Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài

Những câu hỏi liên quan
Hieu Nguyen
Xem chi tiết
Hùng Nguyễn
4 tháng 1 2023 lúc 21:01

loại 1:

Nằm cách thủ đô Hà Nội hơn 60km về phía Nam, Đảo Cò thuộc xã Chi Lăng Nam, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương là khu du lịch sinh thái nổi tiếng với đàn cò lên đến hàng vạn con bay lượn trắng toát một vùng trời!

Đảo Cò được hình thành vào đầu thế kỉ 15, những người dân Hồng Thủy đã xây dựng dải đê lớn ven Sông Hồng. Năm ấy, một trận đại hồng thủy đã làm vỡ đê sông Luộc. Nước tràn vào ngập trắng cả một vùng và tạo ra một hòn đảo nổi ngay giữa lòng hồ, nay gọi là hồ An Dương. Đất lành chim đậu, cò, vạc khắp nơi đổ về đây rất nhiều, từ đó Đảo cò chính thức được hình thành.

Đàn cò lên đến hàng vạn con bay trắng một vùng trời Với diện tích 31,673 ha, ước tính có khoảng 17.000 con cò và hơn 7.000 con vạc thường xuyên đến lưu trú. Với tất cả 9 loại cò chính bao gồm: cò lửa, cò ruồi, cò bợ, cò đen, cò nghênh, cò diệc, cò trắng, cò ngang, cò hương và ba loại vạc là vạc xám, vạc xanh, vạc đen.

Ban quản lý Đảo Cò cho biết, cứ vào tháng 9 hàng năm, hàng ngàn con cò ở xứ khác bay về sinh sống và kiếm ăn cho tới tận tháng 4 năm sau mới lại bay đi. Đến với Đảo Cò trong thời điểm đó, du khác có thể thỏa mắt ngắm nhìn cả một vùng trời cò trắng muốt. Ngoài ra, du khác sẽ càng thích thú khi được tận mắt chứng kiến cảnh những chú cò con vừa ra đời, với đôi chân chưa vững, đứng nghiêng ngả trên những ngọn tre.

Ngoài những loại cò, vạc sinh sống tại đây, còn có rất nhiều loài động vật dưới nước khác như: cá ranh, cá ngạnh, cá vềnh, cá măng kìm. Với cảnh quan non nước hữu tình như hoà với thiên nhiên, Đảo Cò luôn để lại ấn tượng đẹp trong lòng du khách!

Ông Phạm Văn Thanh, du khách đến từ Hà Nội chia sẻ: “Tôi rất vui khi đến với Đảo Cò và thật bất ngờ trước cảnh thiên nhiên nơi đây. Được tận mắt chứng kiến từng đàn cò trắng bay đi kiến ăn cho tới khi chúng trở về, tôi có cảm giác như tìm được về với ký ước tuổi thơ!”.

Đến từ Bắc Giang, du khách Bùi Phương Dung chia sẻ: “Mình rất vui khi được đến Đảo Cò. Ở đây, mình đã được tận mắt chứng kiến hàng trăm, hàng nghìn chú cò bay lượn. Thú vị hơn cả là cảm giác ngồi thuyền đạp vịt xung quanh đảo để tận mắt ngắm cảnh cò mẹ mớm mồi cho cò con hay cảnh những chú cò con tranh giành mồi”.

Đến với Đảo Cò, từ xa, du khách có thể ngắm những đàn cò bay rợp trời, khi tới gần thì được tận mắt chứng kiến cảnh cò bay lượn lờ trên đầu, rỉa lông trên từng cành cây.

Điểm đặc biệt ở Đảo Cò, người dân trong khu vực có ý thức bảo vệ đảo cò rất tốt. Tuyệt đối không có hiện tượng săn bắn hay lấy trứng trên Đảo. Tuy nhiên, một bộ phận nhỏ du khách khi đến với Đảo Cò vẫn dùng súng trạc săn bắn. Tất cả các trường hợp đó đều được lượng lượng bảo vệ của đảo đã kịp thời ngăn chặn và nhắc nhở.

Ngày nay, Đảo Cò đã được mở rộng và trồng thêm nhiều cây cối, nhờ đó cò, vạc và các loài chim nước khác về ngày càng nhiều, đông hơn về số lượng, đa dạng về thành phần loài

loại 2:

Đảo Cò hình thành vào khoảng thế kỷ thứ 15 và được phát hiện vào năm 1994. Với hơn 3000m2 nổi lên giữa lòng hồ An Dương, Đảo Cò được phủ kín bởi một màu xanh ngát của những rặng tre và nhiều loài cây. Đó chính là nơi trú ngụ của các loại cò, đông nhất là cò lửa, cò ghềnh, cò bợ, cò trắng, cò diệc và cò ruồi, ngoài ra còn có nhiều vạc và chim. Tất cả chung sống hòa hợp và bình yên tạo nên một không gian vô cùng độc đáo tựa như những bức tranh tuyệt đẹp của làng quê Bắc bộ.

Không chỉ có thế, nơi đây còn mang trong mình truyền thuyết lạ kỳ được lưu lại từ xa xưa. Đó là vào những năm đầu thế kỷ 15, tại vùng đất này đã có trận đại hồng thủy làm vỡ dải đê lớn ven sông Hồng, nước cứ thế tràn vào những đồng ruộng trũng thấp, nhấn chìm tất cả trong một màu trắng băng. Tuy nhiên có một gò đất cao mà nước không thể dâng tới, bên trên có ngôi đền nhỏ. Cứ thế, sau hai trận lũ lớn nữa, xung quanh gò đất bỗng nổi lên những xoáy nước khổng lồ và ngôi đền linh thiêng đã biến mất. Cũng từ đó, nước không bao giờ rút đi và tạo thành hồ lớn như ngày nay. Và rồi…đất lành chim đậu, từng đàn chim, cò, vạc từ khắp nơi tụ về sinh sống, có những loài có nguồn gốc từ Ấn Độ, Nepal, Miến Điện, Trung Quốc…

Có một điều đặc biệt là trên khắp cả nước rất nhiều nơi cò về sinh sống như vườn cò Lạng Giang, vườn cò Đồng Xuyên, vườn cò Lập Thạch…nhưng đa phần gặp rất nhiều khó khăn trong công tác bảo tồn. Đảo Cò Chi Lăng, Thanh Miện thực sự là “độc nhất vô nhị”, biểu tượng cho nét thiên nhiên hoang sơ giữa đồng bằng Bắc bộ. Ở đây người dân sống chan hòa với đàn cò và không bao giờ làm hại đến chúng, chưa bao giờ có thể nghe một tiếng súng hay thấy chiếc bẫy nào. Chính vì thế đàn cò thản nhiên sống và sinh sôi nảy nở trên vùng đất bình yên của chúng. Thời điểm này là lúc gió heo may bắt đầu thổi, đảo Cò bỗng trở nên huyên náo hơn bao giờ hết. Từ mặt hồ đến không trung, nơi đâu du khách cũng có thể nhìn thấy rợp trời cò bay, trên khắp các cành cây, cò đâu trắng xóa, trông xa xa như một rừng bông đang nở rộ.

Đặc biệt vào những lúc sáng sớm hay hoàng hôn, du khách có thể thỏa sức chiêm ngưỡng những cánh cò chao lượn, thả hồn vào không gian hữu tình và tận mắt chứng kiến “cuộc sống” không kém phần ồn ào, náo nhiệt tại đây. Cả một đảo với màu trắng muốt của những chú cò, những tiếng kêu gọi nhau cùng đi kiếm ăn, cùng trở về tổ vang xa trong không trung, lúc trầm lúc bổng tựa bản giao hưởng tuyệt vời của thiên nhiên, tạo nên cảm giác vui thích thực sự. Ngồi trên thuyền, du khách có thể tận mắt nhìn thấy những chú cò con vừa chào đời, đôi chân non nớt đang run rẩy tập đứng vững trên các cành cây ngả nghiêng, những chú cò lớn đang rỉa cánh, cất tiếng kêu thỏ thẻ…

Đảo Cò thực sự là một điểm đến thú vị cho những du khách ưa thích khám phá thiên nhiên. Ngày nay, đảo đang được mở rộng và trồng thêm nhiều cây cối, cũng nhờ thế mà số lượng cò, vạc và các loài chim nước khác tụ về ngày càng đông. Có thể nói, đảo Cò là cảnh quan nguyên sơ nhất còn sót lại của cùng đất ngập nước ven sông Hồng từ xa xưa. Hãy một lần đến đảo Cò để được trải nghiệm những khoảnh khắc đáng nhớ cùng thiên nhiên thoáng đãng và rất đỗi yên bình.

Trần Gia Hân
4 tháng 1 2023 lúc 21:06

Việt Nam được biết đến là đất nước có nền văn hóa ẩm thực khá phong phú. Chúng ta có thể kể tên các món ăn đặc sản của dân tộc như bánh chưng, bánh cốm, phở, bún bò,... và đặc biệt là món nem rán. Đây là món ăn vừa cao quý lại vừa dân dã, bình dị để lại một mùi vị khó phai mờ trong mỗi chúng ta.

Nem rán có nguồn gốc từ Trung Quốc, thuộc nhóm các món Dimsum. Món ăn này đã theo chân những người Hoa khi di cư sang nước ta và được biến đổi thành món ăn phù hợp với khẩu vị người Việt. Nem rán không chỉ phổ biến ở Việt Nam, Trung Quốc mà nó còn góp mặt trong ẩm thực của đất nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp, Đức, Ba Lan và nhiều nước Trung, Nam Mĩ,... với các tên gọi khác nhau như Harumaki, Chungwon, Rouleau de printemps, Sajgonki,...Ở Việt Nam, tùy theo vùng miền mà món ăn này có những tên gọi riêng. Nem rán là cách gọi của người dân miền Bắc, người miền Trung gọi là chả cuốn và chả giò là cách gọi của người dân miền Nam.

Nguyên liệu chế biến món nem rán khá đa dạng nhưng cũng hết sức dễ tìm. Để món ăn đầy đủ các thành phần dinh dưỡng chúng ta cần chuẩn bị thịt băm, trứng gà hoặc trứng vịt, hành tây, hành lá, cà rốt, su hào, giá đỗ, rau mùi, rau thơm, mộc nhĩ, mì hoặc miến,...và một số loại gia vị như mì chính, bột canh, hạt tiêu, nước mắm,...Những gia vị này sẽ giúp món ăn thêm phần đậm đà, hấp dẫn. Một thứ không thể thiếu đó chính là bánh đa nem. Bánh đa nem được làm từ gạo và khi chọn ta cần lựa những lá bánh mềm, dẻo để khi gói không bị vỡ.

Để có được món nem rán thơm phức hoàn hảo, trước hết chúng ta cần sơ chế các nguyên liệu đã chuẩn bị. Chúng ta ngâm nấm và mộc nhĩ cho đến khi chúng nở ra rồi rửa sạch, thái nhỏ. Đồng thời các loại rau củ cũng gọt vỏ, rửa sạch và thái hoặc duôi nhỏ. Mì hoặc miến ngâm nước ấm trong khoảng năm phút rồi cũng cắt thành từng đoạn ngắn. Sau đó, cho tất cả các nguyên liệu vào âu hoặc bát to, đập thêm trứng, nêm thêm gia vị rồi trộn đều. Số trứng dùng để làm nem không nên quá nhiều vì như thế sẽ khiến nhân nem ướt rất khó cuộn và cũng không nên quá ít vì nem sẽ bị khô. Vì vậy, khi đập trứng ta nên đập lần lượt từng quả để ước lượng lượng trứng phù hợp. Màu cam của những sợi cà rốt, màu trắng của mì, màu xanh của rau, màu vàng của trứng,... tất cả hòa quyện với nhau trông thật hài hòa. Chúng ta sẽ ướp phần nhân nem từ 5 đến 10 phút để các gia vị ngấm đều.

Tiếp theo, chúng ta trải bánh đa nem trên một mặt phẳng rồi cho nhân nem vào cuộn tròn. Bánh đa nem có loại hình tròn, hình vuông, cũng có loại hình chữ nhật, tùy theo sở thích mà mỗi người lại lựa chọn những loại bánh đa nem khác nhau. Nếu muốn bánh đa nem mềm và giòn thì trước khi cuốn nem nên phết lên bánh đa nem một chút nước giấm pha loãng với đường và nước lọc. Chúng ta nên gấp hai mép bánh đa nem lại để phần nhân nem không bị chảy ra ngoài. Sau đó, đun sôi dầu ăn rồi cho nem vào rán. Khi rán nên để nhỏ lửa và lật qua lật lại để nem được chín vàng đều rồi vớt ra giấy thấm để nó hút bớt dầu mỡ, tránh cảm giác bị ngấy khi thưởng thức.

Nước chấm là thứ không thể thiếu để món nem trở nên đậm đà. Muốn có nước chấm ngon, chúng ta cần chuẩn bị một chút đường, tỏi, giấm, ớt, chanh và nước mắm. Đầu tiên, ta hòa tan đường bằng nước ấm rồi cho thêm tỏi, ớt đã băm nhỏ. Sau đó đổ từ từ giấm và nước mắm vào rồi khuấy đều cho các gia vị ngấm đều. Ta có thể thay giấm bằng chanh hoặc quất. Tùy khẩu vị của mỗi người mà nước chấm có độ mặn ngọt khác nhau. Cuối cùng, bày nem ra đĩa, trang trí thêm rau sống, cà chua hay dưa chuột thái lát để đĩa nem trông thật đẹp mắt. Những bông hồng được làm từ cà chua, những bông hoa được tỉa từ dưa chuột sẽ khiến món ăn vô cùng hấp dẫn. Nem rán chấm với nước chấm tỏi ớt sẽ mang lại cảm giác rất thú vị. Bánh đa nem vàng giòn cùng nhân nem thơm phức quyện hòa với nhau cùng vị cay cay của ớt, chua chua của giấm, ngòn ngọt của đường sẽ khiến những ai thưởng thức nó không bao giờ có thể quên được mùi vị đặc biệt này.

Nem rán đã trở thành một món ăn phổ biến trên khắp đất nước Việt Nam. Nó không chỉ có mặt trong những bữa cơm bình dị thường nhật mà còn xuất hiện trong mâm cơm thờ cúng tổ tiên. Đây là món ăn mang ý nghĩa trang trọng, cao quý. Ngoài ra nem rán còn dùng để ăn kèm với bún đậu và các món ăn khác. Giữa tiết trời se lạnh như thế này còn gì tuyệt vời hơn khi thưởng thức món em rán nóng hổi. Sự kết hợp các nguyên liệu làm nên nhân nem như mang một ý nghĩa biểu tượng về sự đoàn kết, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau của người dân đất Việt.

Nem rán không chỉ là món ăn giàu chất dinh dưỡng mà còn là món ăn góp phần tạo nên nền ẩm thực Việt với những đặc trưng và sự độc đáo riêng biệt. Món ăn này tuy dễ thực hiện nhưng lại đòi hỏi sự kì công và khéo léo nên người chế biến cần có sự tập trung nhất định. Đây còn là một trong những món ăn thu hút khách quốc tế khi đến thăm Việt Nam. Có thể nói, món nem rán nói riêng và ẩm thực Việt nói chung đang ngày càng khẳng định được giá trị trên thế giới.

Cô Châu Hạnh
4 tháng 1 2023 lúc 21:28

Em có thể tham khảo dàn ý sau kèm bài viết của các bạn nhé!

I. Mở bài

Giới thiệu ngắn gọn về danh lam thắng cảnh Đảo Cò Chi Lăng Nam 

II. Thân bài

- Đảo Cò hình thành vào khoảng thế kỷ thứ 15 và được phát hiện vào năm 1994. Với hơn 3000m2 nổi lên giữa lòng hồ An Dương, Đảo Cò được phủ kín bởi một màu xanh ngát của những rặng tre và nhiều loài cây. 

- Đó chính là nơi trú ngụ của các loại cò, đông nhất là cò lửa, cò ghềnh, cò bợ, cò trắng, cò diệc và cò ruồi, ngoài ra còn có nhiều vạc và chim. Tất cả chung sống hòa hợp và bình yên tạo nên một không gian vô cùng độc đáo tựa như những bức tranh tuyệt đẹp của làng quê Bắc bộ.

- Không chỉ có thế, nơi đây còn mang trong mình truyền thuyết lạ kỳ được lưu lại từ xa xưa. Đó là vào những năm đầu thế kỷ 15, tại vùng đất này đã có trận đại hồng thủy làm vỡ dải đê lớn ven sông Hồng, nước cứ thế tràn vào những đồng ruộng trũng thấp, nhấn chìm tất cả trong một màu trắng băng

-Tuy nhiên có một gò đất cao mà nước không thể dâng tới, bên trên có ngôi đền nhỏ. Cứ thế, sau hai trận lũ lớn nữa, xung quanh gò đất bỗng nổi lên những xoáy nước khổng lồ và ngôi đền linh thiêng đã biến mất

-Có một điều đặc biệt là trên khắp cả nước rất nhiều nơi cò về sinh sống như vườn cò Lạng Giang, vườn cò Đồng Xuyên, vườn cò Lập Thạch…nhưng đa phần gặp rất nhiều khó khăn trong công tác bảo tồn. Đảo Cò Chi Lăng, Thanh Miện thực sự là “độc nhất vô nhị”, biểu tượng cho nét thiên nhiên hoang sơ giữa đồng bằng Bắc bộ.

 

-Đặc biệt vào những lúc sáng sớm hay hoàng hôn, du khách có thể thỏa sức chiêm ngưỡng những cánh cò chao lượn, thả hồn vào không gian hữu tình và tận mắt chứng kiến “cuộc sống” không kém phần ồn ào, náo nhiệt tại đây. Cả một đảo với màu trắng muốt của những chú cò, những tiếng kêu gọi nhau cùng đi kiếm ăn, cùng trở về tổ vang xa trong không trung, lúc trầm lúc bổng tựa bản giao hưởng tuyệt vời của thiên nhiên, tạo nên cảm giác vui thích thực sự

III. Kết bài

- Nêu cảm nghĩ của em và khẳng định lại ý nghĩa của danh lam thắng cảnh Đảo Cò Chi Lăng Nam

Ngô Thành Chung
Xem chi tiết
Anh Qua
6 tháng 2 2019 lúc 21:46

đảo cò Chi Lăng Nam

Đảo cò Chi Lăng Nam ở Hải Dương được mệnh danh là điểm du lịch sinh thái “độc nhất vô nhị” của miền Bắc, với hàng vạn chú cò, vạc, chim nước cùng quần tụ giữa không gian xanh mát của một vùng quê thanh bình.

Nằm giữa lòng hồ An Dương mênh mông sóng nước với diện tích trên 20ha, Đảo cò Chi Lăng Nam là một dải đất nổi rộng hơn 7.000 m2, được phủ kín bởi những rặng tre xanh nghiêng mình soi bóng, trở thành ngôi nhà chung của nhiều loài chim, đông nhất là tập đoàn cò, vạc.

- Người dân Chi Lăng Nam vẫn lưu truyền sự tích về vùng đất này. Truyện kể rằng vào đầu thế kỷ 15, những trận đại hồng thủy đã làm dải đê lớn ven sông Hồng trải qua 3 lần vỡ đê liên tiếp, tạo thành hòn đảo nổi giữa hồ. Và đất lành thì chim đậu, từng đàn chim từ khắp nơi tụ về đây cư trú.

Theo ước tính, hiện nay Đảo cò Chi Lăng Nam có tới 12.000 con cò gồm nhiều giống khác nhau như: cò trắng, cò ruồi, cò nghênh, cò ngàng nhỏ, cò bợ, cò diệc, cò lửa, cò đen, cò hương... và hơn 5.000 con vạc gồm: vạc lưng xanh, vạc xám, vạc sao... cùng với một số loài chim nước khác như: diệc xám, chim chả, bói cá, bồng chanh, cuốc, cú mèo... Ngoài ra, lòng hồ An Dương còn có nhiều loài cá như: cá chép, cá nheo, cá quả, cá vược, cá bơn, cá chạch...

Ngoài ra, thiên nhiên nơi đây còn đan xen hài hòa với đền, chùa, miếu mạo, cùng các nghề truyền thống như gột cá, làm bánh tráng, bánh đa, ươm trồng cây cảnh... đủ để Chi Lăng Nam phát triển thành một vùng du lịch sinh thái hấp dẫn. Ngày 8/7/2014, Đảo cò xã Chi Lăng Nam đã được công nhận Di tích quốc gia, diện tích khoanh vùng bảo vệ là 67,1 ha.

Hàng năm, cứ đến mùa gió heo may thổi về vào khoảng tháng 9 âm lịch, là các loài cò, vạc và chim nước lại bay về quần tụ ở Đảo cò Chi Lăng Nam cho đến tận tháng 4 năm sau. Đặc biệt vào tháng 12, những ngày đất trời lập đông là thời điểm tập trung số lượng chim lớn nhất trong năm.

Đến tham quan đảo cò Chi Lăng Nam mùa này, ấn tượng đầu tiên với du khách sẽ là cảm giác choáng ngợp trước khung cảnh hàng vạn chú chim đậu san sát trên các tầng cây, trông xa như những cành hoa điểm đầy bông trắng. Nhộn nhịp nhất là lúc bình mình vừa ló dạng, và hoàng hôn chiều ráng.

- Sáng sớm, từng đàn cò kéo nhau đi kiếm ăn, tung đôi cánh trắng chao lượn giữa không trung rồi mất hút. Tà dương, khi những tia nắng cuối ngày ngả dài trên mặt hồ phẳng lặng, từng đàn cò lại nối nhau bay về tổ, cất tiếng kêu huyên náo cả một vùng. Đây còn là lúc “giao ca” giữa cò và vạc.

Trên một chiếc xuồng cỡ nhỏ để không làm náo động không gian, người chèo xuồng sẽ chầm chậm dạo quanh hồ, cho du khách thỏa thích quan sát cuộc sống sinh động của các loài chim. Bạn sẽ càng thích thú khi được xem tổ, ngắm những chú cò con tập tễnh, đôi chân vẫn còn chưa vững...

- Nếu đi ít người, bạn có thể thong thả đạp vịt, tự mình khám phá thiên nhiên kỳ thú nơi đây. Và nếu muốn tìm hiểu nhiều hơn về tập tính loài cò, vạc thì hãy ở lại một đêm bên Đảo cò Chi Lăng Nam. Đặc biệt, sẽ là một kỷ niệm khó quên khi xuồng lướt nhẹ trên mặt hồ sóng sánh ánh trăng.


Với cảnh quan hữu tình và thế giới sinh động của các loài chim, Đảo cò Chi Lăng Nam sẽ mang đến cho bạn những phút giây thư thái, hòa mình cùng thiên nhiên.
Đảo cò Chi Lăng Nam - khu du lịch đón khách Đảo cò Chi Lăng Nam - khu du lịch đón khách Đảo cò Chi Lăng Nam là nơi đạp vịt khá lý tưởng Đảo cò Chi Lăng Nam là nơi đạp vịt khá lý tưởng
Đảo cò Chi Lăng Nam - du khách đi xuồng ngắm chim Đảo cò Chi Lăng Nam - du khách đi xuồng ngắm chim Đảo cò Chi Lăng Nam - cò đậu đầy câu khô Đảo cò Chi Lăng Nam - cò đậu đầy câu khô
Đảo cò Chi Lăng Nam - cò kiếm ăn bên bờ hồ Đảo cò Chi Lăng Nam - cò kiếm ăn bên bờ hồ Đảo cò Chi Lăng Nam trong buổi hoàng hôn Đảo cò Chi Lăng Nam trong buổi hoàng hôn
Trương Nguyên Đại Thắng
Xem chi tiết
Kim Yến Nguyễn
Xem chi tiết
Thuy Bui
4 tháng 12 2021 lúc 10:28

tham khảo

 

1- Mở bài: Giới thiệu khái quát về chiếc nón lá Việt Nam.

2 - Thân bài:

- Hình dáng chiếc nón: Hình chóp

- Các nguyên liệu làm nón:

+ Mo nang làm cốt nón

+ Lá cọ để lợp nón

+ Nứa rừng làm vòng nón

+ Dây cước, sợi guột để khâu nón

+ Ni lông, sợi len, tranh ảnh trang trí.

- Quy trình làm nón:

+ Phơi lá nón rồi trải trên mặt đất cho mềm, sau đó là phẳng

+ Làm 16 vòng nón bằng cật nứa, chuốt tròn đều

+ Khâu nón: Đặt lá lên khuôn, dùng sợi cước khâu theo 16 vòng để hoàn thành sản phẩm. Khâu xong phải hơ nón bằng hơi diêm sinh.

- Các nơi làm nón ở Việt Nam: Huế, Quảng Bình. Nổi tiếng là nón làng Chuông - Hà Tây

- Tác dụng: Che nắng, che mưa làm duyên cho các thiếu nữ. Có thể dùng để múa, làm quà tặng. Chiếc nón là biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam

3 - Kết bài: Cảm nghĩ về chiếc nón lá Việt Nam

Dương Quỳnh	Phương
Xem chi tiết
công chúa băng giá
13 tháng 9 2020 lúc 13:50

1- Mở bài: Giới thiệu khái quát về chiếc nón lá Việt Nam.

2 - Thân bài:

- Hình dáng chiếc nón: Hình chóp

- Các nguyên liệu làm nón:

+ Mo nang làm cốt nón

+ Lá cọ để lợp nón

+ Nứa rừng làm vòng nón

+ Dây cước, sợi guột để khâu nón

+ Ni lông, sợi len, tranh ảnh trang trí.

- Quy trình làm nón:

+ Phơi lá nón rồi trải trên mặt đất cho mềm, sau đó là phẳng

+ Làm 16 vòng nón bằng cật nứa, chuốt tròn đều

+ Khâu nón: Đặt lá lên khuôn, dùng sợi cước khâu theo 16 vòng để hoàn thành sản phẩm. Khâu xong phải hơ nón bằng hơi diêm sinh.

- Các nơi làm nón ở Việt Nam: Huế, Quảng Bình. Nổi tiếng là nón làng Chuông - Hà Tây

- Tác dụng: Che nắng, che mưa làm duyên cho các thiếu nữ. Có thể dùng để múa, làm quà tặng. Chiếc nón là biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam

3 - Kết bài: Cảm nghĩ về chiếc nón lá Việt Nam

chúc bàn học tốt ^_^

Khách vãng lai đã xóa
Huong San
Xem chi tiết
 ❀◕ ‿ ◕❀ Honey Bear
15 tháng 12 2017 lúc 21:51

1- Mở bài: Giới thiệu khái quát về chiếc nón lá Việt Nam.

2 - Thân bài:

- Hình dáng chiếc nón: Hình chóp

- Các nguyên liệu làm nón:

+ Mo nang làm cốt nón

+ Lá cọ để lợp nón

+ Nứa rừng làm vòng nón

+ Dây cước, sợi guột để khâu nón

+ Ni lông, sợi len, tranh ảnh trang trí.

- Quy trình làm nón:

+ Phơi lá nón rồi trải trên mặt đất cho mềm, sau đó là phẳng

+ Làm 16 vòng nón bằng cật nứa, chuốt tròn đều

+ Khâu nón: Đặt lá lên khuôn, dùng sợi cước khâu theo 16 vòng để hoàn thành sản phẩm. Khâu xong phải hơ nón bằng hơi diêm sinh.

- Các nơi làm nón ở Việt Nam: Huế, Quảng Bình. Nổi tiếng là nón làng Chuông - Hà Tây

- Tác dụng: Che nắng, che mưa làm duyên cho các thiếu nữ. Có thể dùng để múa, làm quà tặng. Chiếc nón là biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam

3 - Kết bài: Cảm nghĩ về chiếc nón lá Việt Nam

 ❀◕ ‿ ◕❀ Honey Bear
15 tháng 12 2017 lúc 21:51

I/MB: Giới thiệu khái quát về chiếc nón lá Việt Nam.

II/TB:

1. Cấu tạo:

- Hình dáng? Màu sắc? Kích thước? Vật liệu làm nón?…

- Cách làm (chằm) nón:

+ Sườn nón là các nan tre. Một chiếc nón cần khoảng 14 - 15 nan. Các nan được uốn thành vòng tròn. Đường kính vòng tròn lớn nhất khoảng 40cm. Các vòng tròn có đường kính nhỏ dần, khoảng cách nhỏ dần đều là 2cm.

+ Xử lý lá: Lá cắt về phơi khô, sau đó xén tỉa theo kích thước phù hợp.

+ Chằm nón: Người thợ đặt lá lên sườn nón rồi dùng dây cước và kim khâu để chằm nón thành hình chóp.

+ Trang trí: Nón sau khi thành hình được quét một lớp dầu bóng để tăng độ bền và tính thẩm mỹ (có thể kể thêm trang trí mỹ thuật cho nón nghệ thuật).

- Một số địa điểm làm nón lá nổi tiếng: Nón lá có ở khắp các nơi, khắp các vùng quê Việt Nam. Tuy nhiên một số địa điểm làm nón lá nổi tiếng như: Huế, Quảng Bình, Hà Tây (làng Chuông)…

2. Công dụng: Giá trị vật chất và giá trị tinh thần.

a) Trong cuộc sống nông thôn ngày xưa:

- Người ta dùng nón khi nào? Để làm gì?

- Những hình ảnh đẹp gắn liền với chiếc nón lá. (nêu VD)

- Sự gắn bó giữa chiếc nón lá và người bình dân ngày xưa:

+ Ca dao (nêu VD)

+ Câu hát giao duyên (nêu VD)

b) Trong cuộc sống công nghiệp hoá - hiện đại hoá ngày nay:

Kể từ tháng 12/2007 người dân đã chấp hành qui định nội nón bảo hiểm của Chính phủ. Các loại nón thời trang như nón kết, nón rộng vành... và nón cổ điển như nón lá... đều không còn thứ tự ưu tiên khi sử dụng nữa. Tuy nhiên nón lá vẫn còn giá trị của nó:

- Trong sinh hoạt hàng ngày (nêu VD)

- Trong các lĩnh vực khác:

+ Nghệ thuật: Chiếc nón lá đã đi vào thơ ca nhạc hoạ (nêu VD).

+ Người VN có một điệu múa lá "Múa nón" rất duyên dáng.

+ Du lịch

III/KB: Khẳng định giá trị tinh thần của chiếc nón lá.

 ❀◕ ‿ ◕❀ Honey Bear
15 tháng 12 2017 lúc 21:51

I. Mở bài: Giới thiệu về nón lá

“Sao anh không về thăm quê em

Ngắm em chằm nón buổi đầu tiên

Bàn tay xây lá, tay xuyên nón

Mười sáu vành, mười sáu trăng lên”

Không biết tự bao giờ, nón lá đã đi vào thơ ca một cách dịu dàng như thế. Nón đã trở thành biểu tượng của con người Việt Nam. Trong mỗi con người Việt Nam luôn biết đến nón, nhưng chưa hiểu rõ về chiếc nón. Chính vì thế mà chúng ta cùng đi tìm hiểu về chiếc nón lá Việt Nam.

II. Thân bài

1. Khái quát

- Nón lá có hình chóp

- Là vật dụng gắn liền với các mẹ, các chị

- Là một vật dụng hữu ích trong cuộc sống

2. Chi tiết

a. Nguồn gốc

Từ 2500 - 3000 năm về trước công nguyên, hình ảnh chiếc nón lá được chạm khắc trên trống đồng Ngọc Lũ, Trống Đồng Đông Sơn, trên thạp đồng Đào Thịnh. Nón lá có từ rất lâu đời ở Việt Nam.

b. Cấu tạo nón lá:

Nón lá thường có hình chóp hay tù, tùy vào công dung mà nón còn có một số loại nón rộng bản hay một số loại khác. Lá nón được xếp trên một cái khung gồm các nan tre nhỏ uốn thành hình vòng cung, được ghim lại bằng sợi chỉ, hoặc các loại sợi tơ tằm,... giữ cho lá với khung bền chắc…

Nón lá thường được đan bằng các loại lá khác nhau như lá cọ, lá nón, lá buông, rơm, tre, lá cối, lá hồ, lá du quy diệp chuyên làm nón v.v…

Nón lá thường có dây đeo làm bằng vải mềm hoặc nhung, lụa để giữ trên cổ.

c. Cách làm nón

- Xử lí lá nón

- Làm khung nón

- Làm nón

d. Phân loại nón

- Nón ngựa hay nón Gò Găng: Nón này được sản xuất ở Bình Định, nón được làm từng lá dứa, thường dùng khi đội đầu cưỡi ngựa.

- Nón quai thao: Được người Bắc sử dụng khi di lễ hội.

- Nón bài thơ: Được sản xuất từ Huế

- Nón dấu

- Nón rơm

- Nón cời

e. Các thương hiệu nón nổi tiếng:

- Làng nón Đồng Di (Phú Vang)

- Làng nón Dạ Lê (Hương Thủy)

- Làng nón Phủ Cam (Huế)

- Làng Chuông

f. Công dụng

- Trong cuộc sống thường ngày: Che nắng, mưa, làm quạt mát, ….

- Trong nghệ thuật: Dùng để múa, vẽ,….

- Trong giá trị tinh thần: Nón là một vật dùng để làm quà, hay quản bá về nét văn hóa Việt Nam với các du khách.

III. Kết bài: Nêu ý nghĩ và cảm nghĩ về nón lá

Dù bây giờ đã có các loại mũ thời trang hàng hiệu nhưng nón lá vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong lòng người dân Việt Nam. Nón lá là biểu tượng văn hóa của Việt Nam, là một giá trị tinh thần của con người Việt Nam.

Nhung Dinh
Xem chi tiết
Nguyễn Như Quỳnh
Xem chi tiết
Thời Sênh
11 tháng 2 2019 lúc 19:54

Nằm cách thủ đô Hà Nội hơn 60km về phía Nam, Đảo Cò thuộc xã Chi Lăng Nam, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương là khu du lịch sinh thái nổi tiếng với đàn cò lên đến hàng vạn con bay lượn trắng toát một vùng trời!

Đảo Cò được hình thành vào đầu thế kỉ 15, những người dân Hồng Thủy đã xây dựng dải đê lớn ven Sông Hồng. Năm ấy, một trận đại hồng thủy đã làm vỡ đê sông Luộc. Nước tràn vào ngập trắng cả một vùng và tạo ra một hòn đảo nổi ngay giữa lòng hồ, nay gọi là hồ An Dương. Đất lành chim đậu, cò, vạc khắp nơi đổ về đây rất nhiều, từ đó Đảo cò chính thức được hình thành.

Đàn cò lên đến hàng vạn con bay trắng một vùng trời Với diện tích 31,673 ha, ước tính có khoảng 17.000 con cò và hơn 7.000 con vạc thường xuyên đến lưu trú. Với tất cả 9 loại cò chính bao gồm: cò lửa, cò ruồi, cò bợ, cò đen, cò nghênh, cò diệc, cò trắng, cò ngang, cò hương và ba loại vạc là vạc xám, vạc xanh, vạc đen.

Ban quản lý Đảo Cò cho biết, cứ vào tháng 9 hàng năm, hàng ngàn con cò ở xứ khác bay về sinh sống và kiếm ăn cho tới tận tháng 4 năm sau mới lại bay đi. Đến với Đảo Cò trong thời điểm đó, du khác có thể thỏa mắt ngắm nhìn cả một vùng trời cò trắng muốt. Ngoài ra, du khác sẽ càng thích thú khi được tận mắt chứng kiến cảnh những chú cò con vừa ra đời, với đôi chân chưa vững, đứng nghiêng ngả trên những ngọn tre.

Ngoài những loại cò, vạc sinh sống tại đây, còn có rất nhiều loài động vật dưới nước khác như: cá ranh, cá ngạnh, cá vềnh, cá măng kìm. Với cảnh quan non nước hữu tình như hoà với thiên nhiên, Đảo Cò luôn để lại ấn tượng đẹp trong lòng du khách!

Ông Phạm Văn Thanh, du khách đến từ Hà Nội chia sẻ: “Tôi rất vui khi đến với Đảo Cò và thật bất ngờ trước cảnh thiên nhiên nơi đây. Được tận mắt chứng kiến từng đàn cò trắng bay đi kiến ăn cho tới khi chúng trở về, tôi có cảm giác như tìm được về với ký ước tuổi thơ!”.

Đến từ Bắc Giang, du khách Bùi Phương Dung chia sẻ: “Mình rất vui khi được đến Đảo Cò. Ở đây, mình đã được tận mắt chứng kiến hàng trăm, hàng nghìn chú cò bay lượn. Thú vị hơn cả là cảm giác ngồi thuyền đạp vịt xung quanh đảo để tận mắt ngắm cảnh cò mẹ mớm mồi cho cò con hay cảnh những chú cò con tranh giành mồi”.

Đến với Đảo Cò, từ xa, du khách có thể ngắm những đàn cò bay rợp trời, khi tới gần thì được tận mắt chứng kiến cảnh cò bay lượn lờ trên đầu, rỉa lông trên từng cành cây.

Điểm đặc biệt ở Đảo Cò, người dân trong khu vực có ý thức bảo vệ đảo cò rất tốt. Tuyệt đối không có hiện tượng săn bắn hay lấy trứng trên Đảo. Tuy nhiên, một bộ phận nhỏ du khách khi đến với Đảo Cò vẫn dùng súng trạc săn bắn. Tất cả các trường hợp đó đều được lượng lượng bảo vệ của đảo đã kịp thời ngăn chặn và nhắc nhở.

Ngày nay, Đảo Cò đã được mở rộng và trồng thêm nhiều cây cối, nhờ đó cò, vạc và các loài chim nước khác về ngày càng nhiều, đông hơn về số lượng, đa dạng về thành phần loài.

Quốc Đạt
11 tháng 2 2019 lúc 19:54

Đảo Cò hình thành vào khoảng thế kỷ thứ 15 và được phát hiện vào năm 1994. Với hơn 3000m2 nổi lên giữa lòng hồ An Dương, Đảo Cò được phủ kín bởi một màu xanh ngát của những rặng tre và nhiều loài cây. Đó chính là nơi trú ngụ của các loại cò, đông nhất là cò lửa, cò ghềnh, cò bợ, cò trắng, cò diệc và cò ruồi, ngoài ra còn có nhiều vạc và chim. Tất cả chung sống hòa hợp và bình yên tạo nên một không gian vô cùng độc đáo tựa như những bức tranh tuyệt đẹp của làng quê Bắc bộ.

Không chỉ có thế, nơi đây còn mang trong mình truyền thuyết lạ kỳ được lưu lại từ xa xưa. Đó là vào những năm đầu thế kỷ 15, tại vùng đất này đã có trận đại hồng thủy làm vỡ dải đê lớn ven sông Hồng, nước cứ thế tràn vào những đồng ruộng trũng thấp, nhấn chìm tất cả trong một màu trắng băng. Tuy nhiên có một gò đất cao mà nước không thể dâng tới, bên trên có ngôi đền nhỏ. Cứ thế, sau hai trận lũ lớn nữa, xung quanh gò đất bỗng nổi lên những xoáy nước khổng lồ và ngôi đền linh thiêng đã biến mất. Cũng từ đó, nước không bao giờ rút đi và tạo thành hồ lớn như ngày nay. Và rồi…đất lành chim đậu, từng đàn chim, cò, vạc từ khắp nơi tụ về sinh sống, có những loài có nguồn gốc từ Ấn Độ, Nepal, Miến Điện, Trung Quốc…

Có một điều đặc biệt là trên khắp cả nước rất nhiều nơi cò về sinh sống như vườn cò Lạng Giang, vườn cò Đồng Xuyên, vườn cò Lập Thạch…nhưng đa phần gặp rất nhiều khó khăn trong công tác bảo tồn. Đảo Cò Chi Lăng, Thanh Miện thực sự là “độc nhất vô nhị”, biểu tượng cho nét thiên nhiên hoang sơ giữa đồng bằng Bắc bộ. Ở đây người dân sống chan hòa với đàn cò và không bao giờ làm hại đến chúng, chưa bao giờ có thể nghe một tiếng súng hay thấy chiếc bẫy nào. Chính vì thế đàn cò thản nhiên sống và sinh sôi nảy nở trên vùng đất bình yên của chúng. Thời điểm này là lúc gió heo may bắt đầu thổi, đảo Cò bỗng trở nên huyên náo hơn bao giờ hết. Từ mặt hồ đến không trung, nơi đâu du khách cũng có thể nhìn thấy rợp trời cò bay, trên khắp các cành cây, cò đâu trắng xóa, trông xa xa như một rừng bông đang nở rộ.

Đặc biệt vào những lúc sáng sớm hay hoàng hôn, du khách có thể thỏa sức chiêm ngưỡng những cánh cò chao lượn, thả hồn vào không gian hữu tình và tận mắt chứng kiến “cuộc sống” không kém phần ồn ào, náo nhiệt tại đây. Cả một đảo với màu trắng muốt của những chú cò, những tiếng kêu gọi nhau cùng đi kiếm ăn, cùng trở về tổ vang xa trong không trung, lúc trầm lúc bổng tựa bản giao hưởng tuyệt vời của thiên nhiên, tạo nên cảm giác vui thích thực sự. Ngồi trên thuyền, du khách có thể tận mắt nhìn thấy những chú cò con vừa chào đời, đôi chân non nớt đang run rẩy tập đứng vững trên các cành cây ngả nghiêng, những chú cò lớn đang rỉa cánh, cất tiếng kêu thỏ thẻ…

Đảo Cò thực sự là một điểm đến thú vị cho những du khách ưa thích khám phá thiên nhiên. Ngày nay, đảo đang được mở rộng và trồng thêm nhiều cây cối, cũng nhờ thế mà số lượng cò, vạc và các loài chim nước khác tụ về ngày càng đông. Có thể nói, đảo Cò là cảnh quan nguyên sơ nhất còn sót lại của cùng đất ngập nước ven sông Hồng từ xa xưa. Hãy một lần đến đảo Cò để được trải nghiệm những khoảnh khắc đáng nhớ cùng thiên nhiên thoáng đãng và rất đỗi yên bình.

hmone
Xem chi tiết
minh nguyet
17 tháng 11 2021 lúc 15:14

Em tham khảo ở đây nhé:

Lăng họ Ngọ

Thư Phan
17 tháng 11 2021 lúc 15:15

Tham khảo

 

Lăng do chính Ngọ Công Quế xây dựng vào năm 1697 dưới triều vua Lê Hy Tông (1676 - 1705). Lúc đầu ông định xây dựng bằng đá xanh, nhưng sau sợ đá xanh dễ bị cậy để nung vôi nên ông đã quyết định xây bằng đá muối và đá ong lấy ở núi IA cách đó khoảng 1,5 km. Ông thuê thợ đánh đá và đục chạm ngay tại chỗ theo quy cách rồi mới chuyển về lăng. Một lần, khi xe chở voi đá, ngựa đá qua cửa đền IA thờ Thánh Hùng Linh Công thì không sao nhúc nhích lên được. Ngọ Công Quế làm lễ tạ và cúng vào Đền IA đôi ngựa đá và đôi voi [2]. Từ đó việc đánh đá xây Lăng mới trôi chảy.

Lăng hình chữ nhật theo hướng Nam với diện tích khoảng trên 1 sào (400 m2), trước khu lăng có ao hình chữ nhật. Bốn mặt khu đất trước kia có tường xây bằng đá ong, nay ba mặt tường phía Bắc - Đông - Tây bằng đá ong đã bị phá huỷ gần hết và xây lại bằng gạch, tường phía Nam bằng đá ong còn tương đối nguyên vẹn và cao 2,15 m (Ảnh 1, 2 và 3).

Cổng dẫn vào lăng xây kiểu vòm cuốn, hai bên nền khung cửa có chạm nổi hai võ sĩ, rìa cổng có hai con chó đá (Ảnh 1).

Trên khu đất trước phần mộ là hai dãy tượng chầu được bố cục đăng đối hai bên đường thần đạo: hai con voi phục (Ảnh 2, Ảnh 3), hai cặp người đứng cạnh ngựa, hai con sấu (Ảnh 4, Ảnh 5). Trước phần mộ là một hương án để tế lễ, cạnh hương án có hai con nghê ngồi chầu và ngẩng cao đầu. Hai bên hương án còn có hai bàn đá dùng để đặt các đồ tế lễ (Ảnh 6 và 12). Sau hướng án và trước cổng vào phần mộ có một bàn đá to thấp, dùng để trải chiếu và đặt đồ lễ trong những ngày tế lễ (Ảnh 7).

Đằng sau hương án là cổng vào phần mộ có mặt bằng 15,1 m x 12,5 m có tường đá bao quanh cao 1,9 m. Trên nền cổng phần mộ chạm hai người đứng hầu, trên cổng khắc chữ "Linh Quang Từ" (Ảnh 7). Trung tâm phần mộ là một tháp đá hình vuông với hai tầng mái, tầng hai có cửa bốn mặt, chóp hình vuông, bốn góc các mái cong như mũi hài (Ảnh 8).

Ở phía bắc phần mộ là nhà bia, cấu trúc kiểu tháp đá bốn mặt giống tháp mộ nhưng nhỏ hơn, 4 mặt có trổ cửa tò vò, mỗi mặt ở phía dưới có hình hai con lân ngồi chầu (Ảnh 9). Bia đá cao 1,25m không kể mái, dài 1m, rộng 0,50m, trên khắc "Linh Quang Từ chỉ bi ký", niên hiệu Chính Hòa thứ 18 (1697) và niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ nhất (1705). Bốn mặt bia khắc chữ Hán nôm, nội dung bia tóm lược công đức của Ngọ tướng công với nước, với quê hương, thời gian xây dựng lăng 1697 và trùng tu lăng vào năm 1714.

Lăng họ Ngọ là một công trình kiến trúc đồ sộ được chạm khắc đá công phu với tài nghệ điêu luyện tinh xảo, là công trình điêu khắc nghệ thuật đá tiêu biểu hạng nhất ở tỉnh Bắc Giang.

๖ۣۜHả๖ۣۜI
17 tháng 11 2021 lúc 15:17

Tham khảo

 

Lăng do chính Ngọ Công Quế xây dựng vào năm 1697 dưới triều vua Lê Hy Tông (1676 - 1705). Lúc đầu ông định xây dựng bằng đá xanh, nhưng sau sợ đá xanh dễ bị cậy để nung vôi nên ông đã quyết định xây bằng đá muối và đá ong lấy ở núi IA cách đó khoảng 1,5 km. Ông thuê thợ đánh đá và đục chạm ngay tại chỗ theo quy cách rồi mới chuyển về lăng. Một lần, khi xe chở voi đá, ngựa đá qua cửa đền IA thờ Thánh Hùng Linh Công thì không sao nhúc nhích lên được. Ngọ Công Quế làm lễ tạ và cúng vào Đền IA đôi ngựa đá và đôi voi [2]. Từ đó việc đánh đá xây Lăng mới trôi chảy.

Lăng hình chữ nhật theo hướng Nam với diện tích khoảng trên 1 sào (400 m2), trước khu lăng có ao hình chữ nhật. Bốn mặt khu đất trước kia có tường xây bằng đá ong, nay ba mặt tường phía Bắc - Đông - Tây bằng đá ong đã bị phá huỷ gần hết và xây lại bằng gạch, tường phía Nam bằng đá ong còn tương đối nguyên vẹn và cao 2,15 m (Ảnh 1, 2 và 3).

Cổng dẫn vào lăng xây kiểu vòm cuốn, hai bên nền khung cửa có chạm nổi hai võ sĩ, rìa cổng có hai con chó đá (Ảnh 1).

Trên khu đất trước phần mộ là hai dãy tượng chầu được bố cục đăng đối hai bên đường thần đạo: hai con voi phục (Ảnh 2, Ảnh 3), hai cặp người đứng cạnh ngựa, hai con sấu (Ảnh 4, Ảnh 5). Trước phần mộ là một hương án để tế lễ, cạnh hương án có hai con nghê ngồi chầu và ngẩng cao đầu. Hai bên hương án còn có hai bàn đá dùng để đặt các đồ tế lễ (Ảnh 6 và 12). Sau hướng án và trước cổng vào phần mộ có một bàn đá to thấp, dùng để trải chiếu và đặt đồ lễ trong những ngày tế lễ (Ảnh 7).

Đằng sau hương án là cổng vào phần mộ có mặt bằng 15,1 m x 12,5 m có tường đá bao quanh cao 1,9 m. Trên nền cổng phần mộ chạm hai người đứng hầu, trên cổng khắc chữ "Linh Quang Từ" (Ảnh 7). Trung tâm phần mộ là một tháp đá hình vuông với hai tầng mái, tầng hai có cửa bốn mặt, chóp hình vuông, bốn góc các mái cong như mũi hài (Ảnh 8).

Ở phía bắc phần mộ là nhà bia, cấu trúc kiểu tháp đá bốn mặt giống tháp mộ nhưng nhỏ hơn, 4 mặt có trổ cửa tò vò, mỗi mặt ở phía dưới có hình hai con lân ngồi chầu (Ảnh 9). Bia đá cao 1,25m không kể mái, dài 1m, rộng 0,50m, trên khắc "Linh Quang Từ chỉ bi ký", niên hiệu Chính Hòa thứ 18 (1697) và niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ nhất (1705). Bốn mặt bia khắc chữ Hán nôm, nội dung bia tóm lược công đức của Ngọ tướng công với nước, với quê hương, thời gian xây dựng lăng 1697 và trùng tu lăng vào năm 1714.

Lăng họ Ngọ là một công trình kiến trúc đồ sộ được chạm khắc đá công phu với tài nghệ điêu luyện tinh xảo, là công trình điêu khắc nghệ thuật đá tiêu biểu hạng nhất ở tỉnh Bắc Giang.