phòng thi lạnh lẽo, óc tronh veo
một chiếc phao thi bé tẻo teo
bước vào phòng thi hơi lo lắng
kiến thức trong đầu sẽ đi vèo
cái óc lơ lửng, mặt xanh ngắt
bài làm chưa xong, phòng vắng teo
tựa gối ôm đầu, làm chẳng được
nộp tờ giấy trắng, lấy chữ 0
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lững, trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co, khách vắng teo
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo
Phân tích sơ lược bài thơ Thu Điếu của Nguyễn Khuyến được nếu trên
ai giúp mình với
Trình bày cảm nhận của em về đoạn thơ sau:
"Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi lượn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trước quanh co khách vắng teo
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo".
Nguyễn Khuyến là một trong hai đại biểu xuất sắc cuối cùng của nền văn học Trung đại Việt Nam. Ông được coi là bậc quán quân về thơ tả cảnh mùa thu. Chùm thơ thu ba bài Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm của ông được đánh giá là tam tuyệt của thơ thu Việt Nam.Trong đó, Thu điếu có nét đặc sắc riêng, tả cảnh thu ở một không gian thời gian cụ thể. Đằng sau cảnh thu tĩnh lặng là nỗi niềm tâm sự thầm kín của thi nhân.
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Từng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối ôm cần,lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Mùa thu là đề tài quen thuộc của thi ca. Thơ viết về mùa thu của văn học Trung đại Việt Nam thường miêu tả cảnh đẹp vắng vẻ, úa tàn và u buồn. Cảnh thu được ghi lại một cách ước lệ tượng trưng với những nét chấm phá, chớp lấy cái hồn của tạo vật. Thu điếu của Nguyễn Khuyến cũng mang nét thi pháp ấy. Nhưng Nguyễn Khuyến được mệnh danh là nhà thơ của làng quê Việt Nam. Gần suốt đời mình, ông gắn bó với thôn quê, hòa hợp và thấu hiểu mảnh đất quê nhà. Thế nên, cảnh vật làng quê trong thơ ông hiện lên rất chân thực, giản dị, tinh tế. Đọc Thu điếu, ta bắt gặp một bức tranh thu đặc trưng của vùng chiêm trũng Bắc bộ, quê hương của nhà thơ. Đấy chính là nét mới mẻ của tác phẩm so với thi pháp truyền thống của văn học Trung đại Việt Nam. Thu điếu viết bằng chữ Nôm, làm theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Cảnh thu được miêu tả trong hầu hết 8 câu thơ, hình ảnh con người chỉ xuất hiện trực tiếp ở hai câu cuối bài. Cảnh trong bài vẫn là trời nước, gió, trúc – những thi liệu quen thuộc nhưng hồn thơ thì đã vượt ra khỏi khuôn sáo thi tứ cổ điển. Hình ảnh đầu tiên được tác giả miêu tả là “ao thu”. Từ “ lạnh lẽo” đặc tả khí lạnh của ao nước mùa thu, dường như cái lạnh ấy thấm sâu vào da thịt con người. Tính từ “trong veo” đã tuyệt đối hóa độ trong của nước, đồng thời còn gợi ra độ thanh sạch, sự bất động, tĩnh lặng của mặt ao. Hai âm “eo” được gieo trong một câu khiến cho cảm giác về cái lạnh và sự ngưng đọng của không gian càng trở nên tuyệt đối, đồng thời còn gợi ra không gian nhỏ hẹp của chiếc ao. Trên nền cảnh thu ấy xuất hiện một chiếc thuyền câu lẻ loi, đơn chiếc, bé nhỏ. Số từ chỉ số ít “một chiếc” kết hợp với từ láy “tẻo teo” khiến cho chiếc thuyền càng nhỏ bé hơn, như co lại thành một nét chấm trên nền ao cũng bé xíu và trong trong tận đáy. Hai câu đề đã vẽ nên cảnh sắc rất riêng biệt, mộc mạc, đơn sơ của mùa thu Bắc bộ với những nét đặc trưng nhất của khí thu, chất thu là cái lạnh và sự tĩnh lặng. Mùa thu tiếp tục hiện lên với hình ảnh “sóng biếc”, “lá vàng”. Cảnh vận động một cách khẽ khàng. Tác giả đã rất nhạy cảm, tinh tế khi chớp được những biến động tinh vi của tạo vật. Đó là sự chuyển động “ hơi gợn tí” của sóng, là sự đưa nhẹ, khẽ khàng của chiếc lá vàng, là sự mong manh uốn lượn của hơi nước mờ ảo trên mặt ao. Hai câu thơ đối nhau rất chỉnh, các sự vật có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, gió thổi làm sóng gợn, làm lá rơi. Các tính từ, trạng từ “biếc”, ‘tí’, “vàng”, “khẽ”,”vèo” được sử dụng một cách hợp lí, giàu chất tạo hình, vừa tạo ra bức tranh màu sắc thanh nhã, có xanh có vàng, vừa gợi được sự uyển chuyển, sinh động của tạo vật. Cảnh được miêu tả trong hai câu thực, mặc dù là động, nhưng vì động khẽ khàng quá nên thực chất là lấy động để tả cái tĩnh lặng của mùa thu trong không gian của một chiếc ao quê nhà. Không gian cảnh vật trong hai câu luận không chỉ dừng lại ở bề mặt chiếc ao mà còn mở rộng thêm chiều cao, chiều sâu. Chiều cao được cụ thể bằng sự “lơ lửng” của tầng mây và độ thăm thẳm của da trời xanh ngắt. Màu da trời mùa thu dường như có ám ảnh sâu đậm trong tâm hồn Nguyễn Khuyến nên trong các bài thơ thu, ông thường nhắc tới: “Trời thu xanh ngắt mấy từng cao” (Thu vịnh ) hay “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt” ( Thu ẩm ). Bởi vậy, màu xanh ngắt của da trời không chỉ đơn giản là một sắc màu khách quan đặc trưng cảu trời thu mà có lẽ còn chính là tâm trạng nhiều ẩn ức, là chiều sâu tâm hồn đầy trăn trở của thi nhân. Chiều sâu của không gian được cụ thể bằng độ “ quanh co” uốn lượn của bờ trúc. Không gian trong hai câu luận đậm dặc một màu xanh, màu xanh bao trùm cả trên cao và chiều rộng. Cảnh vật thoáng đãng và yên tĩnh. Nguyên từ “vắng” đã nói rõ sự tĩnh lặng rồi nhưng “vắng teo” thì có nghĩa là cảnh vắng tanh vắng ngắt, không chút cử động, không chút âm thanh, không một bóng người. Bởi thế, hai câu thơ gợi ra sự trống vắng, nỗi cô đơn trong lòng người. Hình ảnh con người xuất hiện trực tiếp với tư thế ngồi bó gối, trong trạng thái trầm tư mặc tưởng. Nhà thơ ngồi câu cá mà chẳng chú tâm đến việc câu, bởi vậy mới giật mình trước tiếng cá “ đớp động dưới chân bèo”. Không gian phải yên tĩnh lắm, tâm hồn nhà thơ phải trong trẻo lắm thì mới nghe rõ âm thanh nhỏ nhẹ như vậy. Từ “cá đâu” là cách hỏi vừa tạo nên sự mơ hồ trong không gian vừa gợi ra sự ngỡ ngàng của lòng người. Nhà thơ dường như mất cảm giác về không gian thực tại mà chìm đắm trong không gian suy tưởng nên không thể xác định rõ hướng gây ra tiếng động mặc dù đang ngồi trong một chiếc ao rất nhỏ. Nhà thơ câu cá mà chẳng phải để bắt cá. Câu chỉ là cái cớ để tìm sự thư thái trong tâm hồn. Trong lúc câu, thi nhân đã thâu tóm vào lòng những vẻ đẹp tinh diệu của đường nét, màu sắc, hình khối, sự vận động tinh tế, trong sáng của cảnh vật mùa thu. Cảnh thu tuy đẹp mà buồn, buồn vì quá quạnh quẽ, vắng lặng, buồn vì người ngắm cảnh cũng đang chất chứa nỗi niềm thế sự của kẻ sĩ trước cảnh vong quốc mà thân lại nhàn nhã.
Bài thơ Thu điếu không những thể hiện được cái hồn của cảnh thu mà còn đặc tả được nét đẹp mộc mạc giản dị của nông thôn đồng bằng Bắc bộ xưa. Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Khuyến đã khơi gợi trong lòng người đọc những xúc cảm chân thành, trong sáng, tha thiết về cảnh sắc làng quê. Qua bài thơ, ta hiểu thêm về tấm lòng nặng tình non nước và tài thơ Nôm độc đáo của thi nhân.
Các bạn trả lời vừa đủ câu hỏi thôi nha ^3^
1)-Các từ ngữ: "lạnh lẽo", "trong veo","bé tẻo teo" gợi tả đường nét, dáng hình, màu sắc của cảnh vật, sắc nước mùa thu; âm vang lời thơ như tiếng thu, hồn thu vọng về.
-Màu "biếc" của sóng hoà hợp với sắc "vàng" của lá vẽ nên bức tranh quê đơn sơ mà lộng lẫy. Nghệ thuật đối trong phần thực rất điêu luyện, "lá vàng" với "sóng biếc", tốc độ "vèo" của lá bay tương ứng với mức độ "tí" của sóng gợn. Nhà thơ Tản Đà đã hết lời ca ngợi chữ "vèo" trong thơ của Nguyễn Khuyến. Ông đã nói một đời thơ của mình may ra mới có được một câu thơ vừa ý trong bài "Cảm thu, tiễn thu", "Vèo trông lá rụng đầy sân".
2)
a. Thiên nhiên được cảm nhận từ những gì vô hình:
+ Hương ổi phả trong gió se (se lạnh và hơi khô). “Hương ổi” là làn hương đặc biệt của mùa thu miền Bắc được cảm nhận từ mùi ổi chín rộ.
+ Từ “phả”: Động từ có nghĩa là toả vào, trộn lẫn -> gợi mùi hương ổi ở độ đậm nhất, thơm nồng quyến rũ, hoà vào trong gió heo may của mùa thu, lan toả khắp không gian tạo ra một mùi thơm ngọt mát - hương thơm nồng nàn hấp dẫn của những vườn cây sum suê trái ngọt ở nông thôn Việt Nam.
+ Sương chùng chình: Những hạt sương nhỏ li ti giăng mắc như một làm sương mỏng nhẹ nhàng trôi, đang “cố ý” chậm lại thong thả, nhẹ nhàng, chuyển động chầm chậm sang thu. Hạt sương sớm mai cũng như có tâm hồn
b. Cảm xúc của nhà thơ:
+ Kết hợp một loạt các từ: “Bỗng, phả, hình như” thể hiện tâm trạng ngỡ ngàng, cảm xúc bâng khuâng trước thoáng đi bất chợt của mùa thu. Nhà thơ giật mình, hơi bối rối, hình như còn có chút gì chưa thật rõ ràng trong cảm nhận. Vì đó là những cảm nhận nhẹ nhàng, thoáng qua. hay là vì quá đột ngột mà tác giả chưa nhận ra? Tâm hồn thi sĩ biến chuyển nhịp nhàng với phút giao mùa của cảnh vật. Từng cảnh sang thu thấp thoáng hồn người: Chùng chình, bịn rịn, lưu luyến, bâng khuâng…
Hãy phân tích nghĩa sự việc trong từng câu thơ ở bài thơ.
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối buông cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
(Nguyễn Khuyến, Câu cá mùa thu)
Câu 1: diễn tả sự việc (trạng thái ao thu nước trong và lạnh )
Câu 2: diễn tả sự việc- đặc điểm (hình ảnh chiếc thuyền nhỏ trên mặt ao )
Câu 3: diễn tả quá trình (sóng- gợn )
Câu 4: diễn tả quá trình (lá đưa vèo )
Câu 5: diễn tả một sự việc- quá trình (tầng mây lơ lửng ) và một đặc điểm (trời xanh ngắt)
Câu 6: diễn tả hai sự việc một quá trình (ngõ trúc- quanh co ) và một đặc điểm (khách- vắng teo)
Câu 7: hai sự việc- đều là các tư thế (tự gối, ôm cần)
Câu 8: Một sự việc- hành động (cá đớp động chân bèo )
Phân tích cấu tạo các âm tiết sau:
"Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo".
Tìm tính từ, cụm tính từ, động từ, cụm tính từ trong bài thơ sau:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vào
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
( Nguyễn Khuyến )
tính từ: lạnh lẽo, trong veo, biếc, khẽ
cụm tính từ: bé tẻo teo
động từ: ôm cần
Biểu đồ hình chữ nhật sau biểu diễn số học sinh của một phòng thi có tổng điểm 4 môn thi lần lượt là 19;22;18;30;31;32;35;39
Hỏi có tất cả bao nhiêu học sinh tronh phòng thi
Theo biểu đồ ta có:
1 học sinh 19 điểm; 4 học sinh 22 điểm, 3 học sinh 28 điểm, 8 học sinh 30 điểm, 2 học sinh 31 điểm, 2 học sinh 32 điểm, 3 học sinh 35 điểm và 1 học sinh 39 điểm
=>Có tất cả 1+4+3+8+2+2+3+1=24 học sinh trong phòng thi
Bước vào phòng thi tự tin như núi
Làm bài thi như nước chảy mây trôi,
Ra khỏi phòng thi với mặt cười rạng rỡ
Chúc bạn yêu thi tốt nhé!!!
Ba bạn Đô, Hùng và Dũng có quê ở ba thành phố : Hải Phòng, Huế và Cần Thơ tham gia thi đấu thể thao. Một bạn thi đấu cờ vua, một bạn thi đấu cầu lông và một bạn thi đấu bóng bàn. Cho biết :
Dũng không thi đấu cờ vua.Đô không thi đấu bóng bàn.Bạn thi đấu bóng bàn có quê ở Hải Phòng.Bạn có quê ở Huế không thi đấu cờ vua.Quê Đô không ở Cần Thơ.Hỏi mỗi bạn có quê ở đâu và thi đấu môn gì?
bài này hơi khó mà nghỉ nát óc không ra
giải chi tiết nhé
Đô quê ở Huế và thi đầu cầu lông
Dũng quê ở Hải Phòng và thi đấu bóng bàn
Hùng quê ở Cần Thơ và thi đấu cờ vua
Mình ko biết giải chi tiết đâu , chỉ đoán thôi :
Đô : môn Cầu lông - quê ở Huế
Hùng : môn Cờ vua - quê ở Cần Thơ
Dũng : môn Bóng bàn - quê ở Hải Phòng
thanks !
Có lần làm bài thi, vội vàng nộp bài, nhìn lại mới thấy mình chưa viết tên, hơn nữa lúc căng thẳng quá nên quên luôn tên mình là gì. Bất chợt nghĩ ra một cách, tôi tát vào mặt đứa ngồi cạnh, nó mách giáo viên : Thầy ơi XXX đánh em. Rốt cuộc tôi cũng nhớ được tên mình.
– Từ nhỏ tôi đã luyện tập tuyệt chiêu nhìn tay người khác viết để đoán họ viết chữ gì, luyện đến khi thi đại học thì trình độ đã thành xuất quỷ nhập thần luôn rồi.
– Hồi đó mỗi lần thi Địa lý tôi đều mang theo một hộp sữa tươi Deluxe vào phòng thi. Vì mặt sau của hộp sữa có in hình bản đồ thế giới rất chi tiết.
– Đề thi trắc nghiệm, tôi và thằng bạn trao đổi bài với nhau, cứ thằng này hỏi câu nào thì thằng kia sẽ tùy đáp án mà chỉ vào một nữ sinh nào đó. Thế là cứ ABCD mà tới thôi.
– Có lần thi tiếng anh, tôi hỏi bài một bạn nữ, bạn ấy tự chỉ vào mình, tôi liền đổi đáp án từ A thành D.
(ai hiểu được 2 cái trên này thì đúng là thâm nhọ nồi lắm đó =)))))
– Tôi đi thi đại học, vừa vào phòng thi liền tươi cười nói với giám thị : Ơ, hôm nay là chú gác thi ạ. Thế là trong suốt quá trình thi, tôi được cố tình ngó lơ, muốn làm gì thì làm. Thi xong, lại tươi cười nói với giám thị : Chào chú cháu về. Ra khỏi phòng thi thì nghe thấy giám thị hỏi lẫn nhau : Cháu của anh hả? Giám thị khác ngạc nhiên : Không phải cháu của anh sao?! Hehe~
– Giao kèo trước khi thi : A (ây da = kìa), B (逼题 tạm hiểu là hấp diêm), C (cây cỏ đồng âm đờ mờ/đệch), D (你大爷 tạm hiểu là thằng cha mày). Lúc nộp bài, một đứa trong nhóm bỗng nhiên nói lớn : Đờ mờ, đờ mờ, hấp diêm kìa, hấp diêm, hấp diêm kìa, đệch thằng cha mày!
– Tôi sẽ không bao giờ quên vẻ mặt mờ mịt của giám thị khi tôi dùng máy tính trong lúc thi tiếng Anh.
– Tôi là giáo viên. Cảm ơn chủ thớt đã dụ mấy đứa nhỏ nói ra biết bao nhiêu là cách gian lận.
– Đợi thằng giỏi nhất lớp làm bài xong, nộp bài. Sau đó nó xin giám thị cho nó viết thông báo lên bảng để cả lớp theo dõi. “Cử người ở lại sau khi thi để vệ sinh phòng học, xong thì đến gặp giáo viên chủ nhiệm, sau đó nhận bài tập thêm ở chỗ giáo viên toán, những người còn lại thi xong có thể về” dịch ra có nghĩa là : Đầu tiên tìm aaa, sau đó giải bbb, tiếp tục từ đó suy ra ccc blabla.
– Toàn dân chú ý, trong lúc chúng ta chia sẻ kinh nghiệm quay bài thì cũng có một đoàn giáo viên mắt nhìn weibo miệng nở nụ cười. Các thầy các cô, đều là người một nhà, xin hãy chừa cho những đóa hoa tương lai của tổ quốc một con đường sống.
– Đồng phục là váy, tôi dán tài liệu trên đùi, thỉnh thoảng nhấc chân để quay bài. Nhiều lần khiến giám thị để ý, nói với tôi : Nếu em muốn đi wc thì nhanh đi rồi quay lại làm bài tiếp, đừng để ảnh hưởng kết quả bài làm.
– Là một giáo sư gương mẫu, tôi quyết định phải xem hết cmt thật cẩn thận.
– Nghiền phao thành bột rồi thổi vào không khí, sau đó cảm nhận kiến thức bằng mỗi một lỗ chân lông, cảm nhận xong tay cầm bút ào ào viết đáp án!
– Anh bạn mang máy tính đi thi tiếng Anh trên kia, tôi chính là vị giám thị đó đây!