tàng thành ngữ và tục ngữ Việt Nam có câu "Con có cha như như nhà có nóc, con không cha như nòng nọc đứt đuôi".Vì thế gia đình là hai chữ thiêng liêng mà mỗi người trong chúng ta phải nâng niu, trân trọng. Biết hiểu thảo với cha mẹ cảm thông với mọi người.

Bình luận (0)
Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn Dĩnh
18 tháng 2 2017 lúc 11:53

Nỗi khổ khi ngôi nhà bị gió thu phá: cái bay sang sông, trên ngọn cây, rơi xuống lòng mương tơi tả

→Cảnh tượng điêu tàn

- Đỗ Phủ rất nghèo, để có được căn nhà đó phải nhờ vào sự trợ giúp của những người thân thích và bạn bè nay đã bị gió cuốn

- Nỗi khổ của sự bất lực: Hình ảnh lũ trẻ đua nhau cướp những tấm tranh chạy đi, đối diện với hình ảnh ông già chống gậy yếu ớt, bất lực

- Tình cảnh khổ cực khi phải đối mặt với cảnh mưa lạnh: chăn mền ướt rách nát, con thơ đạp lên rách nát thêm, cả nhà run rẩy

- Nỗi khổ trong chiến tranh loạn lạc: Chiến tranh là căn nguyên chính của những nỗi khổ thường nhật kia

     + Vì chiến tranh mà gia đình phải lang bạt, nhà thơ phải từ quan, những đứa trẻ phải đi cướp giật từ người khác

→Thông qua cách miêu tả sinh động, chân thực và hàm súc hiện lên cảnh khốn cùng của tác giả cũng chính là bức tranh chung của xã hội những ngày đen tối

Bình luận (0)
Nguyễn Thanh Hằng
Xem chi tiết
Phạm Thị Diệu Hằng
1 tháng 10 2017 lúc 8:02

Chọn B

Bình luận (0)
Châm Bảo
Xem chi tiết
Quoc Tran Anh Le
Xem chi tiết
Hà Quang Minh
31 tháng 1 lúc 22:45

Đến với Mũi Cà Mau, tác giả liên tưởng đến những nhà thơ, nhà văn đã có duyên nợ với vùng đất này là Nguyễn Tuân, Anh Đức và Xuân Diệu, Nguyễn Ngọc Tư. Những liên tưởng đó đã càng khẳng định sức hấp dẫn và thu hút của con người và mảnh đất nơi đây.

Bình luận (0)
junpham2018
Xem chi tiết
nguyenquocthanh
21 tháng 11 2019 lúc 19:49

Trong thời kỳ đầu (1975 - 1990, trước khi có Hội Văn học Nghệ thuật (VHNT) Dak Lak), các tác phẩm xuất hiện trên văn đàn không nhiều. Ngoài những tác phẩm đăng trên tạp chí Văn nghệ của Ty Văn hóa - Thông tin (ra vài tháng 1 số) còn có những đầu sách khác với số lượng rất khiêm tốn. Tập thơ đầu tiên, xuất bản năm 1977, có tên gọi: “Đất lên màu”, tiếp theo đó là “Lời ru từ những cánh rừng” (tập thơ), “Thú rừng Tây Nguyên” (tập truyện viết cho thiếu nhi của Thiên Lương), “Đất gọi mùa” (tập thơ, xuất bản năm 1984). Năm 1985, hàng loạt tác phẩm ra đời, đó là: “Thơ tặng tháng ba”, “Bài ca Dak Lak”“Buôn Ma Thuột 1975 - 1985”, “Thất thủ Cao Nguyên” (truyện ký của Thiên Lương)…; đặc biệt, lần đầu tiên ở Dak Lak có tập thơ in riêng với tên “Niềm tin” (Vũ Nhật Hồng). Sau đó việc in ấn xuất bản lại lắng xuống. Chỉ còn tạp chí Văn nghệ của Ty Văn hóa - Thông tin là nơi đăng tải tác phẩm của văn nghệ sĩ. Văn học thời kỳ này tập trung chủ yếu về đề tài chiến tranh cách mạng và ca ngợi cuộc sống mới. Đó là khí thế chiến thắng trong tư thế “đạp trên đầu thù” của những người cộng sản; tuyên truyền ý thức giác ngộ cách mạng cho quần chúng nhân dân; phản ánh cuộc đấu tranh chống lực lượng phản động Fulrô; ca ngợi phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa: làm ăn tập thể, cả tỉnh là một công trường lớn với những con người hăng say, nhiệt tình với lao động sản xuất…, mở ra một viễn cảnh tốt đẹp, xán lạn trên vùng đất này.

Năm 1990, Hội VHNT Dak Lak được thành lập, đánh dấu bước ngoặt lịch sử của văn học - nghệ thuật tỉnh nhà. Các cuộc giao lưu tiếp xúc với các văn nghệ sĩ có tên tuổi ở trung ương và các tỉnh bạn được mở rộng, các trại sáng tác và các đợt đi thực tế được tổ chức, các hoạt động sáng tạo văn học, nghệ thuật được vận hành theo đúng tinh thần: Phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân gắn liền với đường lối của Đảng. Nhờ có Hội VHNT, hàng trăm đầu sách văn học nghệ thuật được xuất bản. Đặc biệt từ 2004 trở lại đây, bằng nguồn Quỹ Hỗ trợ sáng tạo văn học, nghệ thuật của ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam phân bổ, số lượng sách xuất bản tăng lên nhanh chóng (chỉ riêng năm 2004 và 2005, số lượng đầu sách được xuất bản cũng tương đương cả giai đoạn 1975 – 1990).

Một số tác phẩm văn học của Dak Lak xuất bản trong những năm qua.  Ảnh: Lan Anh
Một số tác phẩm văn học của Dak Lak xuất bản trong những năm qua. Ảnh: Lan Anh

Từ sau năm 1990, văn học Dak Lak tiếp tục đi sâu vào ca ngợi khí thế hào hùng của dân tộc, ca ngợi cuộc sống mới sinh sôi, vững tin vào tương lai; đấu tranh với những tàn dư của chế độ cũ, đấu tranh với những thế lực phản động đang âm mưu “diễn biến hòa bình”, đề cao tinh thần cảnh giác với những âm mưu và thủ đoạn phá hoại gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, đấu tranh với những tư tưởng lạc hậu…; cổ vũ ý chí cách mạng, kêu gọi mọi người góp sức vào công cuộc xây dựng đất nước, tuyên truyền nhằm nâng cao ý thức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân…

Với 47 dân tộc từ nhiều vùng miền về đây sinh cơ lập nghiệp, Dak Lak trở thành miền đất đa sắc tộc, đa văn hóa, nhiều tiềm năng để khai thác phục vụ việc sáng tạo văn học, nghệ thuật. Chính vì thế, văn học Dak Lak có “tiếng hát của trăm miền”, đậm chất sử thi nhưng không thiếu tính hiện đại, có tính triết luận của xứ Bắc nhưng cũng có sự mộc mạc của phương Nam, có cánh cò chấp chới và cũng có tiếng vó ngựa ô dồn dập… Những người cầm bút ở Dak Lak có ý thức kết hợp tinh hoa văn hóa của các dân tộc, kết hợp việc bảo tồn, phát huy các yếu tố truyền thống tốt đẹp của dân tộc mình hoặc của quê hương bản quán, đồng thời biết giao lưu, tiếp thu các yếu tố tiên tiến để làm giàu cho nền văn hóa trên vùng đất đã được coi là máu thịt của mình. Muốn xây dựng con người, trước hết phải xây dựng chính mình. Ý thức được trách nhiệm đó, những người cầm bút ở Dak Lak đã tự xác định cho bản thân rèn luyện nhân cách, có hướng đi đúng đắn hơn trong quá trình sáng tác để làm sao trong mỗi tác phẩm phải cố gắng mang hơi thở cuộc sống, những tâm tư, tình cảm, khát vọng của con người, góp phần bảo vệ, nuôi dưỡng, làm giàu và làm phong phú thêm nền văn hóa trên mảnh đất đại ngàn, quê hương của những sử thi và huyền thoại đầy bi hùng, của những vị anh hùng mà tên tuổi gắn liền với hai cuộc kháng chiến vĩ đại chống chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc; góp phần vào công tác giáo dục ý thức của quần chúng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ cuộc sống. 

Trong những năm gần đây, Hội VHNT Dak Lak có chủ trương đưa văn học nghệ thuật về với cơ sở thông qua việc tổ chức các chuyến đi thực tế, các trại sáng tác trong tỉnh (mỗi năm có 5-7 chuyến đi thực tế, 2-3 trại sáng tác cho khoảng 100 lượt người) để các văn nghệ sĩ tiếp cận với thực tế cuộc sống, phản ánh cuộc sống và quay trở lại phục vụ cuộc sống. Nhiều tấm gương cá nhân, tập thể điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, trong phong trào xây dựng nông thôn mới, trong việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, trong việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, trong việc xây dựng khối đại đoàn kết để góp phần giữ gìn an ninh trật tự cũng như giúp đỡ nhau làm kinh tế… được phản ánh bằng hình tượng văn học. Những điển hình đó ngày càng được nhân rộng trong đời sống thường ngày của các dân tộc Tây Nguyên.

Hội VHNT Dak Lak cũng hết sức quan tâm, chú trọng đến những cây bút là người dân tộc thiểu số. Kế tiếp lớp cao tuổi như Linh Nga, Kim Nhất là thế hệ trưởng thành qua các trại sáng tác Hạ Xanh và Hương Rừng dành cho thanh thiếu niên vào các mùa hè trong suốt 24 năm qua như Thanh Mai Niê, H’Trem Knul…, mới đây là: H’Wêra Niê, H’Xíu H’mok, H’Phi La Niê, H’Siêu Byă đang độ tuổi 20… Họ là những người sử dụng cách cảm, cách nghĩ của dân tộc mình, văn hóa của dân tộc mình làm tư liệu để phản ánh chính xác và chân thực cuộc sống đồng bào các dân tộc Tây Nguyên trong tác phẩm văn học.

Văn học đã góp phần làm cho đồng bào Tây Nguyên hiểu rõ bản chất phản động của tổ chức phản động Fulrô và cái gọi là "nhà nước Đêga độc lập” để không bị lôi kéo, dụ dỗ, mua chuộc. Văn học đã góp phần để cho đồng bào các dân tộc Tây Nguyên thấy được các giá trị văn hóa của ông bà để lại, từ đó có ý thức giữ gìn, phát huy; đồng thời cũng thấy được những hủ tục lạc hậu để từ đó mà xóa bỏ. Văn học cũng đã góp phần cho đồng bào Tây Nguyên thấy được phương pháp làm kinh tế bằng việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất không chỉ là việc xóa đói giảm nghèo mà còn vươn lên làm giàu cho gia đình và xã hội. Văn học đã tác động sâu sắc vào tâm tư, tình cảm của con người để đồng bào các dân tộc Tây Nguyên tự hào với dân tộc mình, quê hương mình... 

Mặc dù chưa có tác phẩm nào được đánh giá là “đúng tầm” so với yêu cầu đối với văn học của một vùng đất, chưa có tác giả nào được coi là “hiện tượng” trong suốt quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Dak Lak từ 1975 đến nay, nhưng có khá nhiều tác giả ở Dak Lak được bạn bè văn chương cả nước biết đến, nhiều tác phẩm có độ lan toả rộng, được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam, của Liên hiệp các Hội Văn học - Nghệ thuật Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam, được chọn vào các tuyển tập văn thơ...

Đội ngũ sáng tác văn thơ ở Dak Lak vẫn tiếp tục vươn lên hoà mình với cuộc sống, đoàn kết và sáng tạo ngày một sung sức cả về số lượng lẫn chất lượng. Lớp người đi trước có khoảng lùi cần thiết trong quá trình lắng đọng để nói ra những điều mà trước đây chưa kịp nói hoặc chưa thật chín; các cây viết lớp sau cũng bước vào giai đoạn sung mãn và đã phần nào hoà nhập được, nhìn nhận được cuộc sống với đa chiều, đa góc cạnh, mang sức bật của tuổi trẻ trong quá trình sáng tác; những cây bút chưa rõ định hình về bút pháp và phong cách sáng tác có điều kiện học tập, đang được hướng dẫn, bồi dưỡng có bài bản, được tiếp cận thông tin nhanh chóng nhờ công nghệ hiện đại sẽ là những nhân tố kế cận sự nghiệp sáng tạo văn học, cũng có số lượng đông đảo, đủ để chúng ta có quyền hy vọng văn thơ Dak Lak ngày một góp phần nhiều hơn trong việc hướng con người đến chân - thiện - mỹ.

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa
junpham2018
21 tháng 11 2019 lúc 19:55

trước năm 1975 bạn ơi

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa
nguyenquocthanh
21 tháng 11 2019 lúc 19:56

Bước vào khu vườn thơ tình yêu của Đặng Bá Tiến, người đọc bắt gặp ngay chân dung người tình hiện lên thật đẹp và lộng lẫy. Đây là hình ảnh người yêu kiều diễm dưới trăng đêm: "Không gì tuyệt vời hơn trăng giữa tháng/ trời sinh ra trăng để chiều những người tình/ dưới trăng em tột cùng diễm tuyệt/ ánh mắt nụ cười… tất thảy lung linh" (Trăng). Nhà thơ mong chờ mỗi ban mai về để được nhìn thấy người yêu trên đường trong ngọn gió "bồng bềnh mái tóc", được nhìn nụ cười quyến rũ và đắm say. Dường như tâm hồn và nhịp tim của thi nhân chưa bao giờ thôi "dan díu" với người tình: "Mỗi ban mai/ em thả bước trên đường/ nắng bịn rịn má hồng/ gió bồng bềnh mây tóc/ eo thon ảo dưới áo hồng phơ phất/ một chút cười thôi / mà đuôi mắt buộc bao người" (Mỗi ban mai).

 Tập thơ
Tập thơ "Lá chiêm bao".

Có thể nói rằng, chân dung người tình là hình tượng trung tâm để từ đó Đặng Bá Tiến ngân lên nhiều cung bậc cảm xúc về tình yêu đôi lứa. Dường như trong cuộc đời này, có bao nhiêu nốt trầm xao xuyến dấu yêu là có bấy nhiêu sắc thái biểu cảm trong tình yêu. Đọc “Lá chiêm bao”, ta bắt gặp một Đặng Bá Tiến đắm say và tha thiết vô cùng trong tình yêu. Anh xem trái tim mình chính là quả địa cầu mà ở bất kỳ nơi đâu đều có thể lắng nghe hơi thở người mình yêu dấu: "Em đừng ngại xa/ em chớ sợ xa/ nếu người yêu em có trái tim tựa quả địa cầu trong lồng ngực/ ngàn cây số anh vẫn nghe hơi thở em khi trở mình thao thức/ giữa lòng anh/ em luôn giữa lòng anh" (Khi anh yêu). Anh nồng nàn, mãnh liệt không đến độ vồ vập, nhưng quyết liệt khi nghi ngờ lời hẹn ước kiếp sau. Anh hiện sinh và khao khát được yêu, được sống, được đa đoan ngay trong chính kiếp này: "Kiếp sau còn có nhân gian?/ kiếp sau người có đa đoan với người?/ kiếp sau còn đất? còn trời?/ kiếp sau người có trao người nụ hôn ?" (Kiếp sau). Anh đắm say, tha thiết bao nhiêu thì cũng đau lòng bấy nhiêu khi nhận ra nỗi đau tình ái hiện về trong cơn mưa hôn kỷ niệm: "Bây giờ ôm nỗi niềm xưa/ tôi nằm mơ lại cơn mưa một chiều/ tình say khi đã dâng triều/ mưa hôn em đổ bao nhiêu cho vừa" (Mưa hôn).

Ngoài cảm xúc nhớ thương và nỗi cô đơn trong tình yêu, tập thơ “Lá chiêm bao” cũng ngập tràn tâm trạng mất mát, hoài niệm và nuối tiếc. Đặng Bá Tiến viết về nỗi mất mát, cô đơn thật đáng yêu, anh không chì chiết, đay nghiến mà chỉ bịn rịn, tưởng tiếc bằng một cảm xúc nhẹ nhàng và rất mực thành tâm.

Phần lớn ngôn ngữ nghệ thuật sử dụng trong “Lá chiêm bao” được biểu đạt khá trực cảm, chân mộc thông qua một cảm xúc mãnh liệt từ điệu hồn tác giả. Trong tình yêu, những cung bậc cảm xúc được nhà thơ bung tỏa chân thành, không quá cầu kỳ trong lối biểu đạt. Mong ngóng được sớm gặp người tình, Đặng Bá Tiến cứ muốn "hô mưa gọi gió", thể hiện khát vọng cá nhân tha thiết, muốn tước đoạt cả quyền năng vô biên của tạo hóa. Mặt trời là của anh mà vầng trăng cũng là "của riêng ta đấy". Chính cách diễn đạt mới mẻ ấy đã mang đến cho thơ anh một vóc dáng riêng về mặt cảm xúc là cực mạnh, cực điểm: "Anh rung ngày cho mặt trời chóng rụng/ cho vầng trăng sớm ngự đỉnh trời/ trăng của muôn người và của riêng ta đấy/ giờ hẹn hò đã tới em ơi!" (Trăng).  Dù có lúc trực cảm, mạnh mẽ khi diễn đạt những yêu thương, nhớ nhung, mất mát trong tình yêu, song thơ tình Đặng Bá Tiến vẫn có những gam màu ngôn ngữ dễ thương và giàu sắc thái biểu cảm qua một số hình tượng thơ thật đẹp và lãng mạn. Hãy nghe anh so sánh tháng giêng và em đồng hành như một nỗi khát khao vẫy gọi ngàn đời: "Tháng Giêng là gái chưa chồng/ em như cây cải trổ ngồng rực hoa !" (Tháng Giêng). Hãy nghe anh say đắm và "bồng bềnh theo cảm xúc" trong một "Đêm Lào Cai" lãng đãng, nồng nàn: "Lào Cai/ rượu thơm tràn ngực ai/ mắt trẫm mình trong mắt/ Em như là mùa gặt/ ta chờ từ mạ non..." (Đêm Lào Cai).

Thơ tình yêu, cứ đọc mà mê, cứ đọc mà say, cứ đọc mà nhớ... Với tập “Lá chiêm bao” của nhà thơ Đặng Bá Tiến, điều đó hẳn đúng lắm thay!

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa