sau khi hoc bai trung thực
Sau mot dot thi hoc sinh gioi cap tinh co khong qua 130 em .Sau khi cham bai thay so emdat diem gioi chiem 1/9,diem kha dat1/3,diem yeu dat 1/14 tong sao khi sinh , con lai la trung binh.Tính so hoc sinh moi,loai?
1 . nhung bai hoc song va hanh dong cua em sau khi hoc xong bai Con ho co nghia
2 . viet van ban ngan trinh bay nhung bai hoc ma em nhan duoc qua cac van ban truyen trung dai trong chuong trinh ngu van 6 , tap mot
LAM ON TRA LOI NHANH LEN GIÙM ,CHI CON 30 PHUT NUA THOI DAY NGAY 18 thang 1 nam 2017!!!!!....!!!..???
sau khi hoc xong van ban son tinh thuy tinh em rut ra duoc bai hoc gi?
Câu chuyện tồn tại đến ngày nay như một bài học nhắc nhở cho thế hệ mai sau luôn chiến đấu, đối mặt với thiên tai. Hàng năm, bão lũ vẫn về nhưng nhờ những công trình thủy lợi, đê điều mà cuộc sống của chúng ta ngày một đầy đủ, ấm no. Có thể nói ước mơ, khát vọng của người Việt xưa đã và đang được thế hệ sau gìn giữ, tiếp nối và thực hiện. Câu Chuyện Sơn Tinh – Thủy Tinh vẫn còn mang giá trị lớn cho đến ngày nay.
Em rút ra bài học rằng từ xa xưa đất nước ta đã bị lũ lụt tàn phá nhiều lần nhưng các vua Hùng vẫn dựng nước và nước chúng ta đang sinh sống chính là công lao mà xưa người Việt và vua Hùng đã bảo vệ . Bác Hồ có nói rằng : '' Các vua Hùng đã có công dựng nước , bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước '' và chúng ta phải có ý thức trồng nhiều cây xanh , bảo vệ rừng và không xả rác nơi công cộng để đất nước ta không bị lũ lụt tàn phá nữa
Chúc bạn học tốt !
neu cam nghi sau khi hoc bai qua deo ngang
“Qua đèo Ngang” là lời nhắn gửi tâm sự của nỗi lòng tác giả đên người đọc. Bài thơ không chỉ là một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ đượm nét buồn mà còn là những tiếc nuối, một tấm lòng yêu nước thương dân. Phải thật giàu cảm xúc, thật yêu thiên nhiên cùng con người, Bà Huyện Thanh Quan mới có thể để lại những vần thơ tuyệt tác như vậy.
“Qua đèo Ngang” là tác phẩm nổi tiếng nhất của Bà Huyện Thanh Quan . Bài thơ được viết khi bà trên đường vào Phú Xuân, đi qua đèo Ngang- một địa danh nổi tiếng ở nước ta với phong cảnh hữu tình. Bằng giọng thơ man mác, hồn thơ tinh tế và lối thơ điêu luyện, “Qua đèo Ngang” không chỉ là bức tranh thiên niên đầy màu sắc mà còn bộc lộ tâm trạng cô đơn của tác giả, có chút gì đó nuối tiếc về thời phong kiến huy hoàng đã dần tàn lụi.
Bài thơ “Qua đèo Ngang” được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Mở đầu là hai câu đề:
Bước đến đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Chỉ với câu thơ đầu tiên tác giả đã khái quát lên toàn bộ về hoàn cảnh, không gian, thời gian khi viết bài thơ. Cách mở đầu rất tự nhiên, không hề gượng ép, tưởng như tác giả chỉ thuận chân “bước đến” rồi tức cảnh sinh tình trước khung cảnh đèo Ngang trong buổi chiều hoàng hôn “bóng xế tà”. Hình ảnh “bóng xế tà” lấy ý từ thành ngữ “chiều ta bóng xế” gợi cho ta một nét gì đó buồn man mác, mênh mang, có chút nuối tiếc về một ngày đang sắp qua. Trong khung cảnh hoàng hôn đẹp mà buồn ấy, tác giả chú ý đến một vài hình ảnh độc đáo của đèo Ngang “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”. Với việc nhân quá các loại cảnh vật qua động từ “chen” cùng với phép liệt kê hoàng loạt cho ta thấy nét sống động trong bức tranh khung cảnh này. Cỏ cây cùng với đá núi, lá và hoa đua nhau vươn lên đầy sức sống. Những hình ảnh nhỏ bé nhưng sức sống thật mãnh liệt. Trong ánh chiều ta lụi tàn mà còn bắt gặp được những hình ảnh này để lại cho ta thật nhiều suy nghĩ.
Cảm nghĩ về bài thơ “Qua đèo Ngang”
Hai câu thực là khi tác giả đang ở trên đèo cao, phóng mắt nhìn về xung quanh, xa hơn những đá núi, cây cỏ để tìm đến bóng dáng con người:
!-->Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
Hình ảnh con người đã hiện ra nhưng dường như chỉ làm bức tranh thêm hiu hắt. Tác giả sử dụng biện pháp đảo ngữ cũng với từ láy gợi tả để thể hiện lên điều này. Con người ở đây chỉ có “tiều vài chú” kết hợp với từ láy “lom khom” dưới núi. Cảnh vật thì “lác đác” “chợ mấy nhà”. Tất cả quá nhỏ bé so với cảnh thiên nhiên hùng vĩ của đèo Ngang. Dường như không khí vắng vẻ, hiu quạnh bao trùm lên toàn cảnh vật.
Hai câu luận là nỗi buồn được khắc họa rõ nét qua những âm thanh thê lương:
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Tiếng kêu thiết tha hay chính là tiếng lòng tác giả. “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc” là câu thơ từ điển tích xưa về vua thục mất nước hóa thành con cuốc chỉ biết kêu “cuốc cuốc”. Tiếng cuốc kêu khắc khoải càng làm bóng chiều thêm tĩnh lặng. Còn tiếng “gia gia” là tiếng kêu tha thiết gợi nỗi “thương nhà”. Ở đây cảm xúc của nhà thơ được bộc lộ rõ rệt. Nghệ thuật chơi chữ đồng âm độc đáo kết hợp nhân hóa cùng chuyển đổi cảm giác gây ấn tượng mạnh đã cho ta thấy được tấm lòng yêu nước thương nhà của Bà Huyện Thanh Quan.
Hai câu kết, khép lại những cảm xúc cũng như khung cảnh thiên nhiên của bài thơ :
Dừng chân đứng lại: trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Cảnh vật đèo Ngang thật hùng vĩ khiến tác giả dừng chân không muốn rời. Cái bao la của đất trời, núi non, sông nước như níu chân người thi sĩ. Nhưng đứng trước không gian bao la hùng vĩ ấy, tác giả chợt nhận ra nỗi cô đơn trong lòng mình dần dâng lên “một mảnh tình riêng ta với ta”. Khung cảnh thiên nhiên càng rộng lớn thì nỗi cô đơn của người lữ khác cũng càng đầy. Một mảnh tình riêng, một nỗi lòng sâu kín, những tâm sự đau đáu trong lòng mà không biết chia sẻ nhắn nhủ với ai. Âm hưởng nhịp điệu câu thơ như một tiếng thở dài nuối tiếc.
“Qua đèo Ngang” là lời nhắn gửi tâm sự của nỗi lòng tác giả đên người đọc. Bài thơ không chỉ là một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ đượm nét buồn mà còn là những tiếc nuối, một tấm lòng yêu nước thương dân. Phải thật giàu cảm xúc, thật yêu thiên nhiên cùng con người, Bà Huyện Thanh Quan mới có thể để lại những vần thơ tuyệt tác như vậy.
-------------chúc bạn học tốt--------------
Sau khi hoc xong truyen ngan "buc tranh cua em gai toi" em rut ra dc bai hoc gi
Truyện Bức tranh của em gái tôi không dài (chỉ hơn hai trang sách), nhưng cũng đủ để cho ta thấy tài năng của tác giả qua cách kể chuyện và xây dựng hệ thống nhân vật.Tạ Duy Anh là một cây bút trẻ xuất hiện trong văn học thời kì đổi mới, đã có những truyện ngắn gây được sự chú ý của bạn đọc bởi nghệ thuật đặc sắc và phong cách riêng biệt, độc đáo của mình. Trong đó có tác phẩm Bức tranh cửa em gái tôi. Truyện đã đạt được giải nhì (giải cao nhất) trong cuộc thi viết Tương lai vẫy gọi do báo Thiếu niên Tiền phong phát động.
Trước hết phải kể đến phương thức kể chuyện. Tạ Duy Anh đã lựa chọn ngôi kể chuyện là ngôi thứ nhất. Truyện được kể bằng lời kể của nhân vật nguời anh. Lựa chọn như vậy giúp cho việc miêu tả tâm trạng của nhân vật sinh động hơn, có nghĩa là lời kể tự nhiên hơn và bộc lộ tâm trạng kín đáo, sâu sắc hơn. Theo cách kể này thì diễn biến tâm trạng, sự biến đổi về cách nhìn của người anh đối với cô em gái, và cả vẻ đẹp của người em gái sẽ được thể hiện một cách tự nhiên. Qua người anh, ta thấy được sự thức tỉnh của cậu ta, lại vừa thấy rõ vẻ đẹp của cô em gái. Nhờ vậy mà chủ đề tác phẩm càng được bộc lộ sâu sắc. Bài học về sự tự đánh giá, tự nhận thức càng thấm thìa hơn với người anh.
Người đọc đánh giá rất cao nghệ thuật xây dựng hệ thống nhân vật qua diễn biến tâm trạng và thái độ của người anh và cô em gái. Nhờ vậy, truyện đã dẫn dắt ta từ tình huống bất ngờ này đến những bất ngờ khác, liên tiếp từ đầu cho đến khi kết thúc.
Diễn biến tâm trạng của người anh được xây dựng bằng chính lời kể của nhân vật. Tâm trạng đó được thay đối qua diễn biến của câu chuyện: thoạt đầu, khi thấy em gái vẽ và mày mò tự chế thuốc vẽ; khi tài năng hội hoạ của cô em gái được phát hiện; và ở cuối truyện, khi đứng trước bức tranh được giải nhất của em gái mình.
Thoạt đầu là thái độ coi thường việc làm của Kiều Phương. Khi thấy em gái vẽ và mày mò tự chế tạo màu vẽ, người anh chỉ coi đó là những trò nghịch ngợm của trẻ con và nhìn bằng cái nhìn kẻ cả, không cần để ý đến “Mèo con” đã vẽ những gì. Cách nhìn ấy được thể hiện qua giọng kể của người anh: tôi quen gọi nó là Mèo bởi vì mặt nó luôn bị chính nó bôi bẩn. “Mèo” luôn bị nhắc nhở vì hay lục lọi các đồ vật trong nhà: Này, em không để chúng nó yên được à? Khi phát hiện được cô em nhào bột vẽ, người anh buông một câu: Thảo nào các đít xoong chảo bị nó cạo trắng cả. Quả thật, thái độ của những người làm anh trong một gia đình thường coi em gái mình là như vậy!
Khi tài năng hội hoạ của người em được phát hiện thì tâm trạng của người anh cũng bị biến đổi. Do tình cờ mà chú Tiến Lê phát hiện ra năng khiếu hội họa của người em. Sáu bức tranh của người em làm cho bố, mẹ và mọi người đều ngạc nhiên, vui mừng, sung sướng. Duy có người anh lại cảm thấy buồn, buồn vì cảm thấy mình bất tài và cho rằng vì lí do đó mà mình bị đẩy ra ngoài, bị cả nhà lãng quên. Sống với tâm trạng như vậy, người anh không thể thân với em gái như trước nữa, rồi đối xử với em gái không công bằng chỉ cần một lỗi nhỏ ở nó là tôi gắt um lên. Tâm lí măc cảm, tự ti đã khiến người anh những lúc ngồi bên bàn học chỉ muốn gục xuống khóc. Thậm chí vẻ mặt ngộ nghĩnh của em gái trước kia bây giờ làm cho người anh vô cùng khó chịu, cảm thấy như mình đang bị “chọc tức”. Đây là một kiểu tâm lí dễ gặp ở mọi người, nhất là ở tuổi thiếu niên, đó là lòng tự ái và mặc cảm tự ti khi thấy người khác có tài năng nổi bật. Phải là người am hiểu tâm lí trẻ em lắm, tác giả mới đưa ra một tình huống thay đổi tâm lí của người anh hấp dẫn và tạo được kịch tính cho truyện hay đến như vậy!
Truyện đã đem đến cho mỗi người chúng ta bài học ứng xử trong cuộc sống: cần có thái độ thiện chí, có sự trân trọng và niềm vui thực sự chân thành trước thành công hay tài năng của người khác, ngay cả khi người đó là bạn bè trong lớp hay người thân trong gia đình.
Đọc xong truyện này, tôi nghĩ đây không phải chỉ là câu chuyện dành cho trẻ em, mà có thể là câu chuyện dành cho người lớn, nếu không nói rằng đối tượng chủ yếu mà tác giả muốn hướng tới chính là những người lớn! Nếu như trong truyện ngắn "Cuộc chia tay của những con búp bê" (Khánh Hoài), thông điệp mà nhà văn muốn gửi tới những người lớn oai phong bệ vệ là: "Hãy vượt qua thói ích kỉ bệnh hoạn để nghĩ đến tình thương và trách nhiệm đối với trẻ thơ vô tội!" thì trong truyện ngắn này, thông điệp của nhà văn là: "Hãy khiêm tốn nhận thức lại cho đúng về bản thân mình để chiến thắng thói đố kị tầm thường!".
Nếu tất cả những người lớn trên hành tinh này đều từ bỏ được hai thói xấu ích kỉ và đố kị thì có lẽ trăm phần trăm nhân loại đã nhất loạt hiển Thánh cả rồi! Tuy nhiên, đó chỉ là ảo vọng, mãi mãi là ảo vọng! Bởi con người không phải là thánh nhân, cho nên tất phải có lỗi lầm. Trong một lần trả lời phỏng vấn báo chí, nhà văn Bùi Bình Thi có nói rằng: "Nếu con người mà không có khuyết tật gì thì vị trí của họ là ở trong... viện bảo tàng!". Bởi sống là phải hoạt động. Mà hoạt động tất phát sinh quan hệ. Trong vô số các quan hệ mà con người phải xử lí thì có thể có cái đúng, có cái sai, có cái gần đúng, có cái gần sai, có cái vừa đúng vừa sai... Vấn đề là có nhận ra cái sai hay không? Nhận ra rồi thì có chịu sửa hay không?
Câu chuyện của Tạ Duy Anh được khởi đầu trong bầu không khí hồn nhiên "rất trẻ con", đó là những quan sát và nhận xét khá khách quan vô tư của nhân vật "tôi": "Em gái tôi tên là Kiều Phương, nhưng tôi quen gọi nó là Mèo bởi vì mặt nó luôn bị chính nó bôi bẩn". Nhưng ngay sau đó, nhân vật "tôi" bắt đầu "khó chịu" vì cảm thấy ở cô em gái có một điều gì đó không tầm thường như những thói đời bẩm sinh mà ai ai cũng có, thế là như một phản ứng tức thì của bản năng: "Tôi quyết định bí mật theo dõi em gái tôi"! Đến đây, nhân vật "tôi" - tức người anh trai, đã có một biểu hiện không thật đàng hoàng. Cái không thật đàng hoàng ấy tuy còn mơ hồ, nhưng cũng đủ trở thành mối bận tâm của người anh trai, mà nếu phải gọi đúng tên nó ra thì đó chính là cái "mầm đố kị ghen ghét" vốn sẵn có trong mọi con người, ở mọi lứa tuổi, ngự trên mọi cương vị... Cái mầm ấy luôn "phục kích" trong lòng dạ con người và nó thường nhẫn nại chầu chực cơ hội để được "phát tác" như một thứ vũ khí bảo vệ sĩ diện của những kẻ "tiểu nhân đắc chí"!
Tới khi hoạ sĩ Tiến Lê chính thức thừa nhận cô em gái là một "tài năng" thì cái mầm đố kị ghen ghét trong con người nhân vật "tôi" bùng nổ từ âm thầm đến dữ dội, từ dữ dội đến mù quáng! Thoạt đầu là mặc cảm kém cỏi: "Kể từ hôm đó, mặc dù mọi chuyện vẫn như cũ trong căn nhà của chúng tôi, nhưng tôi luôn cảm thấy mình bất tài nên bị đẩy ra ngoài. Những lúc ngồi bên bàn học, tôi chỉ muốn gục xuống khóc". Tiếp theo là thói sinh sự theo kiểu "đất bằng nổi sóng": "Tôi chẳng tìm thấy ở tôi một năng khiếu gì. Và không hiểu vì sao tôi không thể thân với Mèo như trước kia được nữa. Chỉ cần một lỗi nhỏ ở nó là tôi gắt um lên". Tiếp theo nữa là một hành vi vụng trộm: "Tôi quyết định làm một việc mà tôi vẫn coi khinh: xem trộm những bức tranh của Mèo". Cuối cùng là thái độ hằn học: "Bây giờ tôi cảm thấy nó như chọc tức tôi..." và sự cô độc: "Rồi cả nhà - trừ tôi - vui như tết...".Thế đấy! Khi đã "phát tác", thói đố kị ghen ghét giống như một ngọn lửa hoang dại thiêu đốt và làm méo mó tâm hồn của nhân vật "tôi", khiến cho nhân vật này nhìn cái vẻ mặt "rất ngộ" của cô em gái trước đây thành ra cái mặt "chọc tức" trong hiện tại, tức là gương mặt vốn khả ái của người thân thích ruột thịt bỗng trở thành gương mặt thách đố ngạo mạn của kẻ thù!
Thế nhưng, nếu chỉ có thói đố kị ghen ghét ngự trị thì hẳn là nhân loại sẽ bị rơi vào tình trạng "tự ăn thịt mình" cho đến khi... tự huỷ diệt! Thói xấu thâm căn cố đế ấy chắc chắn là không thể tận diệt được, nhưng có thể chế ngự được, có thể hoá giải được bằng lòng nhân ái vị tha! Phải chăng đây là một sự cân bằng động do Tạo Hoá khả kính từng dày công vun đắp cả triệu triệu năm?! Trong câu chuyện của Tạ Duy Anh, người anh càng tha hoá bao nhiêu thì cô em gái càng có "liệu pháp điều trị" thích hợp và hiệu quả bấy nhiêu! Bài học mà hoạ sĩ Tiến Lê dạy Mèo: "Cháu hãy vẽ cái gì thân thuộc nhất với cháu" đâu chỉ là bài học dạy cho trẻ con? Bỏ qua tất cả sự "khó chịu" của người anh, cô em gái đã "nhập tâm" một nguyên lí của sáng tạo nghệ thuật là chỉ vẽ "những gì thân thuộc nhất" không phải như nó vốn có, mà là phải nhào nặn, tái tạo và tôn vinh "nguyên mẫu" lên một tầm cao thẩm mĩ đầy sức cảm hoá, thuyết phục: "Trong tranh, một chú bé đang ngồi nhìn ra ngoài cửa sổ, nơi bầu trời trong xanh. Mặt chú bé như toả ra một thứ ánh sáng rất lạ. Toát lên từ cặp mắt, tư thế ngồi của chú không chỉ sự suy tư mà còn rất mơ mộng nữa". Nghệ thuật đích thực tự nó đã hàm chứa thiên chức giáo dục, cái thiên chức có sức mạnh cải tạo con người thật kì diệu: "Tôi giật sững người. Chẳng hiểu sao tôi phải bám chặt lấy tay mẹ. Thoạt tiên là sự ngỡ ngàng, rồi đến hãnh diện, sau đó là xấu hổ. Dưới mắt em tôi, tôi hoàn hảo đến thế kia ư?... Vậy mà dưới mắt tôi thì..." và "tôi muốn khóc quá"...
Dĩ nhiên, cái gốc của nghệ thuật đích thực bao giờ cũng là: "... tâm hồn và lòng nhân hậu..." của người nghệ sĩ! Chính tâm hồn và lòng nhân hậu ấy đã trở thành tác nhân hối thúc con người tự nhận thức lại bản thân mình nghiêm khắc hơn bao giờ hết: "Không phải con đâu. Đấy là tâm hồn và lòng nhân hậu của em con đấy"!Hẳn nhiên, nhân loại tiến bộ chẳng còn mong gì hơn thế! Và chỉ có như thế thì nghệ thuật mới thực sự có ích cho đời sống tinh thần của con người! Mà đời sống tinh thần của con người là bằng chứng hùng hồn nhất và cũng là bằng chứng duy nhất để phân biệt con người với cầm thú!
Bai 4: Trong mot bai kiem tra toan, mot lop gom ba to A, B va C, diem trung binh cua hoc sinh o cac to duoc thong ke nhu sau: A: 9,0;
B: 8,8: C:7,8; A va B: 8,9: B va C:8,2. Biet to A co 10 hoc sinh, hay xac dinh so hoc sinh va diem trung binh toan lop
Phat bieu cam nghi cua em sau khi hoc xong bai Song nui nuoc Nam
DÀN BÀI
I. Mở bài
-Tương truyền bài Sông núi nước Nam(thường gọi là Thơ thần) được Lí Thường Kiệt sáng tác vào khoảng cuối năm 1076, trong một trận chiến đấu ác liệt chống quân Tống xâm lược.
-Nội dung bài thơ vừa động viên tướng sĩ hăng hái giết giặc, vừa đanh thép cảnh cáo, làm lung lay ý chí kẻ thù.
II. Thân bài
* Chủ quyền độc lập, tự do của nước Nam là chân lí không gì thay đổi được.
+Câu thứ nhất: Nam quốc sơn hà Nam đế cư(Sông núi nước Nam vua Nam ở).
-Khái niệm vua Nam vào thời bấy giờ đồng nhất với khái niệm dân tộc. Vua đại diện cho quốc gia, dân tộc.
-Xưng danh Nam quốc(nước Nam) là tác giả có chủ ý gạt bỏ thái độ miệt thị từ trước tđi nay của các triều đình phong kiến phương Bắc (Bắc quốc) đối với nước ta, coi nước Nam chỉ là chư hầu.
-Khẳng định tư thê bình đẳng, độc lập về chính trị của nước ta bâng thái độ kiêu hãnh, tự hào (Nam quốc, Nam đế).
+Câu thứ hai: Tiệt nhiên định phận tại thiên thư(Vằng vặc sách trời chia xứ sở).
-Nhấn mạnh chủ quyền của nước Nam đã được ghi rõ trong sách trời (Thiên thư). Trời đã phân định cho nước Nam bờ cõi riêng. Câu thơ nhuốm màu sắc thần linh thiêng liêng khiến cho chân lí về chủ quyền độc lập của nước Nam càng tăng thêm giá trị.
+Câu thứ ba: Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm(Giặc dữ cớ sao phạm đến dây?)
-Thái độ của tác giả là câm giận và khinh bỉ: gọi quân xâm lược là nghịch lỗ,tức lũ giặc ngạo ngược, làm trái đạo trời, đạo người.
-Ngạc nhiên trước việc một nước lớn tự xưng là thiên triều mà lại dám phạm tới lệnh trời.
+Câu thứ tư: Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư(Chúng mày nhất định phải tan vỡ)
-Cảnh cáo quân xâm lược rằng làm trái dạo trời thì tất yếu sẽ chuốc lấy thất bại thảm hại. Đó là quy luật không thể tránh khỏi.
-Thể hiện niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh chính nghĩa của quân và dân nước Nam sẽ đánh tan quân thù, bảo vệ chủ quyền độc lập, tự do của TỔ quốc.
III. Kết bài
-Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh chiến đấu ác liệt đã trở thành nguồn sức mạnh tinh thần to lớn, động viên quân ta anh dũng chiến đấu và chiến thắng.
-Bài thơ ra đời đã gần ngàn năm nhưng ý nghĩa to lớn, sâu sắc của nó vẫn còn nguyên vẹn, xứng đáng là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta.
Nam quốc sơn hà là một trong những áng văn chương kiệt tác của văn học thời Lí- Trần. Nó là tác phẩm kết tinh được hào khí thời đại, cảm xúc của muôn trái tim, vì thế, nó tiêu biểu cho tinh thần độc lập, khí phách anh hùng và khát vọng lớn lao của dân tộc trong buổi đầu xây dựng một quốc gia phong kiến độc lập.
Sông núi nước Nam là một bài thơ chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Nguyên tác như sau:
Nam quốc sơn hà
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Dịch thành:
Sông núi nước Nam
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Vằng vặc sách trời chia xứ sở
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng bay nhất định phải tan vỡ.
(Theo Lê Thước - Nam Trân dịch)
Tương truyền rằng, trong cuộc kháng chiến chống Tống đời nhà Lí, một đêm tối trên phòng tuyến Như Nguyệt, từ trong đền thờ hai thần Trương Hồng và Trương Hát (hai vị tướng giỏi của Triệu Quang Phục, được tôn là thần sông Như Nguyệt), bài thơ đã ngân vang lên (Vì thế người ta gọi bài thơ này là thơ thần). Nhưng dù là do thần linh hay con người đọc lên thì bài thơ vẫn là khát vọng và khí phách Đại Việt.
Ý tưởng bảo vệ độc lập, kiên quyết chống giặc ngoại xâm được diễn đạt trực tiếp qua một mạch lập luận khá chặt chẽ và biện chứng.
Mở đầu bài thơ là lời tuyên bố đanh thép về chủ quyền đất nước:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Câu thơ 7 tiếng tạo thành hai vế đối xứng nhau nhịp nhàng: Nam quốc sơn hà - Nam đế cư. Đặc biệt, cách dùng chữ của tác giả bài thư thể hiện rất “đắt” ý tưởng và cảm xúc thơ. Hai từ Nam quốc và Nam đế có thể coi là nhãn tự (mắt thần) của câu thơ và của cả bài thơ. Trong tư tưởng của bọn cầm quyền phong kiến Trung Quốc xưa nay-chỉ có Bắc đế, chứ không thế có Nam đế hoàng đế Trung Hoa là vị hoàng đế duy nhất của thiên hạ, thay trời trị vì thiên hạ. Vì thế, khi xâm lược nước Nam, áp đặt được ách thống trị, chúng đã ngang nhiên trắng trợn biến nước ta thành quận, huyện của Trung Quốc. Nền độc lập mà chúng ta giành lại được hôm nay thấm không ít máu của cha ông ta đã đổ suốt hơn một ngàn năm. Và nay nền độc lập ấy vẫn đang bị đe doạ bởi tư tưởng ngông cuồng kia.
Trở lại với nội dung tư tưởng bao hàm qua ngôn từ của câu thơ. Nam quốc không chỉ có nghĩa là nước Nam, mà Nam quốc còn là vị thế của nước Nam ta, đất nước ấy dù nhỏ bé nhưng tồn tại độc lập, sánh vai ngang hàng với một cường quốc lớn ở phương Bắc như Trung Quốc. Hơn nữa, đất nước ấy lại có chủ quyền, có một vị hoàng đế (Nam đế). Vị hoàng đế nước Nam cũng có uy quyền không kém gì các hoàng đế Trung Hoa, cũng là một bậc đế vương, do đấng tối cao phong tước, chia cho quyền cai quản một vùng đất riêng mà lập nên giang sơn xã tắc của mình:
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Sông núi nước Nam là của người Nam. Đó là sự thật hiển nhiên. Không ai có quyền phủ định? Bởi sự phân định núi sông, bờ cõi đâu phải là ý muốn chủ quan của một người hay một số người, mà do “Trời” định đoạt. Bản đồ ranh giới lãnh thổ của các quốc gia đã in dấu ấn trong sách trời: Ai có thể thay đổi được?!
Tác giả bài thơ đã đưa ra những lí lẽ thật xác đáng. Qua cách lập luận, nổi lên một quan niệm, một chân lí thiêng liêng và cao cả: chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của dân tộc Đại Việt.
Vẫn những lí lẽ đanh thép ấy, tác giả khẳng định tiếp:
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Thật là một khí phách kiên cường! Thay mặt cả dân tộc, nhà thơ đã lớn tiếng cảnh cáo bọn giặc xâm lược: Chúng bay phạm vào bờ cõi này, tức là chúng bay đã phạm vào sách trời; mà phạm vào sách trời, tức là làm trái với đạo lí trở thành kẻ đại nghịch vô đạo (nghịch lỗ), lẽ nào Trời đất dung tha. Mặt khác chúng bay phạm vào bờ cõi này tức là phạm vào chủ quyền thiêng liêng của một dân tộc, nhất là dân tộc đó lại là một dân tộc có bản lĩnh kiên cường, có ý chí độc lập mạnh mẽ, vậy thì, sự thất bại sẽ là điều không thể tránh khỏi, thậm chí còn bị đánh cho tơi bời thủ bại hư.
Chưa bao giờ trong văn học Việt Nam lại có một khí phách hào hùng như thế! Cảm xúc thơ thật mãnh liệt, tạo nên chất trữ tình chính luận- một đặc điểm của thơ ca thời Lí - Trần, khiến người đọc rưng rưng!
Và ngàn đời sau, bài thơ vẫn là hồn thiêng sông núi vọng về.
ket qua bai kiem tra mon toan cua khoi 6 co so bai loai gioi chiem 50% tong so bai, so bai loai kha chiem 2/5 tong so bai va con lai 12 bai trung binh. hoi khoi 6 co bao nhieu hoc sinh. Tinh so bai loai gioi , kha. Tinh ty so phan tram so hoc sinh cua loai kha, trung binh so voi ca khoi
Cac ban hoc 24h giup minh giai nha
Giải
50 % = 1/2
12 bạn trong khối 6 của trường đó chiếm :
1 - 1/2 - 2/5 = 1/10 ( số học sinh cả khối )
Số học sinh trong khói 6 của trường đó là :
12 : 1/10 = 120 ( học sinh )
Đáp số : 120 học sinh
Sau khi hoc bai Cong truong mo ra em hay tom tat bang vai cau ngan gon ????
Đêm trước ngày đưa con đến trường, người mẹ không ngủ được. Người mẹ ngắm nhìn con ngủ say, long mẹ bồi hồi xúc động, nhớ lại những hành động của con trước khi ngủ, nhớ về thuở nhỏ với những kỷ niệm sâu sắc trong ngày khai trường đầu tiên. Lo cho tương lai của con, người mẹ liên tưởng đến ngày khai trường ở Nhật - một ngày lễ thật sự của toàn xã hội – nơi mà ai cũng thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến thế hệ tương lai. Đó cũng là tình cảm, niềm tin và khát vọng của người mẹ đối với tương lai của đứa con
chúc bạn học tốt
Bài cổng trường mở ra như một lời tâm sự nhẹ nhàng và những cảm giác của nhân vật Mẹ khi con bước chân tới trường, và vai trò của nhà trường có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của con người. Những cảm giác mong chờ và lạ của người mẹ khi con bước chân vào lớp 1 mẹ lo lắng và bồi hồi không ngủ được nhưng mẹ luôn tin tưởng ở người con là đã lớn rồi, mẹ quan tâm tới cảm xúc khi ngày đầu tiên con bước chân tới trường, cảm giác khi gặp thầy cô và bạn bè ra sao và bao cung bậc cảm xúc khác, người mẹ ân cần và dịu dàng lo cho con từng giấc ngủ và chuẩn bị đồ đạc để tới trường ngày đầu tiên.
Tác giả đã viết về cảm xúc của người mẹ đối với con khi ngày đầu tiên con đến trường, việc con trường ngày đầu tiên là việc người mẹ rất quan tâm.
Ngày mai con đến trường. Người mẹ thức suốt đêm, suy nghĩ triền miên về ngày đi học đầu tiên của con trong khi đứa con, vì còn nhỏ nên rất vô tư, chỉ háo hức một chút, sau đó đã ngủ ngon lành. Điều khiến người mẹ không ngủ được không phải vì quá lo lắng cho con, người mẹ đang sống lại kí ức của mình.