Những câu hỏi liên quan
Xem chi tiết
Lê Minh Hiếu
5 tháng 1 2021 lúc 17:02

- Việc làm của mẹ Bình là sai, vì Bình mới 16 tuổi chưa đủ tuổi kết hôn theo pháp luật quy định và mẹ Bình cũng đã sai khi ép buộc Bình làm điều mình không muôn.

- Cuộc hôn nhân này sẽ không được pháp luật thừa nhận, vì kết hôn chưa đủ tuổi; việc kết hôn là do sự ép buộc và chưa đủ tuổi nên Bình không thể đăng kí kết hôn được.

- Để có thể thoát ra khỏi cuộc hôn nhân đó, Bình có thể nhờ bà con dòng tộc hoặc các cơ quan, đoàn thể, khuyên nhủ mẹ mình. Nếu không được thì nhờ pháp luật can thiệp.

Bình luận (0)
Huy Nguyen
28 tháng 1 2021 lúc 19:50

- Việc làm của mẹ Bình là sai, vì Bình mới 16 tuổi chưa đủ tuổi kết hôn theo pháp luật quy định và mẹ Bình cũng đã sai khi ép buộc Bình làm điều mình không muôn.

- Cuộc hôn nhân này sẽ không được pháp luật thừa nhận, vì kết hôn chưa đủ tuổi; việc kết hôn là do sự ép buộc và chưa đủ tuổi nên Bình không thể đăng kí kết hôn được.

- Để có thể thoát ra khỏi cuộc hôn nhân đó, Bình có thể nhờ bà con dòng tộc hoặc các cơ quan, đoàn thể, khuyên nhủ mẹ mình. Nếu không được thì nhờ pháp luật can thiệp.

Bình luận (0)
Trịnh Thị Kim Chi
Xem chi tiết
Lê Thị Quyên
24 tháng 7 2017 lúc 2:46

- Việc làm của mẹ Bình là sai, vì Bình mới 16 tuổi chưa đủ tuổi kết hôn theo pháp luật quy định và mẹ Bình cũng đã sai khi ép buộc Bình làm điều mình không muôn.

- Cuộc hôn nhân này sẽ không được pháp luật thừa nhận, vì kết hôn chưa đủ tuổi; việc kết hôn là do sự ép buộc và chưa đủ tuổi nên Bình không thể đăng kí kết hôn được.

- Để có thể thoát ra khỏi cuộc hôn nhân đó, Bình có thể nhờ bà con dòng tộc hoặc các cơ quan, đoàn thể, khuyên nhủ mẹ mình. Nếu không được thì nhờ pháp luật can thiệp.

Bình luận (0)
ggjyurg njjf gjj
Xem chi tiết
AFK hách 100%
12 tháng 3 2019 lúc 21:15

dễ mà tự làm nhé bạn

Bình luận (0)
Thúy Nguyễn
Xem chi tiết
Minh Hồng
5 tháng 4 2022 lúc 19:39

D

Bình luận (8)
Tạ Phương Linh
5 tháng 4 2022 lúc 19:40

Câu thơ "Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em" (trích Trao duyên của Nguyễn Du) diễn tả tâm trạng gì của Thúy Kiều khi trao duyên cho em?

A. Nàng hiểu và cảm thông cho hoàn cảnh của Thúy Vân nên không muốn ép uổng em.

B. Kiều xót xa khi mối duyên nàng trao cho em không trọn vẹn.

C. Kiều cay đắng khi nghĩ đến việc phải trao tình yêu đầu trong sáng và sâu sắc cho em.

D. Kiều lo lắng cho tương lai của em và Kim Trọng sau buổi trao duyên này.

Bình luận (0)
Hoàng Huyền
Xem chi tiết
Linh Linh
3 tháng 4 2021 lúc 19:58

mẹ H vi phạm pháp luật

vì H mới 16 tuổi chưa đủ tuổi kết hôn, H không thích nhưng mẹ cứ ép và bắt H về nhà chồng là mẹ H không choH quyền tự do tự nguyện trong hôn nhân, không tôn trọng quyết định của H chỉ vì cái lợi trước mắt.

 

Bình luận (0)
Quỳnh anh
Xem chi tiết

a) Mẹ Hà làm như vậy là sai. Làm vậy có thể ảnh hưởng rất lớn tới tương lai của bạn Hà. Hà mới học lớp 9 và còn cần học lên các lớp cao hơn, lúc này Hà vẫn chưa đủ tuổi để được đi lấy chồng,..

 

b) Nếu là Hà em sẽ khuyên mẹ không nên làm vậy, làm như thế là sai và vi phạm pháp luật. khuyên bố mẹ hãy để cho mình thời gian học tập và trưởng thành, khi lớn lên mình sẽ có công ăn việc làm ổn định để đỡ đần bố mẹ. Nếu bố mẹ không nghe em sẽ nhờ họ hàng và chính quyền giúp đỡ khuyên ngăn,...

Bình luận (0)
Hàn Băng Tâm
21 tháng 3 2022 lúc 16:02

Tình huống trên là sai vì , hà chưa đủ tuổi để kết hôn và bố mẹ không nên bắt nghỉ học để cưới K , dù K có tình cảm với Hà nhưng K cũng phải nghĩ đến hậu quả sau này , không nên quá vội vàng quyết định như vậy . Nếu như K có lòng với Hà thì phải để Hà học tập xong xuôi thì cưới gì thì cưới . Đồng ý hay không cũng phải do Hà quyết định , vì đây cũng là cuộc đời sau này của Hà

b) Nếu em là Hà , em sẽ : 

- Từ chối khéo léo 

- Khuyên anh K nên bỏ việc làm này 

- Hà và K chỉ có thể tới mức anh em , không thể tiến xa hơn nữa 

- Em vẫn coi K là người bạn tốt .

- Nhắc nhở K nên thay đổi 

Bình luận (0)
Sun Trần
21 tháng 3 2022 lúc 16:41

`a` Nhận xét của em về tình huống trên:

Tình huống trên là không đúng. Hà chưa đủ tuổi để kết hôn. Trong hôn nhân không được rằng buộc mà là sự đồng tình của cả hai bên. Trường hợp này là vì thương Hà nên bố mẹ đã bắt Hà nghỉ học cưới chồng sớm. Điều này sẽ rất ảnh hưởng cho tương lai của Hà sau này. Theo em thì Hà nên chú tâm vào việc học. Khi học xong vẫn có thể tính tiếp vì lúc đó vẫn chưa muộn.  

`b. ` Nếu em là Hà, em sẽ:

- Nói với gia đình rằng bây giờ con chưa muốn cưới chồng

- Con chưa học xong nên kể cả cưới thì luật pháp cũng không chấp nhận

- Bây giờ con muốn học, khi nào học song vẫn còn thời gian để tính về chuyện tương lai

- Nếu bố mẹ thực sự thương con thì hãy cho con đi theo con đường mà con đã chọn

-…..

Bình luận (0)
Phan Quynh anh
Xem chi tiết
Nguyễn Thị Thuỳ Dương
30 tháng 7 2020 lúc 16:25

 Câu 1:Nguyễn Du sinh năm Ất Dậu (1765), niên hiệu Cảnh Hưng, tại Thăng Long. Tổ tiên ông vốn từ làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (thuộc Hà Tây và nay thuộc Hà Nội) sau di cư vào xã Nghi Xuân, huyện Tiên Điền (nay là làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh).

Nguyễn Du thuộc về một gia đình khoa hoạn nổi danh ở làng Tiên Điền về thời Lê mạt. Trước ông, sáu bảy thế hệ viễn tổ đã từng đỗ đạt làm quan.

Đến thân phụ ông là Nguyễn Nghiễm (1708-1775), đậu Nhị giáp tiến sĩ, làm quan đến chức Đại tư đồ (Tể tướng), tước Xuân Quận Công dưới triều Lê… Ngoài là một đại thần, ông Nghiễm còn là một nhà thơ, một nhà nghiên cứu sử học. Ông Nghiễm có cả thảy tám vợ và 21 người con trai. Người con trưởng là Nguyễn Khản (1734-1786) đỗ Tam giáp tiến sĩ, làm quan tới chức Tham Tụng, tước Toản Quận Công (con bà chính, rất mê hát xướng, nổi tiếng phong lưu một thời, thân với chúa Trịnh Sâm), người con thứ hai là Nguyễn Điều đỗ Hương cống, từng làm trấn thủ Sơn Tây. Nếu kể theo thứ tự này, thì Nguyễn Du đứng hàng thứ bảy, nên còn được gọi là Chiêu Bảy.

Mẹ Nguyễn Du là bà Trần Thị Tần (1740-1778), con gái một người thuộc hạ làm chức câu kế, người xã Hoa Thiều, huyện Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Bà Tần là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, trẻ hơn chồng 32 tuổi. Bà sinh được năm con, bốn trai và một gái.

Thuở nhỏ Nguyễn Du sống trong nhung lụa, nhưng cuộc sống này kéo dài không quá mười năm. Vì 10 tuổi đã mồ côi cha, năm 13 tuổi, mồ côi mẹ, ông và các anh em ruột phải đến sống với người anh cả khác mẹ là Nguyễn Khản (khi ấy ông Khản đã hơn Nguyễn Du 31 tuổi)).

Năm 1780, khi ấy Nguyễn Du mới 15 tuổi thì xảy ra “Vụ mật án Canh Tý”: Chúa Trịnh Sâm lập con thứ là Trịnh Cán làm thế tử, thay cho con trưởng là Trịnh Tông. Ông Khản giúp Trịnh Tông, việc bại lộ, bị giam. Đến khi Trịnh Tông lên ngôi, ông Khản được cử lên làm Thượng thư Bộ Lại và Tham tụng. Quân lính khác phe (sử gọi là “kiêu binh”) không phục, kéo đến phá nhà, khiến ông Khản phải cải trang trốn lên Sơn Tây sống với em là Nguyễn Điều rồi về quê ở Hà Tĩnh. Thế là anh em Nguyễn Du từ bấy lâu đã đến nương nhờ ông Khản, mỗi người phải mỗi ngã.

Năm 1783, Nguyễn Du thi Hương đỗ tam trường (tú tài), sau đó không rõ vì lẽ gì không đi thi nữa. Trước đây, một võ quan họ Hà (không rõ tên) ở Thái Nguyên, không có con nên đã nhận ông làm con nuôi. Vì thế, khi người cha này mất, Nguyễn Du được tập ấm một chức quan võ nhỏ ở Thái Nguyên.

Năm 1786, Tây Sơn bắt đầu đưa quân ra Bắc Hà.

Năm 1789, Nguyễn Huệ, một trong ba thủ lĩnh của nhà Tây Sơn đã kéo quân ra Bắc đánh tan hai mươi mấy vạn quân Thanh sang tiến chiếm Đại Việt. Nguyễn Du cũng chạy theo vua Lê Chiêu Thống (1766-1793) nhưng không kịp, đành trở về quê vợ, quê ở Quỳnh Côi ở Thái Bình, sống nhờ nhà người anh vợ là danh sĩ Đoàn Nguyễn Tuấn (1750-?).

Được vài năm, Nguyễn Du về Nghệ An. Năm 1796, nghe tin ở Gia Định, chúa Nguyễn Ánh (1762-1819) đang hoạt động mạnh, ông định vào theo, nhưng chưa đi khỏi địa phận Nghệ An thì đã bị quân Tây Sơn do tướng Nguyễn Thuận chỉ huy, bắt giữ ba tháng. Trở về Tiên Điền (Hà Tĩnh), ông sống chật vật một thời gian dài cho đến mùa thu năm 1802, khi chúa Nguyễn Ánh lên ngôi lấy niên hiệu Gia Long, thì ông được gọi ra làm quan cho nhà Nguyễn.

Năm 1802, ông nhậm chức Tri huyện tại huyện Phù Dung (nay thuộc Khoái Châu, Hưng Yên). Tháng 11 cùng năm, đổi làm Tri phủ Thường Tín (Hà Tây, nay thuộc Hà Nội).

Kể từ đó, Nguyễn Du lần lượt đảm đương các chức việc sau: Năm 1803: đến cửa Nam Quan tiếp sứ thần nhà Thanh, Trung Quốc.

Năm 1805: thăng hàm Đông Các điện học sĩ.

Năm 1807: làm Giám khảo trường thi Hương ở Hải Dương.

Năm 1809: làm Cai bạ dinh Quảng Bình.

Năm 1813: thăng Cần Chánh điện học sĩ và giữ chức Chánh sứ đi Trung Quốc.

Sau khi đi sứ về vào năm 1814, ông được thăng Hữu tham tri Bộ Lễ.

Năm 1820, Gia Long mất, Minh Mạng (1791-1840) lên ngôi, Nguyễn Du lại được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc, nhưng chưa kịp lên đường thì mất đột ngột (trong một trận dịch khủng khiếp làm chết hàng vạn người lúc bấy giờ) ở kinh đô Huế vào ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn tức 18 tháng 9 năm 1820

Lúc đầu (1820), Nguyễn Du được táng ở xã An Ninh, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Bốn năm sau mới cải táng về Tiên Điền (Hà Tĩnh).

 Tác phẩm bằng chữ Hán:

Tính đến tháng 5 năm 2008, giới chuyên môn đã sưu tập được 249 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du, được chia ra như sau:

Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên) gồm 78 bài, viết chủ yếu trong những năm tháng trước khi làm quan nhà Nguyễn.Nam trung tạp ngâm (Ngâm nga lặt vặt lúc ở miền Nam) gồm 40 bài, viết khi làm quan ở Huế, Quảng Bình và những địa phương ở phía nam Hà Tĩnh.Bắc hành tạp lục (Ghi chép linh tinh trong chuyến đi sang phương Bắc) gồm 131 bài thơ, viết trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc.

 Tác phẩm bằng chữ Nôm

Đoạn trường tân thanh (Tiếng kêu mới về nỗi đan đứt ruột. Tên phổ biến là Truyện Kiều), được viết bằng chữ Nôm, gồm 3.254 câu thơ theo thể lục bát. Nội dung của truyện dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Nội dung chính của truyện xoay quanh quãng đời lưu lạc sau khi bán mình chuộc cha của Thuý Kiều, nhân vật chính trong truyện, một cô gái có tài sắc.Văn chiêu hồn (tức Văn tế thập loại chúng sinh, dịch nghĩa: Văn tế mười loại chúng sinh), hiện chưa rõ thời điểm sáng tác. Trong văn bản do Đàm Quang Thiện hiệu chú có dẫn lại ý của ông Trần Thanh Mại trên “Đông Dương tuần báo” năm 1939, thì Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa dịch khủng khiếp làm hằng triệu người chết, khắp non sông đất nước âm khí nặng nề, và ở khắp các chùa, người ta đều lập đàn giải thoát để cầu siêu cho hàng triệu linh hồn. Ông Hoàng Xuân Hãn cho rằng có lẽ Nguyễn Du viết Văn chiêu hồn trước cả Truyện Kiều, khi ông còn làm cai bạ ở Quảng Bình (1802-1812). Tác phẩm được làm theo thể song thất lục bát, gồm 184 câu thơ chữ Nôm.Thác lời trai phường nón, 48 câu, được viết bằng thể lục bát. Nội dung là thay lời anh con trai phường nón làm thơ tỏ tình với cô gái phường vải.Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ, 98 câu, viết theo lối văn tế, để bày tỏ nỗi uất hận vì mối tình với hai cô gái phường vải khác.
Còn lại thì mình chịu=)
Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa
Trịnh Thị Kim Chi
Xem chi tiết
Lê Thị Quyên
3 tháng 1 2020 lúc 9:38

Đáp án: B

Bình luận (0)
Quoc Tran Anh Le
Xem chi tiết