Những câu hỏi liên quan
Nguyễn Thị Ánh Vân
Xem chi tiết
My Huyen
Xem chi tiết
Amee
22 tháng 3 2021 lúc 13:09

Dưới trí tuệ của dịch giả Đoàn Thị Điểm – người “tài sắc nương tử xưa hiếm nay không, xuất khẩu thành chương, bản chất thông minh” mà tuyệt tác Hán ngôn “Chinh phụ ngâm khúc” của Đặng Trần Côn một lần nữa thăng hoa. Những năm 40 của thế kỉ XIV, bão táp liên miên, loạn lạc khắp nơi, người chinh phụ tiễn chinh phu ra trận… đã được phục dựng lại dưới những vần thơ “lâm li, tuấn nhã”, đặc biệt trong đoạn trích 8 câu đầu của “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”. Đoạn trích ngắn nhưng Đoàn Thị Điểm đã làm nổi bật lên hình ảnh người chinh phụ trong nỗi cô đơn lẻ bóng chờ ngày đoàn tụ.

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước

Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.”

Hai câu thơ đầu đoạn trích là bóng hình ngóng trông của người chinh phụ. Hình ảnh ấy được thể hiện qua các động từ “dạo”, “rủ”, “thác”, “gieo từng bước” bởi nó tạo nên sự đối lập giữa bên ngoài thanh tịnh, nhàn nhã với nội tâm cồn cào, mòn mỏi đếm từng bước chân. Hơn nữa, tính từ “vắng”, “thưa” tôn lên sự lẻ loi, cô độc, bóng chiếc của người phụ nữ trong đêm. Như vậy, tác giả đã sử dụng ngoại cảnh để thể hiện tâm trạng nhân vật.

Tiếp đó, người chinh phụ dường như hướng ra bên ngoài chờ một tin báo đủ mạnh để an lòng:

“Ngoài rèm thước chẳng mách tin”

Chim thước là loài chim khách, nó vốn thuộc về bầu trời cao rộng. Ngóng tin từ chim thước thật vô vọng, mơ hồ. Từ phủ định “chẳng” như khẳng định thêm sự tuyệt nhiên không có lấy một âm thanh tin tức nào. Vậy nên, người phụ nữ hướng vào không gian bên trong, trò chuyện với cây đèn, tìm kiếm chút tâm tình, thỏa mãn sự cô đơn:

“Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?

Đèn có biết dường bằng chẳng biết,

Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.

Buồn rầu nói chẳng nên lời,

Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”

Đoạn thơ khiến ta liên tưởng tới hình ảnh Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ khi chọn cách chỉ vào cái bóng trên tường và nói đó là cha Đản để con trai bớt phần tủi hờn. Đó dường như là cách người phụ nữ gửi gắm nỗi nhớ thương chồng. Gửi tâm sự vào đèn, người chinh phụ trong bài thơ có lẽ cũng đang da diết nhung nhớ lang quân. Bởi người phụ nữ đã gọi “đèn” và xưng “thiếp”. Mặt khác, hình ảnh đèn khiến ta liên tưởng tới những bài thơ, bài ca dao xưa:

“Khăn thương nhớ ai,

Khăn chùi nước mắt.

Đèn thương nhớ ai,

Mà đèn không tắt.

Mắt thương nhớ ai,

Mắt ngủ không yên.”

Ánh đèn như tôn thêm vẻ vắng lặng đơn côi, mỏi mòn chờ đợi cả ngày dài và thổn thức suốt đêm thâu. Nhưng đèn là vật vô tri, đèn không thể giãi bày tâm sự với người phụ nữ, vậy nên nhân vật trữ tình càng thêm “buồn rầu”, không thiết nói năng. Cái cảnh “nói chẳng lên lời” như là bất lực, uất nghẹn lắm. Đoạn thơ còn xuất hiện thêm hình ảnh sóng đôi “hoa đèn” - “bóng người”. Thay vì đèn, tác giả lại nói “hoa đèn” để liên tưởng tới sự tàn lụi, cạn dầu tương đương với cảnh người phụ nữ đợi chờ tới héo hon, thanh xuân qua đi từng ngày. Từ hành động, ý thơ dường như lại khắc họa sự bất động. Đặc biệt, hình ảnh người phụ nữ bên ngọn đèn dầu còn kết đọng ở cảm xúc “bi thiết”, “khá thương”. Nỗi buồn đau, cô đơn, lắng lo, mong ngóng, bất lực, nghẹn ngào… tất cả như đan xen, cuộn trào từng đợt trong lời than vãn “lòng thiếp riêng bi thiết” và rồi lịm dần “buồn rầu chẳng” và “khá thương”. Cảm xúc có sự vận động từ thương chồng đến thương mình, từ than thở tới tuyệt vọng.

Tóm lại, đoạn trích 8 câu đầu trong “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” – Đoàn Thị Điểm là tiếng nói xót thương cho số phận người phụ nữ trong chiến tranh và đồng cảm với khát vọng sum vầy của họ. Cho đến tận bấy giờ, lần đầu tiên mới có những tấm lòng chân chính biết thương cảm cho những người phụ nữ nhỏ bé. Đó cũng là tinh thần nhân văn, nhân bản cao đẹp của tác giả.

 

Bài văn mẫu 2:

Đặng Trần Côn là tác giả sống vào nửa đầu thế kỉ XVIII, tài nghệ văn chương của ông lừng thiên hạ vời nhiều tác phẩm nổi tiếng, một trong số ấy có "Chinh phụ ngâm”. Tác phẩm "Chinh phụ ngâm” thuộc thể loại ngâm khúc, có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” được trích trong tác phẩm đã thể hiện nỗi nhớ mong người chồng chinh chiến cùng với khát khao hạnh phúc của ngưởi chinh phụ. Đặc biệt qua tám câu thơ đầu của đoạn trích, người đọc dễ dàng cảm nhận được tình cảnh trống vắng và tâm trạng của nhân vật trữ tình.

Mở đầu đoạn trích, tác giả đã miêu tả tâm trạng của người chinh phụ, thông qua những hành động:

"Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,

Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.”

Đây là lời than thở triền miên, da diết của người phụ nữ có chồng ra trận. Tác giả đã dùng bút pháp miêu tả nội tâm qua ngoại hình, hành động lặp đi lặp lại không mục đích của người chinh phụ và dáng vẻ buồn rầu, ủ ê không nói lên lời, trong hiên vắng thẫn thờ đợi chồng về. Thời gian đã là chiều tối, không gian là một khoảng hiên vắng lặng cùng với cử chỉ “gieo từng bước” như khắc họa rõ nét cảm giác cô đơn, quạnh vắng của người chinh phụ. Với một khung cảnh như vậy, gợi cho ta sự sum họp, đầm ấm của gia đình, nhưng giờ đây chỉ có mình người phụ nữ lẻ loi, cô độc trong khoảng không trống vắng, không có người chồng bên cạnh. Cảm giác trống trải bủa vây người chinh phụ làm cho nàng gieo từng bước chân một cách mệt mỏi và chậm rãi. Mỗi bước chân như chất chứa nỗi lòng, nỗi ưu tư phiền muộn của người phụ nữ xa chồng, đang mong ngóng từng ngày chồng  trở về. Người phụ nữ như quặn thắt trong lòng khi chỉ nghe được tiếng bước chân âm thầm của mình.

"Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen”

Hành động buông rèm rồi cuốn lên nhiều lần đó là hành động lặp đi, lặp lại không có mục đích rõ ràng, thể hiện một tâm trạng tù túng, nóng ruột. Cảm giác vừa nhớ nhung da diết, vừa lo lắng sốt ruột cho sự an nguy của chồng mình đang đi chinh chiến phương xa. Nỗi nhớ cùng với tâm trạng mong ngóng đợi tin của chồng dồn nén ở người chinh phụ, tạo ra một cảm giác cô đơn buồn khổ ở nhân vật trữ tình. Chẳng những thế, càng mong ngóng chờ đợi thì kết quả lại chẳng được gì.

"Ngoài rèm thước chẳng mách tin”

"Thước” là loài chim báo tin lành, báo tin người đi xa đã trở về. Thế mà ngay lúc này, con chim Thước lại im bặt, làm cho nỗi nhớ, nỗi khắc khoải mong chờ trong lòng người chinh phụ lại tăng lên gấp bội. Chim thước chẳng mách tin, người chồng yêu thương vẫn chưa trở về, nỗi đau đớn âm thầm nhưng quá lớn ấy khiến nàng khao khát có sự đồng cảm. Nhưng trong khung cảnh đau buồn này thì chỉ có ngọn đèn leo lét làm bạn với nàng.

"Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?”

Tâm trạng quá cô đơn đã làm cho nàng phải thốt lên câu hỏi: Liệu ngọn đèn dầu mờ ảo ấy có thấu chăng nỗi lòng của nàng, có chiếu sáng được đến tâm can đang mong nhớ chồng của nàng, Liệu ngọn đèn có thấu hiểu được sức nặng của nỗi cô đơn, của sự nhung nhớ lại dồn cả lên nàng. Câu hỏi tu từ như là tâm trạng của người chinh phụ, câu hỏi nhưng không có câu trả lời, nhân vật trữ tình hỏi ngọn đèn - một vật vô tri vô giác - nhưng dường như đang muốn được bày tỏ nỗi lòng của mình. Đó chính là lời than thở, hi vọng trong nàng, nỗi khắc khoải đợi chờ đã trở nên day dứt không yên.

“Đèn có biết dường bằng chẳng biết

Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi”

Điệp ngữ bắc cầu "Đèn biết chăng - đèn có biết” diễn tả nỗi tù túng, nỗi buồn dài lê thê của người chinh phụ. Hình ảnh "đèn” đã được lặp lại hai lần, nhân vật trữ tình đã giải tỏa tâm sự với ngọn đèn, nhưng một vật vô tri vô giác như vậy thì làm sao hiểu rõ được cảm giác của người chinh phụ. Nhân vật trữ tình lại ôm nỗi cô đơn, buồn bã một mình. Nhìn ngọn đèn leo lét trong màn đêm tĩnh mịch như vậy, lòng người chinh phụ càng thêm quặn thắt. Ngọn đèn là hình ảnh gợi cảm giác sum họp, ấm áp, càng khắc sâu nỗi cô đơn, buồn bã, khắc khoải trong lòng người.

"Buồn rầu nói chẳng nên lời,

 Hoa đèn kia với bóng người khá thương”

Kết thúc tám câu thơ là hình ảnh "hoa đèn”. “Hoa đèn” là đầu bấc đèn dầu đã cháy như than nhưng được nung đỏ lên trông như hoa. Hình ảnh “ngọn đèn, hoa đèn”, gợi cho ta liên tưởng đến hình ảnh "đèn không tắt" trong bài ca dao:

"Đèn thương nhớ ai

Mà đèn không tắt?”

Trong im lặng dằng dặc, dưới ánh đèn đêm thăm thẳm, chinh phụ trẻ chỉ có biết trò chuyện với cái bóng của chính mình, với ngọn đèn, gợi cho ta cảm nhận được nỗi cô đơn khắc khoải và vô vọng của người chinh phụ.

Qua tám câu thơ đầu, người đọc đã cảm nhận được những tâm trạng của người chinh phụ. Khung cảnh quạnh hiu, trống vắng cùng với những động từ miêu tả hành động để thể hiện tâm trạng, điệp ngữ bắc cầu đã khắc họa sự ưu tư, phiền muộn và cô đơn của nhân vật trữ tình khi nhớ về người chồng chinh chiến của mình.

 

Bình luận (0)
Amee
22 tháng 3 2021 lúc 13:10

Sơ đồ tư duy phân tích 8 câu cuối Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

Bình luận (0)
minh nguyet
22 tháng 3 2021 lúc 16:00

Tham khảo:

Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ trích trong “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn là một áng thơ hay thuộc thể ngâm khúc, hơn hết đoạn trích còn để lại cho hậu thế một giá trị hiện thực vô cùng sâu sắc. Đặc biệt chính là tâm trạng hiu quạnh cô đơn của người chinh phụ trong 8 câu thơ đầu tiên.

Hai câu thơ đầu, Đặng Trần Côn tâm trạng của người chinh phụ đã được khắc họa qua các hình động:

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,

Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.”

Tiếng than đầy oán trách của người phụ nữ vắng bóng chồng, khi chồng phải ra chiến trận, chính cái hành động lặp đi lặp lại “gieo từng bước”, “rèm thưa rủ” việc miêu tả các hành động ngoại hình mà dụng ý chính của tác giả chính là miêu tả tâm trạng cô đơn trống vắng, nỗi nhớ da diết chồng của người chinh phụ. Khung cảnh là buổi chiều tối, với một hiên vắng hành động lặp đi lặp lại “gieo từng bước” đầy mệt mỏi như muốn nói lên cái chờ đợi cái trống vắng lặp đi lặp lại của người phụ nữa xa chồng. Hành động gieo từng bước như nỗi lòng nặng trĩu mong ngóng ngày người chồng trở về.

“Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen” chiếc rèm cuốn lên hạ xuống như vô thức thể hiện một trạng thái tâm lí buồn bã, chán chường. Cảm giác bất an lo lắng cho người chồng ngoài chiến trận vừa là nỗi nhớ tha thiết, cảm xúc dồn nén càng làm cho người chinh phụ trở nên buồn bã, ngóng trông nhiều hơn, nhưng:

“Ngoài rèm thước chẳng mách tin”

Chờ đợi nhưng chẳng thấy tin? Chim “thước” là biểu tượng của điềm lành  sẽ có người đi xa trở về. Thế nhưng chả thấy hình bóng của chim thước để baso tin nỗi nhớ đầy rẫy khắc khoải, ngóng chờ một tín hiệu dù chỉ là nhỏ nhoi nhưng không có càng làm người nỗi buồn người chinh phụ càng tăng lên bội phần. Nhưng trong khung cảnh đau buồn này thì chỉ có ngọn đèn leo lét làm bạn với nàng.

“Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?”

Sự cô đơn đến cùng cực đã làm cho người chinh phụ phải  thốt lên “Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?” Ngọn đèn có thể soi sáng nỗi lòng của nàng người phụ nữ không, có rọi sáng được sự nhớ nhung của nàng dành cho chồng, hai câu thơ tiếp theo lại càng diễn tả thêm sự ưu phiền của người chinh phụ:

“Đèn có biết dường bằng chẳng biết

Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi”

Tác giả sử dụng điệp ngữ “Đèn biết chăng - đèn có biết” càng làm cho nỗi cô đơn của người phụ nữ kéo dài ra, triền miên ra. Hình ảnh ngọn đèn được sử dụng hai lần như thể là nỗi trút bầu tâm sự của nhân vật trữ tình , ngọn đèn là vật vô tri nó chăng thể hiểu được nỗi lòng của người phụ nữ, nó chỉ có tasc dụng là giải toải tâm trạng cho người chinh phụ mà thôi. Nhìn ngọn đèn  heo hắt trong đêm tối càng làm lòng người thêm ưu phiền mà thô. Ngọn đèn sáng ấm áp thể hiện cái đối nghịch của sự cô đơn, rầu rĩ:

“Buồn rầu nói chẳng nên lời,

Hoa đèn kia với bóng người khá thương”

Câu thơ thứ tám kết lại là hình ảnh hoa đèn, như thế nỗi nhớ nhung cứ đọng lại, dồn nén lại, đỏ rực như bấc đèn nung nóng, ánh sáng lên như hoa.

Trong bóng đêm đen như mực người chinh phụ chỉ biết trút bầu tâm sự với ngọn đèn, với cái bóng của chính mình in lên tường cho vơi đi nỗi cô đơn nỗi nhớ chồng da diết mà thôi.

Tám câu thơ đầu trong đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” đã cho người đọc thấy được tâm trạng của người phụ nữ, cùng khung cảnh hiu quạnh, cô đơn của người phụ nữ phải xa chồng, tất cả do chiến tranh đã khiến những cặp vợ chồng son phải xa nhau trong nhớ thương, các biện pháp tu từ đã khắc họa nên bao nỗi ưu sầu, nỗi cô đơn trống trải của những người ở lại chờ tin người đi xa.

Bình luận (0)
Vat Game
Xem chi tiết
Linh khánh
Xem chi tiết
PHẠM THỊ THU	HẰNG
Xem chi tiết
✎﹏l๏gคภlєє︵²ᵏ¹⁰
27 tháng 3 2022 lúc 19:55

"Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ" là một trong những trích đoạn hay nhất trong tác phẩm "Chinh phụ ngâm" của Đặng Trần Côn. Đoạn trích tựa một khúc ca đầy xót xa, đau đớn về tình cảnh éo le, cô độc của người chinh phụ khi chồng biệt tích nơi chiến trường xa xôi. Đặc biệt, trong tám câu thơ đầu tiên của bài, hình ảnh người chinh phụ hiện lên rõ nét với nỗi nhớ, sự cô đơn, trống trải và sự trông mong trong vô vọng.

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa
Đặng Thị Phương Anh
Xem chi tiết
Mai Thị Xuân Bình
1 tháng 2 2016 lúc 8:15

Chinh phụ ngâm được viết bằng chữ Hán, do tác giả Đặng Trần Côn sáng tác vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII. Đây là thời kì vô cùng rối ren của xã hội phong kiến. Chiến tranh xảy ra liên miên, hết Lê-Mạc đánh nhau đến Trịnh-Nguyễn phân tranh, đất nước chia làm hai nửa. Ngai vàng của nhà Lê mục ruỗng. Nông dân bất bình nổi dậy khởi nghĩa ở khắp nơi. Nhân dân sống trong cảnh loạn li nồi da nấu thịt, cha mẹ xa con, vợ xa chồng. Văn học thời kì này tập trung phản ánh bản chất tàn bạo, phản động của giai cấp thống trị và nỗi đau khổ của những nạn nhân trong chế độ thối nát ấy. Tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn ra đời đã nhận được sự đồng cảm rộng rãi của tầng lớp Nho sĩ. Nhiều bản dịch xuất hiện, trong đó bản dịch sang chữ Nôm của bà Đoàn Thị Điểm được coi là hoàn hảo hơn cả, thể hiện thành công lẫn trị nội dung và nghệ thuật của nguyên tác.

 

Nội dung Chinh phụ ngâm phản ánh thái độ oán ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa, đặc biệt là đề cao quyền sống cùng khao khát tình yêu và hạnh phúc lứa đôi của con người. Đó là điều ít được nhắc đến trong thơ văn trước đây.

 

Người chinh phụ vốn dòng dõi trâm anh. Nàng tiễn chồng ra trận với mong muốn người chồng sẽ lập được công danh và trở về cùng với vinh hoa, phú quý. Nhưng ngay sau buổi tiễn đưa, nàng sống trong tình cảnh lẻ loi, ngày đêm xót xa lo lắng cho chồng. Thấm thìa nỗi cô đơn, nàng nhận ra tuổi xuân của mình đang qua đi và cảnh lứa đôi đoàn tụ hạnh phúc ngày càng xa vời. Người chinh phụ rơi vào tâm trạng cô đơn đến cùng cực. Khúc ngâm thể hiện rất rõ tâm trạng cô đơn ấy.

 

Đoạn trích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (từ câu 193 đến câu 228) miêu tả những cung bậc và sắc thái khác nhau của nỗi cô đơn, buồn khộ ở người chinh phụ đang khao khát được sống trong tình yêu và hạnh phúc lứa đôi.

 

Đoạn trích có thể chia làm ba đoạn nhỏ:

 

- Đoạn 1: Từ Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước… đến Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng: Nỗi cô đơn của người chinh phụ trong cảnh lẻ loi; cảm giác về thời gian chờ đợi; cố tìm cách giải khuây nhưng không được.

 

- Đoạn 2: Từ Lòng này gùi gió đông có tiện… đốn Sâu tường kêu vắng chuông chùa nện khơi: Nỗi nhớ thương người chồng ở phương xa; cảnh vật khiến lòng nàng thêm sầu thảm.

 

- Đoạn 3: Từ Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc… đến Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau!. Cảnh vật xung quanh khiến lòng người chinh phụ rạo rực niềm khát khao hạnh phúc.

 

Sau buổi tiễn đưa, người chinh phụ trở về, tưởng tượng ra cảnh chiến trường đầy hiểm nguy, chết chóc mà xót xa, lo lắng cho chồng. Một lần nữa nàng tự hỏi vì sao đôi lứa uyên ương lại phải chia lìa? Vì sao mình lại rơi vào tình cảnh lẻ loi? Bấy nhiêu câu hỏi đều không có câu trả lời. Tâm trạng băn khoăn, day dứt ấy được tác giả thể hiện sinh động bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí tinh tế. Có thể nói, sầu và nhớ là cảm xúc chủ đạo trong đoạn thơ này.

 

Trong mười sáu câu thơ đầu, tác giả tập trung miêu tả hành động và tâm trạng của người chinh phụ:

 

Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng ?
Đèn có biết dường bằng chẳng biết?
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương!

 

Nàng lặng lẽ Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước trong nỗi cô đơn đang tràn ngập tâm hồn. Nhịp thơ chậm gợi cảm giác như thời gian ngưng đọng.

 

Giữa không gian tịch mịch, tiếng bước chân như gieo vào lòng người âm thanh lẻ loi, cô độc. Nỗi nhớ nhung sầu muộn và khắc khoải mong chờ khiến bước chân người chinh phụ trở nên nặng trĩu. Nàng bồn chồn đứng ngồi không yên, hết buông rèm xuống rồi lại cuốn rèm lên, sốt ruột mong một tiếng chim thước báo tin vui mà chẳng thấy.

 

Nàng khát khao có người đồng cảm và chia sẻ tâm tình. Không gian im ắng, chỉ có ngọn đèn đối diện với nàng. Lúc đầu, nàng tưởng như ngọn đèn biết tâm sự của mình, nhưng rồi lại nghĩ: Đèn có biết dường bằng chẳng biết, bởi nó là vật vô tri vô giác. Nhìn ngọn đèn chong suốt năm canh, dầu đã cạn, bấc đã tàn, nàng chợt liên tưởng đến tình cảnh của mình và trong lòng rưng rưng nỗi thương thân tủi phận: Hoa đèn kia với bóng người khá thương!

 

Hình ảnh người chinh phụ thầm gieo từng bước ngoài hiên vắng và suốt năm canh ngồi một mình bên ngọn đèn chong, không biết san sẻ nỗi niềm tâm sự cùng ai đã miêu tả được tâm trạng cô đơn tột độ của người chinh phụ.

 

Tác giả đặc tả cảm giác cô đơn của người chinh phụ trong tám câu thơ. Đó là cảm giác lúc nào và ở đâu cũng thấy lẻ loi: ban ngày, ban đêm, ngoài phòng, trong phòng. Nỗi cô đơn tràn ngập không gian và kéo dài vô tận theo thời gian luôn deo đẳng, ám ảnh nàng.

 

Cảnh vật xung quanh không thể san sẻ mà ngược lại như cộng hưởng với nỗi sầu miên man của người chinh phụ, khiến nàng càng đớn đau, sầu tủi:

 

Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rũ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.

 

Tiếng gà gáy báo canh năm làm tăng thêm vẻ tĩnh mịch, vắng lặng. Cây hòe phất phơ rũ bóng trong ánh sáng lờ mờ của ban mai gợi cảm giác buồn bã, hoang vắng. Giữa không gian ấy, người chinh phụ cảm thấy mình nhỏ bé, cô độc biết chừng nào!

 

Ở các khổ thơ tiếp theo, nỗi ai oán hiện rõ trong từng chữ, từng câu, dù tác giả không hề nhắc đến hai chữ chiến tranh:

 

Hương gượng đốt hồn đà mê mải,
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dày uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.

 

Người chinh phụ cố gắng tìm mọi cách để vượt ra khỏi vòng vây của cảm giác cô đơn đáng sợ nhưng vẫn không sao thoát nổi. Nàng gắng gượng điểm phấn tô son và dạo đàn cho khuây khỏa nhưng càng lún sâu hơn vào sự tuyệt vọng. Chạm đến đâu cũng là chạm vào nỗi đau, chạm vào tình cảnh lẻ loi đơn chiếc, Khi Hương gượng đốt thì hồn nàng lại chìm đắm vào nỗi thấp thỏm lo âu. Lúc Gương gượng soi thì nàng lại không cầm được nước mắt bởi vì nhớ gương này mình cùng chồng đã từng chung bóng, bởi vì phải đối diện với hình ảnh đang tàn phai xuân sắc của mình. Nàng cố gảy khúc đàn loan phượng sum vầy thì lại chạnh lòng vì tình cảnh vợ chồng đang chia lìa đôi ngả, đầy những dự cảm chẳng lành: Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng. Rốt cuộc, người chinh phụ đành ngẩn ngơ trở về với nỗi cô đơn đang chất ngất trong lòng mình vậy.

 

Sắt cầm, uyên ương, loan phụng là những hình ảnh ước lệ tượng trưng cho tình yêu nam nữ, tình nghĩa vợ chồng. Nay vợ chồng xa cách, tất cả đều trở nên vô nghĩa. Dường như người chinh phụ không dám đụng tới bất cứ thứ gì vì chúng nhắc nhở tới những ngày đoàn tụ hạnh phúc đã qua và linh cảm đến sự chia Ha đôi lứa trong hiện tại. Tâm thế của nàng thật chông chênh, chơi vơi khiến cho cuộc sống trở nên khổ sở, bất an. Mong chờ trong nỗi sợ hãi và tuyệt vọng, nàng chí còn biết gửi nhớ thương theo cơn gió:

 

Lòng này gửi gió đông có tiện ?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.

 

Sau những day dứt của một trạng thái bế tắc cao độ, người chinh phụ chợt có một ý nghĩ rất nên thơ: nhờ gió xuân gửi lòng mình tới người chồng ở chiến trường xa, đang đối đầu với cái chết để mong kiếm chút tước hầu. Chắc chắn, chàng cũng sống trong tâm trạng nhớ nhung mái ấm gia đình với bóng dáng thân yêu của mẹ già, vợ trẻ, con thơ:

 

Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.

 

Không gian xa cách giữa hai đầu nỗi nhớ được tác giả so sánh với hình ảnh vũ trụ vô biên: Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời. Thăm thẳm nỗi nhớ người yêu, thăm thẳm con đường đến chỗ người yêu, thăm thẳm con đường lên trời. Câu thơ hàm súc về mặt ý nghĩa và cô đọng về mặt hình thức. Cách bộc lộ tâm trạng cá nhân trực tiếp như thế này cũng là điều mới mẻ, hiếm thấy trong vắn chương nước ta thời trung đại:

 

Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.

 

Hai câu thất ngôn chứa đựng sự tương phản sâu sắc tạo nên cảm giác xót xa, cay đắng. Đất trời thì bao la, bát ngát, không giới hạn, liệu có thấu nỗi sinh li đau đớn đang giày vò ghê gớm cõi lòng người chinh phụ này chăng? Nói như người xưa: trời thì cao, đất thì dày, nỗi niềm uất ức biết kêu ai? biết ngỏ cùng ai? Bởi vậy nên nó càng kết tụ, càng cuộn xoáy, gây nên nỗi đớn đau cho thể xác:

 

Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.

 

Giữa con người và cảnh vật dường như có sự tương đồng khiến cho nỗi sầu thương trở nên da diết, bất tận. Cảnh vật xung quanh người chinh phụ đã chuyển thành tâm cảnh bởi được nhìn qua đôi mắt đẫm lệ buồn thương cho thân phận bất hạnh, cô đơn. Sự giá lạnh của tâm hồn làm tăng thêm sự giá lạnh của cảnh vật. Cũng giọt sương ấy đọng trên cành cây, cũng tiếng trùng ấy rả rích trong đêm mưa gió, nhưng cảnh ấy tình này lại gợi nên bao sóng gió, bao nỗi đoạn trường trong lòng người chinh phụ. Tình cảnh ấy, tâm trạng ấy tự nó đã nối lên bi kịch của người phụ nữ trong xã hội cũ không được sống hạnh phúc, đồng thời cũng phản ánh thái độ lên án chiến tranh của tác giả.

 

Bầu trời bát ngát không cùng và nỗi nhớ cũng không cùng, nhưng suy tưởng thì có hạn; người chinh phụ lại trỏ về với thực tế cuộc sống nghiệt ngã của mình. Ý thơ chuyển từ tình sang cảnh. Thiên nhiên lạnh lẽo như truyền, như ngấm cái lạnh đáng sợ vào tận tâm hồn người chinh phụ cô đơn:

 

Sương như búa, bổ mòn gốc liễu,
Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô.

 

Hình như người chinh phụ đã thấm thìa sức tàn phá ghê gớm của thời gian chờ đợi. Tuy nhiên đến câu: Sâu tường kêu vắng chuông chùa nện khơi thì không khí đã dễ chịu hơn, cũng bởi người chinh phụ chí mới thất vọng mà chưa tuyệt vọng.

 

Tám câu cuối là bức tranh tả cảnh ngụ tình đặc sắc nhất trong Chinh phụ ngâm:

 

Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc,
Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên.
Lá màn lay ngọn gió xuyên,
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm.
Hoa dãi nguyệt, nguyệt in một tấm,
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông.
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau!

 

Ý thơ đi từ tinh đến cảnh rồi lại từ cảnh trở về tình, cứ dội qua dội lại như vậy nhằm thể hiện rõ tâm trạng ở đâu, lúc nào, làm gi… người chinh phụ cũng chí vò võ một mình một bóng mà thôi!

 

Từ thốc rất mạnh trong câu Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên báo hiệu sự chuyển sang một tâm trạng mới ở người chinh phụ. Cảnh hoa – nguyệt giao hòa khiến lòng người rạo rực, khao khát hạnh phúc lứa đôi. Những động từ dãi, lồng toát lên cái ý lứa dôi quấn quýt gần gũi, âu yếm nồng nàn mà vẫn tế nhị, kín đáo.

 

Tác giả lựa chọn và dùng từ rất kĩ, rất đắt: Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước, Sương như búa, bổ mòn gốc liễu, Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô, Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên… Đặc biệt, tác giả đã sử dụng thành công hàng loạt từ láy: eo óc, phất phơ, đằng đẵng, dằng dặc, mê mải, châu chan, thăm thẳm, đau đáu… về nhạc điệu, tác giả đã phát huy một cách tài tình nhạc điệu du dương của thể thơ song thất lục bát, giống như những đợt sóng dạt dào, diễn tả tâm trạng người chinh phụ hết nhớ lại thương, hết thương lại nhớ trong tình cảnh lẻ loi đơn chiếc.

 

Bằng bút pháp nghệ thuật điêu luyện, tác giả đã diễn tả được những diễn biến phong phú, tinh vi các cung bậc tình cảm của người chinh phụ. Cảnh cũng như tình được miêu tả rất phù hợp với diễn biến của tâm trạng nhân vật.

 

Thông qua tâm trạng đau buồn của người chinh phụ đang sống trong tình cảnh lẻ loi vì chồng phải tham gia vào những cuộc tranh giành quyền lực của các vua chúa, tác giả đã đề cao hạnh phúc lứa đôi và thể hiện tinh thần phản kháng đối với chiến tranh phi nghĩa. Tác phẩm Chinh phụ ngâm đã toát lên tư tưởng chủ đạo trong văn chương;một thời, đó là tư tưởng đòi quyền sống quyền được hưởng hạnh phúc rất chính đáng của con người.

 

 

Bình luận (0)
Phạm Thu Thủy
5 tháng 3 2018 lúc 21:53

Đặng Trần Côn là nhà văn đã nói lên được những cảm xúc và tâm trạng của những người thiếu phụ khi phải chịu những cảnh cô đơn, buồn tủi, những cảm xúc đó đang bao trùm lên toàn bộ sáng tác của ông, nổi bật lên trong sáng tác đó là cảnh lẻ loi của người chinh phụ.

Những người phụ nữ cô đơn khi có chồng đi chinh chiến nơi xa, bao nhiêu cảm xúc đang được thể hiện và nó thực sự mang những nỗi lòng cảm xúc sâu sắc cho tâm hồn của mỗi người, hình ảnh những người thiếu nữ đứng trước mình và soi bóng vào những chiếu cô đơn, thì tâm hồn của chúng ta lại ngập tràn thêm bao nhiêu sự đồng cảm sâu sắc. tâm trạng và hình ảnh của người phụ nữ được hiện lên với ngập tràn những nỗi nhớ mong và khắc khoải lên những cảm xúc của con người, mỗi chúng ta đều có thể thấy trong đoạn thơ đầu tác giả hầu như đã tập trung đến tâm trạng và cảm xúc của chính những người thiếu nữ đó:

Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng ?
Đèn có biết dường bằng chẳng biết?
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương!.

Trước hiên vắng lòng người đang khắc khoải từng bước đi, nó cô đơn và trong khung cảnh đó con người, đang rất cô đơn, và những nỗi nhớ mong đó đang dần làm cho tâm trạng của người con gái đó dạt dào và đậm tình cảm, bước trong hiên thềm chỉ còn hình bóng của người thiếu phụ, những cảm xúc đó đã đủ để diễn tả những dòng cảm xúc của con người.

Trước rèm thưa đang rủ những đòi phen, đó là ngập tràn những cảm xúc, và cả những xúc cảm sâu sắc về chính con người, một lần nữa tác giả lại đang nhấn mạnh đi nguồn cảm hứng xuất hiện trong bài thơ, đó là những khung cảnh của thiên nhiên xa xôi và nó mặn nồng trong biết bao cảm xúc của con người, trước những khung cảnh đó, cô đơn lẻ loi, trong khung cảnh đó người con gái luôn phải chịu những cảm giác đau đớn và lẻ loi nhất, đó là những tình cảm thể hiện mạnh mẽ và da diết về tình yêu thương của con người, luôn luôn phải chịu cảnh khổ đau lẻ loi trong những chiếu bóng không cảm xúc, đó là những cảm xúc ngập tràn, và lan tỏa rộng đến tâm hồn của người đọc.

Tình người đang bị chi phối bởi những chiếu rủ cô đơn, lẻ loi khuất bóng con người, những những cảm giác đó, con người dường như chỉ biết làm bạn với hình bóng của mình, trong hình ảnh của người chinh phụ, những chiếc bóng và chiếc đèn vẫn đang tâm tình và khắc khoải những nỗi chờ mong cô đơn của những người con gái. Biết bao nhiêu cảm xúc đang đan xen và trào dâng trong tâm hồn của con người, những tình cảm đó mạnh mẽ và mãnh liệt nhất trong tâm hồn, và nỗi nhớ mong của người chinh phụ.

Hình bóng của những người chinh phụ hiện lên trong một khoảng không gian mênh mông, và nó ngập tràn những cảm xúc và những nỗi nhớ thương đối với người chồng của mình, tình cảm đó là sự xúc động sâu sắc và mạnh mẽ nhất, nó là nguồn xúc cảm để nói lên tâm hồn đang mênh mông dạt dào cảm xúc của con người.

Những cảm xúc đang dần biểu lộ lên những xúc cảm mạnh mẽ và day dứt nhất trong tâm hồn của mỗi con người, những điều đó đã tạo nên được nhiều cảm xúc trong tâm hồn của tác giả, luôn luôn phải biết làm nên những điều có ý nghĩa khi tác giả đã vẽ ra những tâm trạng và khắc khoải những dòng tâm trạng đó, nhiều cảm xúc và hình thức đó được tạo nên nhiều cảm xúc của riêng chính con người của tác giả về cuộc đời và điều đó làm nên những giá trị trong việc khắc sâu thêm dòng tâm trạng điển hình và mênh mông trong tâm hồn của con người.

Những tiếng gà eo óc đang gay trong những năm sương và đang trống vắng trong khoảng trống tâm hồn của chính tác giả về những năm tháng xa cách tình cảm lẻ loi, và không có sự gắn bó, nó tạo dựng nên những cảm xúc xa vắng và đang làm gia tăng lên những nhịp cảm to lớn và đang ản chứa bao dòng tâm trạng lớn lao và mênh mang về con người, tâm trạng đó đã khắc khoải, cảm giác cô đơn, lẻ loi, và bóng dáng của họ chỉ đơn chiếc như những tấm tà chiều, đơn côi trong ngày dài lê thê, những cung cách trong đó đã mang đậm những giá trị lớn lao và tạo dựng nên nhiều cảm xúc to lớn khi chúng ta nhìn thấy hình ảnh xa xôi và đơn bóng một mình:

Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rũ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.

Những tiếng gà gáy năm trống nhưng người chinh phụ vẫn đơn bóng trong phòng của mình, với những hình bóng bốn bên phơ rũ không còn sức sống, những thời gian dài khắc khảo như niên, năm tháng đã trôi qua nhưng tình cảm đó đã mang nặng những tình cảm và nỗi nhớ thương với người chồng, người yêu của mình, thời gian xa vắng nhưng nỗi buồn đó thì mênh mang và dằng dặc tựa như miền biển xa, nó xa xôi và cách trở lòng người, làm cho tâm hồn của những người chinh phụ héo mòn đi những sức sống và tình yêu của chính mình, khi cứ phải chờ đợi và khắc khoải những nỗi nhớ mong.

Những tiếng gà đang gáy và mong mỏi đến trời sáng để cho những nỗi nhớ mong đó bị giảm nhẹ đi, nhưng tình cảm của con người dường như vẫn không thể thoát khỏi trong cái không gian đó, tình cảm mặn nồng và nó đã có tác động lớn lao đối với con người trong cả bầu không gian rộng của thiên nhiên của những cảnh vật.

Trong những cảnh giới đó, con người dường như đang phải trải qua những thời kì cô đơn và hiu quạnh nhất của lòng người, những gượng giụ trong những cung đàn và cầm gảy những nỗi lòng, nhưng rồi những phím đàn đó cũng đã thể hiện được rất chi tiết những tình cảm và sự mặn nồng trong tình yêu mặc dù, vẫn luôn phải chờ mong và thương nhớ:

Hương gượng đốt hồn đà mê mải,
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dày uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.

Tâm hồn của những người chinh phụ đang mê sắc trong những nỗi nhớ,và đang soi mình trong chiếc gương, để rồi những giọt lệ rơi ra, cầm đàn mà gẩy nhưng tâm trạng đang trịu nặng, những dòng cảm xúc đó đang dần khắc sâu và ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đối với mỗi con người khi đọc những dòng thương nhớ của chính tác giả, về cảm xúc và tâm trạng của những người thiếu phụ.

Trong bao nhiêu cung bậc tình cảm đó, nỗi lòng thầm kín chỉ muốn dành tặng cho những người luôn mong mỏi và đến ngày được gặp lại những vị tiên non, gửi theo gió biết bao nhiêu lời thương:

Lòng này gửi gió đông có tiện ?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.

Những hình bóng và dáng vẻ thăm thẳm của không gian rộng lớn, nhưng chính tác giả cũng đang khắc khoải những nỗi nhớ mong tới người thương của mình, điều đó đem lại một cảm nhận mới mẻ, và nó khắc sâu trong tâm hồn một nỗi nhớ, một nỗi nhớ da diết khôn nguôi không thể nào thay đổi được.

Cho dù không gian xa xôi cách trở nhưng lòng tin và sự yêu thương đó vẫn luôn dành tặng cho trái tim của mỗi người chinh phụ. Những hình ảnh đơn bóng và mang trong mình bao nhiêu cảm xúc, dùng tình yêu thương của mình đối với chính những người thân thương là những điều tuyệt vời nhất, cuối bài thơ là dòng tâm trạng của tác giả, khi dùng vật để nói lên tâm trạng của những người chinh phụ, cảm xúc thật khó diễn tả:

Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc,
Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên.
Lá màn lay ngọn gió xuyên,
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm.
Hoa dãi nguyệt, nguyệt in một tấm,
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông.
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau!

Những hình bóng cô đơn, và mang những dòng cảm xúc tran chứa những nỗi chứa tran và mang trong lòng người những cảm xúc của con người, những cảnh vật như chiếc bóng cô đơn, và in dấu trong những nỗi đau xé lòng về tâm trạng của những người chinh phụ cô đơn, lẻ loi.

Hình ảnh người thiếu phụ đang đơn chiếc trong hình bóng cô đơn và lẻ loi đơn bóng của mỗi ngày, đó là điều buồn bã và tủi hờn nhất.

Bình luận (0)
Trương Văn Châu
1 tháng 2 2016 lúc 8:27

                        Đặng Trần Côn (chưa rõ năm sinh, năm mất) người làng Nhân Mục, tên nôm là làng Mộc, huyện Thanh Trì, nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ông sống vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII. về sáng tác, ngoài tác phẩm chính là Chinh phụ ngâm, ông còn làm thơ chữ Hán và viết một số bài phú chữ Hán. Theo các tài liệu lịch sử, đầu đời Lê Hiển Tông, có nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra quanh kinh thành Thăng Long. Triều đình cất quân đánh dẹp, nhiều trai tráng phải từ giã người thân ra trận. Đặng Trần Côn cảm động trước nỗi khố đau mất mát của con người, nhất là những người vợ lính trong chiến tranh, đã viết Chinh phụ ngâm. Khúc ngâm này gồm 476 câu thơ làm theo thể trường đoản cú (câu thơ dài ngắn không đều nhau).

                      Tác phẩm đã được dịch ra chữ Nôm, và chưa biết ai là tác giả bản dịch hiện hành. Có người cho rằng đó là bản dịch của Đoàn Thị Điểm. Lại có người cho rằng Phan Huy Ích chính là dịch giả của Chinh phụ ngâm.

                       Đoạn trích dưới đây thuộc bản dịch hiện hành, viết về tình cảm và tâm trạng người chinh phụ phải sống cô đơn, mòn mỏi trong thời gian dài người chồng đi đánh trận, không có tin tức, không rõ ngày trở về.

                       Kể từ lúc tiễn chồng vào “cõi xa mưa gió” người chinh phụ trở về sống trong tình cảm đơn chiếc, lẻ loi. Ngày cũng như đêm, sau khi công việc đã yên mọi bề, người chinh phụ

                                 Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,

                                 Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.

                                  Ngoài rèm thước chẳng mách tin,

                                  Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?

                         Bốn câu thơ song thất lục bát với vần điệu chặt chẽ, thăng trầm như những nốt nhạc buồn càng làm đậm thêm tình cảnh đơn chiếc, lẻ loi kia. Người trước có lúc sóng đôi vợ chồng thì nay “thầm gieo từng bước" dưới mái hiên vắng vẻ. Ngày nào bàn chuyện làm ăn cùng chồng bên cửa sổ thì nay buông xuống kéo lên nhiều lần mong ngóng nhưng chẳng thấy chim thước báo tin lành. Ngày thì như thế, còn đêm thì không ngủ được, một mình đối diện với ngọn đèn khuya. Tình cảnh của người chinh phụ quá lẻ loi, đơn chiếc. Ngày thì khắc khoải chờ mong. Đêm dài câm lặng, biết riêng lòng mình, Hoa đèn kia dẫu sao còn lửa. Riêng lòng này với bóng lạnh lùng.

                                    Khắc giờ đằng đẵng như niên,

                                    Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.

                            Hai câu lục bát, một câu miêu tả thời gian, một câu miêu tả nỗi buồn. Cả hai câu đều mang nghệ thuật so sánh. Trong tình cảnh lẻ loi ấy thì một giờ là đợi dài tựa một năm, như người xưa thường ví “Nhất nhật bất kiến như tam thu hề", ngày sau này Xuân Quỳnh tâm sự “Một ngày không gặp nhau / Biển bạc đầu thương nhớ”. Thời gian chờ đợi càng dài thì nỗi sầu càng lớn "tựa miền biển xa”. Tình cảnh đã bước qua tâm trạng. Đấy là tâm trạng nhớ thương của người chinh phụ gửi tới chồng ở miền xa. Nỗi nhớ thương thật tha thiết.

                                     Lòng này gửi gió đông có tiện?

                                     Nghìn vàng xin gửi đến non Yên

                                     Non Yên dù chẳng tới miền,

                                     Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.

                          Bốn câu thơ trên là lời tâm sự của vợ gửi đến chồng. Nhưng chim thước không có để nhờ mang thư đi. Vậy thì gửi lời nhớ thương theo gió. Nhưng gửi theo gió đông thì gió có mang lời thủ thỉ đến được tai chàng? Biết chàng đang ở nơi nào ngoài mặt trận? Thôi thì lòng thương quý chàng xin được gửi đến nơi xa nhất mà chàng tới như Đậu Hiến đời Hậu Hán đánh đuổi giặc Bắc Thiền Vu đến núi Yên Nhiên, bởi vì:

                                    “Nay Hán xuống Bạch Thành đóng lại,

                                     Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua.”

                         Đời chiến binh là như thế, là “ôm yên, gối trống đã chôn, / Năm vùng cát tráng ngủ cồn rêu xanh”, chưa kể đời chiến binh mấy người đi trở lại. Tình thương, nỗi nhớ của nàng là như thế. Nhưng:

                                     Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,

                                     Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.

                                     Cảnh buồn người thiết tha lòng,

                                      Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.

                           Dù là “Trời” thì Trời cũng khó mà hiểu thấu tình thương và nỗi nhớ da diết của người chinh phụ. Các từ láy “thăm thẳm, đau đáu” càng làm tăng thêm sự không hiểu biết, không thấy được của Trời, và chỉ có người trong cuộc (người chinh phụ) mới cảm nhận rõ lòng mình. Cảnh thì buồn, đến cả cây cỏ và tiếng côn trùng cũng não ruột. Còn tình thì da diết thiết tha.

                           Thể thơ song thất lục bát vốn thích hợp với tự sự, trong đoạn trích, bản dịch lại dùng phép so sánh, từ lặp và từ láy một cách tự nhiên càng làm tăng thêm giá trị nội dung.

                           Đọc đoạn trích người đọc cứ ngỡ ngàng rằng chỉ để miêu tả tình cảnh lẻ loi, thể hiện tâm trạng khát khao tình yêu của người chinh phụ. Nhưng nếu nghĩ sâu xa hơn thì đoạn trích bày tỏ sự oán ghét chiến tranh. Chiến tranh đã chia rẽ tình yêu, ngăn cách hạnh phúc lứa đôi của nhiều thế hệ, nhất là thế hệ trẻ, có lẽ vì thế mà tác phẩm đã được độc giả cùng thời hết sức tán thưởng. Nhiều người còn dịch Chinh phụ ngâm sang thơ Nôm (tức thơ tiếng Việt) để khúc ngâm được truyền bá rộng rãi hơn. Bản diễn Nôm hiện hành là bản dịch thành công nhất.

Bình luận (0)
Nam Phạm An
Xem chi tiết
Phạm Lợi
Xem chi tiết
Thảo Phương
29 tháng 3 2019 lúc 14:27

a. Ước muốn của người chinh phụ.

- “Gió đông”: Gió mùa xuân mang theo hơi ấm và sự sống

- “Non Yên”: Điển tích chỉ nơi biên ải xa xôi

- “Nghìn vàng”: Hình ảnh ẩn dụ cho tấm lòng của người chinh phụ (buồn tủi, cô đơn, lo lắng, trống vắng, hi vọng rồi lại thất vọng)

→ Với các hình ảnh ẩn dụ và điển tích đã cho thấy ước muốn của người chinh phụ gửi gắm niềm hi vọng, thương nhớ vào ngọn gió xuân mang đến nơi chiến trường xa xôi để người chinh phu thấu hiểu và trở về cùng nàng.

b. Nỗi nhớ của người chinh phụ

- Thủ pháp điệp liên hoàn “Non yên – non yên, trời – trời”: Nhấn mạnh khoảng cách xa xôi, trắc trở không gì có thể khỏa lấp, đồng thời cực tả nỗi nhớ vời vợi , đau đáu trong lòng người chinh phụ

- Từ láy “thăm thẳm, đau đáu”: Cực tả cung bậc của nỗi nhớ, thẳm thẳm là nỗi nhớ sâu, dai dẳng, triền miên, đáu đáu là nỗi nhớ gắn với nỗi đau, nỗi sầu.

→ Câu thơ ghi lại một cách tinh tế, cảm động sắc thái nỗi nhớ, nỗi nhớ mỗi lúc một tăng tiến, dồn nén trở thành nỗi đau xót xa.

→ Sự tinh tế, nhạy cảm, đồng điệu của tác giả.

c. Mối quan hệ giữa ngoại cảnh và tâm cảnh.

- “Cảnh buồn”, “người thiết tha lòng”: Cảnh và người đều gặp nhau ở nỗi buồn và niềm đau

- Cảnh vốn là vật vô tri nhưng tâm trạng của con người đã nhuốm sầu cảnh vật.

→ Thủ pháp tả cảnh ngụ tình, người chinh phụ đã hướng nỗi buồn ra ngoài cảnh vật khiến nó cũng trở nên não nề.

⇒ Tiểu kết.

- Nội dung: Khắc họa nỗi buồn, nỗi đau, nỗi nhớ của người chinh phụ, ẩn sau đó là sự đồng cảm, trân trọng của tác giả đối với số phận và phẩm hạnh người phụ nữ

- Nghệ thuật:

+ Sử dụng các biện pháp tu từ ẩn dụ, điệp liên hoàn, từ láy

+ Thủ pháp tả cảnh ngụ tình

+ Giọng điệu da diết, buồn thương

Bình luận (0)
✿✿❑ĐạT̐®ŋɢย❐✿✿
28 tháng 3 2019 lúc 21:36

“Người lên ngựa, kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.”

Văn học Việt Nam đã từng chứng kiến biết bao những cuộc chia li, tiễn biệt đầy lưu luyến như thế. Và ở thế kỉ thứ XVIII, “Chinh phụ ngâm” một tác phẩm lấy từ đề tài chia li trong chiến tranh đã của Đặng Trần Côn đã cho chúng ta thấy được một cuộc tiễn biệt thấm đẫm tâm trạng, đằng sau đó là nỗi đau người phụ nữ có chồng đi chinh chiến. Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” đã làm nỗi bật lên nỗi lẻ loi cô đơn cùng những nhớ mong, và có cả những khao khát hạnh phúc của người chinh phụ.

Nhà văn Tô Hoài đã từng khẳng định: “Mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời”. Thời đại của Đặng Trần Côn là thời kì mà chiến tranh các tập đoàn phong kiến diễn ra liên miên và phong trào nông dân khởi nghĩa nổ ra khắp nơi, nhà nhà sống trong cảnh loạn lạc, khói lửa, đâu đâu cũng thấy cảnh lầm than, tang tóc. Khi thời đại đưa cho ông một đề tài quen thuộc “hiện thực chiến tranh”, bằng cảm hứng nhân đạo của mình, Đặng Trần Côn đã chiếu ngòi bút của mình xuống những nỗi đau của người phụ nữ trong chiến tranh để cất lên tiếng nói của con người thời đại, tiếng nói oán ghét chiến tranh phi nghĩa, tiếng nói đòi quyền sống, quyền hạnh phúc qua khúc tự tình trường thiên “Chinh phụ ngâm”. Xuyên suốt toàn bộ tác phẩm, qua nỗi niềm của người chinh phụ có chồng ra trận, tác giả đã đã để cho người đọc cảm nhận nỗi đau thương trong chiến tranh của cả hai phía người ra trân và người ở lại. Nếu ở nơi chiến địa, chinh phu đang từng ngày từng giờ đối mặt với cái chết thì chinh phụ nơi quê nhà cũng đang mòn mỏi chờ đợi trong vô vọng, và chìm đắm trong muộn phiền. Ba sáu câu thơ trong đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” như tích tụ nỗi đau, nỗi nhớ thương và niềm khao khát hạnh phúc lứa ở tầng sâu nhất của tác phẩm.

Mở đầu đoạn trích, tác giả đã khắc họa bức chân dung tâm trạng của người chinh phụ trong tình cảnh cô đơn, lẻ loi, ngày qua ngày mong ngóng tin chồng:

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen
Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?”

Giữa một không gian tịch mịch “vắng” và “thưa”, người chinh phụ hiện lên như hiện thân của nỗi cô đơn. Nàng đi đi lại lại, những bước chân của nàng không phải là bước chân “xăm xăm” khi nghe thấy tiếng gọi của tình yêu, hạnh phúc của nàng Kiều mà những bước chân ấy gieo xuống từng bước như gieo vào lòng người đọc những thanh âm của sự lẻ loi cô độc. Nàng hết buông rèm rồi lại kéo rèm để hướng ra ngoài, hướng về nơi biên ải xa xôi kia để mong ngóng chút tin tức của chinh phu nhưng không có dấu hiệu hồi đáp lại. Nhịp thơ chậm, kéo dài như ngưng tụ cả không gian và thời gian. Dường như hành động nàng đang lặp đi lặp lại một cách vô thức bởi tâm trí nàng giờ đây đang dành trọn cho người chồng nơi chiến trường đầy hiểm nguy. Những thao tác trữ tình ấy đã lột tả được tâm tư trĩu nặng và cảm giác bế tắc không yên của người chinh phụ. Trong nỗi bồn chồn khắc khoải ấy, nàng mong ngóng một một người có thể sẻ chia những tâm tư nhưng tất cả chỉ có một ngọn đèn khuya leo lét:

“Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiếp mà thôi
Buồn rầu chẳng nói nên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương”

Ngọn đèn vừa chứng kiến vừa soi tỏ nỗi cô đơn của người phụ nữ xa chồng. Khi đối diện với ngọn đèn là người phụ nữ đáng thương ấy đang tự đối diện với chính mình, dưới ánh sáng của ngọn đèn mà tự phơi chải nỗi đau của chính mình. Để rồi những tâm tư ấy bật thành lời tự thương da diết “Hoa đèn kia với bóng người khá thương”. Nàng thấy mình chỉ như kiếp hoa đèn kia mỏng manh và dang dở, thấy sự tàn lụi ở ngay trước mắt mình. Nếu ngọn đèn không tắt đồng hành với người phụ nữ trong ca dao thắp lên nỗi nhớ thương:

“Đèn thương nhớ ai mà đèn không tắt”

Ngọn đèn trong đêm với Thúy Kiều đã trở thành nhân chứng của nỗi đau của người con gái tài sắc:

“Một mình một ngọn đèn khuya
Áo đầm giọt tủi tóc se mái đầu”

Thì hình ảnh ẩn dụ ngọn đèn của người chinh phụ soi bóng trong đêm lại là sự hiện diện của lẻ loi, đơn chiếc, trống trải. Hình ảnh hoa đèn và bóng người như phản chiếu vào nhau để diễn tả nỗi cô đơn đên héo úa canh dài, đến hao mòn cả thể chất. Dường như nỗi niềm ấy đã vo tròn, nén chặt đè nặng trong lòng người chinh phụ, và trở thành nỗi “bi thiết” không thể nói lên lời, là nỗi “buồn rầu” đến não nề, đến thương cảm. Bức chân dung người phụ nữ ấy không chỉ gợi lên qua những bước chân, động tác, cử chỉ, qua gương mặt buồn rầu, qua dáng ngồi bất động trước ngọn đèn khuya mà còn nổi bật lên trên nền của không gian và thời gian:

“Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên”

Hình ảnh “bóng hòe phất phơ” suốt ngày dài cùng biện pháp lấy động tả tĩnh với sự xuất hiện âm thanh “tiếng gà eo óc suốt” đêm thâu như tô đậm nỗi cô đơn, triền miên của nhân vật trữ tình. “Eo óc” đó là âm thanh thưa thớt trong một không gian rộng lớn, hiu quạnh có cảm giác tang tóc, tang thương đã bộc lộ sâu sắc nỗi chán chường của chủ thể trong đêm thâu. Nàng đã thức trọn năm canh để nghe thấy tận sâu trong đáy lòng mình nỗi sầu, nỗi đau vô hình ấy. Từ láy “phất phơ” đã biểu đạt một cách tinh tế dáng điệu võ vàng của người chinh phụ, tâm trạng của một người vợ ngóng chờ từng chút hình ảnh của người chồng. Tâm trạng của nhân vật trữ tình như đang thấm đẫm, lan tỏa cả trong thời gian và xuyên suốt cả thời gian. Tác giả đã biến thời gian thành thời gian tâm lí, không gian thành không gian cảm xúc bằng bút pháp ước lệ và nghệ thuật so sánh trong hai câu thơ:

“Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tự miền biển xa”
Câu thơ theo đúng nguyên tác của Đặng Trần Côn:
“Sầu tựa hải
Khắc như niên”

Chỉ thêm hai từ láy “dằng dặc” và “đằng đẵng” nhưng sự chán chường, mệt mỏi kéo dài vô vọng của người chinh phụ trở nên thật cụ thể, hữu hình và có cả chiều sâu trong đó. Kể từ khi chinh phu ra đi, một ngày trở nên dài lê thê như cả một năm, những mối lo toan, nỗi buồn sầu như đông đặc, tích tụ đè nặng lên tâm hồn người phụ nữ đáng thương ấy. Từng ngày, từng giờ, từng phút người chinh phụ vẫn đang chiến đấu với nỗi cô đơn, chiến đấu để thoát khỏi cuộc sống tẻ nhạt của chính mình:

“Hương gượng đốt hồn đà mê mải
Gương gượng soi lệ lại châu chan
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng”

Điệp từ “gượng” được điệp đi điệp lại ba lần trong bốn câu thơ tiếp theo đã thể hiện sự nỗ lực vượt thoát ấy của người chinh phụ. Nàng gượng đốt hương để kiếm tìm sự thanh thản thì lại rơi sâu hơn vào cơn mê man. Nàng gượng soi gương để chỉnh trang nhan sắc thì lại chỉ thấy những giọt sầu. Nàng gượng tìm đến với âm nhạc để giải tỏa thì nỗi âu lo về duyên cầm sắt và tình loan phượng lại hiện hình. Dường như nàng đang mang trong mình quá nhiều những nỗi lo sợ, lo lắng, bởi thế, người chinh phụ không những không thể giải tỏa được nỗi niềm bản thân mà còn như chìm sâu hơn vào nỗi bi thương xót xa. Nỗi cơ đơn, lẻ loi của người chinh phụ được đã đặc tả bằng bút pháp trữ tình đa dạng để độc giả có thể cảm nhận được tâm trạng ấy của nhân vật trữ tình ngay cả khi ngày lên cũng như khi đêm xuống, luôn đồng hanh cùng người chinh phụ cả khi đứng, khi ngồi, lúc ở trong phòng và ngoài phòng và bủa vây khắp không gian xung quanh. Sự cô đơn ấy đã làm hao gầy cả hình dáng và héo úa cả tâm tư và người chinh phụ như đang chết dần trong cái bọc cô đơn ấy.

Sống trong không gian cô đơn ấy, nàng chỉ biết nhớ về người chồng nơi biên ải xa xôi kia với một tấm lòng thủy chung, sắt son:

“Lòng này gửi gió đông có tiện
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên
Non yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời”

Người chinh phụ đã gom hết những yêu nhớ, thương xót và cả lòng thủy chung của mình vào gió đông, nhờ cơn gió mùa xuân ấm áp gửi tâm tư thầm kín của mình đến non Yên. Những hình ảnh có tính tượng trưng ước lệ như “gió đông”, “non Yên”, “trời thăm thẳm” vừa gợi ra không gian rộng lớn vô tận nói lên khoảng cách xa xôi giữa chinh phu và chinh phụ vừa biểu đạt được tấm lòng chân thành, nỗi nhớ nhung vô hạn của người vợ nơi quê nhà. Phải chăng ngọn gió đông đánh thức tâm hồn chinh phụ cũng chính là ngọn gió xuân đánh thức giấc mộng ái ân khuê phòng trong “xuân tứ” của nhà thơ Lí Bạch:

“Cỏ non xanh biếc vùng Yên
Cành dâu xanh ngà ở bên đất Tần
Lòng em đau đớn muôn phần
Phải chăng là lúc phu quân nhớ nhà
Gió xuân có biết chi mà
Cớ chi lọt bức màn là tới ai”

Nhưng nỗi thương nhớ của người chinh phụ người ta còn thấy được cả dư vị của nỗi đau, sự ngậm ngùi, xót xa:

“Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong”

Hai từ láy “thăm thẳm” và “đau đáu” đã biểu đạt trực tiếp sắc thái củ nỗi nhớ thương ấy của người chinh phụ. Nếu hai từ “thăm thẳm” gợi nên trường độ của nỗi nhớ nhung trải dài dằng dặc, triền miên trong không gian thì độ sâu của nỗi nhớ được thể hiện qua từ “đau đáu”. Hình ảnh đường lên trời mù mịt, xa xăm cũng giống như bi kịch nỗi nhớ mong của nàng chẳng biết đâu là bến bờ, chẳng biết đến khi nào người chồng trở về để kết thúc cái bi kịch ấy.

“Cảnh buồn người thiết tha lòng
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”

Cảnh vật xung quanh chính là tâm cảnh bởi nó đã được nhìn bởi đôi mắt đẫm lệ, đã nhuốm màu tâm trạng của chủ thể trữ tình. Ý thơ đã đúc kết qui luật cảm xúc và có sự gặp gỡ với ý thơ của Nguyễn Du trong kiệt tác “Truyện Kiều”:

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Câu thơ như một tấm bản lề khép lại nỗi nhớ nhung sầu muộn dẫn người đọc đến với nỗi sầu muộn của người chinh phụ trong câu thơ sau. Trong bức tranh mùa đông được gợi mở, tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh bất ngờ để cực tả nỗi sầu muộn và cảm giác lạnh lẽo trong lòng người phụ nữ:

“Sương như búa bổ mòn gốc liễu
Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô”

Nỗi đau đớn sầu muộn ấy khi thì nặng nề như búa bổ, khi thì nặng nề như cưa xẻ còn “gốc liễu” “cảnh ngô ấy phải chăng chính là hiện thân của người phụ nữ đang mòn mỏi chờ chồng. Cả dung nhan và tâm hồn nàng dường như đang bị tàn phá không phải chỉ bởi cái lạnh lẽo của sương tuyết mà còn là cái lạnh lẽo, cô dơn đang bủa quanh. Mùa đông của thiên nhiên nhiên giờ đây đã hóa thành mùa đông của cuộc đời người chinh phụ.

“Giọt sương phủ bụi chim gù
Sâu tường kêu vẳng chuông chùa nện khơi”

Tiếng chim gù trong bụi cây sương phủ, tiếng côn trùng nỉ non não nề trong đêm sương phải chăng nhà thơ muốn bật lên tiếng lòng tê buốt lạnh giá của người chinh phụ? Phải chăng không chỉ là tiếng sâu tường bên cạnh “vẳng” ra, tiếng chuông chùa từ xa “nện” lại mà đó còn là những cơn sóng dữ dội, tha thiết và nhức nhối đang cuộn lên trong lòng người phụ nữ ấy? Tất cả những âm thanh như đang xoáy sâu vào tâm hồn, ăn mòn tâm trí của chinh phụ. Với sự thành công của biện pháp tả cảnh ngụ tình quen thuộc của thi ca cổ điển nhà thơ không chỉ tô đậm ấn tượng lạnh lẽo của bức tranh mùa đông mà còn đang phơi bày thế giới nội tâm lạnh giá của người chinh phụ. Nếu không phải là một ngòi bút khắc họa tâm lí sắc sảo chắc chắn sẽ không thể miêu tả tâm trạng của người chinh phụ sâu sắc và tinh tế đến thế.

Tưởng chừng như người chinh phụ sẽ mãi chìm đắm trong nỗi sầu muộn ấy, nhưng trong giây lát nàng đã đến với những khao khát của hạnh phúc lứa đôi qua bức tranh hoa nguyệt lộng lẫy của thiên nhiên

“Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc
Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên
Lá màn lay động gió xuyên,
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm
Hoa đãi nguyệt, nguyệt in một tấm
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiêt đâu”

Bức tranh hoa nguyệt lộng lẫy ấy đã được nhà thơ khắc họa bằng thủ pháp trùng điệp liên hoàn tạo ra những hình ảnh lồng xoáy vào nhau, những lớp hình ảnh giao hòa. Hoa phô bày vẻ đẹp dưới ánh trăng vàng và vầng trăng tỏa sáng lại phản chiếu bóng hình hoa trên mặt đất. Sắc hoa ngời lên dưới nguyệt và cuối cùng kết tinh lại ở hình ảnh đẹp nhất, một biểu tượng ý nghĩa nhất: nguyệt và hoa giao hòa quấn quýt lẫn nhau. Phải chăng chính sự giao hòa của thiên nhiên, tạo vật đã đánh thức niềm khao khát hạnh phúc lứa đôi thầm kín trong lòng chinh phụ bấy lâu? Nhưng phải chăng cũng bởi thế mà nỗi đau về sự lẻ loi lại quay lại với nàng mà còn như khơi sâu thêm hơn nữa? Đến thiên nhiên vô tri vô giác còn có cảm giác hạnh phúc lứa đôi, còn nàng, nàng chỉ có một mình với một tấm lòng thủy chung chờ đợi chồng nơi khuê phòng này, chờ những hạnh phúc ái ân sẽ trở về. Cùng với hình ảnh, âm điệu của lời thơ cũng trở nên tha thiết, nồng nàn như những con sóng của niềm khao khát đang dâng lên trong lòng người chinh phụ. Đến đây, nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đã đạt đến mức điêu luyện. Nếu ở đoạn thơ trên tác giả đã gửi tình vào cảnh thì ở đoạn sau tác giả đã để cho cảnh gợi tình. Những hình ảnh mĩ lệ của hoa lồng nguyệt và nguyệt lồng hoa hết sức mĩ lệ đã thể hiện hết sức tế nhị những khao khát thầm kín và mãnh liệt của người chinh phụ – đó cũng là những khát vọng trần thế và nhân bản của con người.

Bên cạnh tài năng miêu tả tâm lí nhuần nhuyền bằng nhiều bút pháp được thể hiện qua thể thơ song thất lục bát mềm mại của tác giả, dịch giả Hồng Hà Nữ Sĩ còn thành công khi sử dụng ngôn ngữ Tiếng Việt một cách tinh tế và thanh nhã .Chính sự kết hợp của ngôn ngữ giàu về “thể chất” của Nguyễn Gia Thiều với cái linh hồn ngôn ngữ của Đoàn Thị Điểm đã làm cho ngôn ngữ bài thơ truyền tải được mọi cung bậc cảm xúc tinh tế nhất trong diễn biến tâm trạng của người chinh phụ. Tác phẩm đã góp phần vào tiếng nói đấu tranh, tố cáo chiến tranh phong kiến chia rẽ hạnh phúc lứa đôi đồng thời khẳng định quyền sống, quyền hạnh phúc nhân bản nhất của con người. Đó cũng là giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc nhất của tác phẩm.
Những vần thơ khép lại nhưng dường như nỗi đau của người chinh phụ vẫn còn đó. Niềm khao khát về một hạnh phúc từ đây mà trở thành niềm khao khát của cả một thời đại và thúc giục con người hành động để đạt dành được hạnh phúc mà mình đáng có.

Bình luận (1)
Nguyễn Xuân Đạt
Xem chi tiết
Minh Nhân
17 tháng 3 2021 lúc 11:20

Em tham khảo nhé !

Đoạn trích "Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ" được trích từ tác phẩm "Chinh phụ ngâm" nguyên tác bằng chữ Hán của tác giả Đặng Trần Côn. Trích đoạn viết về tình cảnh và tâm trạng của người chinh phụ phải sống trong cô đơn buồn khổ khi chồng ra trận không có tin tức cũng không rõ ngày trở về. Người đọc cảm nhận được nỗi đau khổ trong cô đơn, chia lìa, khao khát tình yêu và được sống trong hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ.

Mở đầu đoạn trích, tác giả đã khắc họa nỗi cô đơn, lẻ loi đầy xót thương của người chinh phụ, có người phụ nữ nào lại không cảm thấy cô đơn buồn tủi khi người chồng đi lính, giờ đây chỉ còn lại một mình, từng hành động của người chinh phụ cứ lặp đi lặp lại trong vô thức:

"Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen"

Bước chân vừa đi vừa đếm, đi qua đi lại vô nghĩa rồi lại ngồi buông cuốn rèm lên xuống không biết bao nhiêu lần, tất cả cho thấy người phụ nữ như đang hồn bay phách lạc, chỉ có thân thể hoạt động trong vô thức, bần thần. Hai chữ "vắng" và "thưa" tô đậm thêm khung cảnh vắng vẻ, cô quạnh và sự cô đơn lẻ bóng của người chinh phụ khi xa chồng. Tâm thế chờ đợi tin tức của chồng khiến người chinh phụ luôn thấp thỏm, chờ ngóng tin lành từ chim thước nhưng "thước chẳng mách tin", trông ngóng ngọn đèn nhưng tiếc thay đèn chỉ là vật vô tri vô giác, không thể lắng nghe và thấu hiểu nỗi lòng của người chinh phụ.

"Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi"

Hình ảnh "hoa đèn" gợi đến sự tàn lụi, ngọn bấc cháy hết chỉ còn lại tàn hoa rơi rụng, cũng như nỗi lòng ngóng trông của người chinh phụ chỉ nhận lại sự bặt vô âm tín, vẫn rơi vào cảnh trống trải, leo lắt một mình. Tiếng gà "eo óc", bóng hòe "phất phơ" mang giá trị gợi tả cực cao về sự hoang vắng, lặng lẽ đến lạnh người của cảnh vật, đó cũng chính là sự giá băng trong lòng người phụ nữ cô đơn. Nỗi nhớ thương chồng của người chinh phụ đã lan tỏa khắp không gian, cảnh vật, làm gia tăng sự cách biệt về thời gian không gian một cách đáng sợ:

"Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa"

Một giờ ngóng trông tin tức của chồng kéo dài như là một năm, mối sầu thương nhớ chất chứa trong lòng lại như biển cả mênh mông, từ láy "đằng đẵng" và "dằng dặc" như cực tả thêm nỗi cô đơn trĩu nặng trong lòng người chinh phụ. Mang trên mình nỗi lòng nặng trĩu ấy làm sao người phụ nữ có hứng thú với công việc gì, chính vì vậy, mọi việc làm đều trở nên gượng gạo, gò ép chính mình "hương gượng đốt", "gương gượng soi", "gượng gảy phím đàn". Muốn đốt hương cho khuây khỏa cõi lòng nhưng hồn lại mê mải, soi gương chẳng còn thấy khuôn mặt chỉ thấy dòng nước mắt, muốn gảy đàn ôn lại kỉ niệm lại sợ đàn đứt dây mang những điềm gở, hung tin về chồng. Tất cả đều ẩn chứa sự bất an, lo lắng không yên của người chinh phụ, nơi chiến trường đao binh ác liệt không biết liệu chồng mình có được bình an vô sự trở về. Nàng muốn đem lòng thương nhớ ấy gửi đến cho chồng nhưng ước muốn ấy của nàng là viển vông, không bao giờ có thể thực hiện được:

"Non yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong"

Những từ láy "thăm thẳm" và "đau đáu" vừa gợi sự xa cách giữa vợ - chồng lại vừa đặc tả nỗi lòng nhớ thương dai dẳng, khôn xiết của người chinh phụ. Ở hai câu thơ cuối, ta cảm nhận được niềm khao khát tìm kiếm sự đồng cảm cũng như bến bờ hạnh phúc đôi lứa, mái ấm gia đình đang thôi thúc, cháy bỏng trong lòng người chinh phụ. Lúc này cảnh vật và con người đã cùng hòa tan vào nỗi buồn, chẳng còn sự khác biệt giữa nỗi buồn của con người và u buồn của cảnh vật.

Có thể nói, đoạn trích "Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ" Đặng Trần Côn mang đến cho chúng ta không chỉ là một số phận người phụ nữ nói riêng mà đó chính là số phận chung của những người phụ nữ trong chế độ xã hội phong kiến xưa. Những cuộc chiến tranh phi nghĩa đã khiến họ phải xa chồng, mất đi mái ấm hạnh phúc, đẩy họ vào hoàn cảnh cô đơn, lẻ loi, buồn khổ.

Bình luận (0)