Những câu hỏi liên quan
Thiên Yết
Xem chi tiết
Yến Chi Nguyễn
Xem chi tiết
๖ACE✪Hoàngミ★Việtツ
17 tháng 10 2017 lúc 17:27

+ Hai câu cuối : khát vọng hòa bình. Tu trí lực : tu dưỡng tài năng, trí tuệ - bồi dưỡng và rèn luyện sức lực đó là hai yếu tố tiên quyết của một con người và của một dân tộc muốn làm nên chiến thắng, muốn xây dựng hòa bình. Đây là lời tự dặn mình của vị Thượng tướng, đồng thời cũng là lời nhắn nhủ với toàn thể quân dân : Chúng ta khôn được phép ngủ quên trong chiến thắng = > tầm nhìn xa trông rộng của người lãnh đạo. Để cho non nước được nghìn thu, hòa bình bền vững muôn đời – không chỉ là khát vọng của một người mà là khát vọng, quyết tâm của cả dân tộc. 

P/s Đó là ý kiến của mình ko biết có đúng ko

 

Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn Dĩnh
4 tháng 12 2019 lúc 3:02

=> Đáp án B

⭐Hannie⭐
Xem chi tiết
⭐Hannie⭐
23 tháng 4 2023 lúc 18:36

Các cậu lấy trên mạng một bài giống như tựa đề cũng được ạ;-;. 

T mần đến đề 8 r , h trân ms lên hc24 hỏi đề 1. Lạyyyy

 

Minh
Xem chi tiết
Như Nguyệt
20 tháng 1 2022 lúc 14:04

Tham Khảo:

 

PHÂN TÍCH BÀI THƠ NHỚ RỪNG CỦA THẾ LỮ

Phân tích bài thơ Nhớ rừng - Tuyển tập và chọn lọc những bài văn mẫu 8 hay phân tích Nhớ rừng của Thế Lữ, thể hiện tâm trạng u uất của thế hệ thanh niên trí thức Tây học.MỤC LỤC NỘI DUNG1. Đề bài2. Hướng dẫn làm bài 2.1. Phân tích đề2.2. Các luận điểm chính2.3. Lập dàn ý2.4. Sơ đồ tư duy3. Bài tham khảo3.1. Bài tham khảo 13.2. Bài tham khảo 23.3. Bài tham khảo 33.4. Bài tham khảo 43.5. Bài tham khảo 53.6. Bài tham khảo 63.7. Bài tham khảo 7

Phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ, phân tích nội dung, nghệ thuật và các chi tiết trong bài để thấy được  nỗi chán ghét thực tại tầm thường, tù túng và niềm khát vọng tự do mãnh liệt của chàng thanh niên mất nước.

Phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

                   

 

Đề bài

Phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

-/-

HƯỚNG DẪN LÀM BÀI PHÂN TÍCH BÀI THƠ NHỚ RỪNG1. PHÂN TÍCH ĐỀ

- Yêu cầu đề bài: phân tích các chi tiết, hình ảnh, nội dung, nghệ thuật của bài thơ để rút ra thông điệp và tư tưởng mà tác giả gửi gắm trong tác phẩm

- Đối tượng làm bài: bài thơ Nhớ rừng

- Phương pháp làm bài: Phân tích

2. CÁC LUẬN ĐIỂM CHÍNH CẦN TRIỂN KHAI

Luận điểm 1: Cảnh con hổ bị nhốt trong vườn bách thú

Luận điểm 2: Cảnh con hổ trong chốn giang sơn hùng vĩ

Luận điểm 3: Niềm khao khát tự do mãnh liệt

3. LẬP DÀN Ý

I/ Mở bài

- Đề tài yêu nước luôn là một đề tài lớn, xuyên suốt trong văn học Việt Nam

- Đối với các nhà thơ Mới, họ thường gửi gắm nỗi niềm thầm kín trong thơ của mình và Thế Lữ cũng vậy, ông gửi gắm nỗi lòng yêu nước thông qua “Nhớ rừng”

II/ Thân bài

1. (Đoạn 1+4): Cảnh con hổ bị nhốt trong vườn bách thú

a. Đoạn 1

- Hoàn cảnh bị nhốt trong cũi sắt, trở thành một thứ đồ chơi

- Tâm trạng căm hờn, phẫn uất tạo thành một khối âm thầm nhưng dữ dội như muốn nghiền nát, nghiền tan

 

- “Ta nằm dài” – cách xưng hô đầy kiêu hãnh của vị chúa tể ⇒ Sự ngao ngán cảnh tượng cứ chầm chậm trôi, nằm buông xuôi bất lực

- “Khinh lũ người kia”: Sự khinh thường, thương lại cho những kẻ (Gấu, báo) tầm thường nhỏ bé, dở hơi, vô tư trong môi trường tù túng

⇒ Từ ngữ, hình ảnh chọn lọc, giọng thơ u uất diễn tả tâm trạng căm hờn, uất ức, ngao ngán

⇒ Tâm trạng của con hổ cũng giống tâm trạng của người dân mất nước, căm hờn và phẫn uất trong cảnh đời tối tăm.

b. Đoạn 4

- Cảnh tượng vẫn không thay đổi, đơn điệu, nhàm chán do bàn tay con người sửa sang ⇒ tầm thường giả dối

⇒ Cảnh tù túng đáng chán, đáng ghét

⇒ Cảnh vườn bách thú là thực tại của xã hội đương thời, thái độ của con hổ chính là thái độ cú người dân đối với xã hội đó

2. (Đoạn 2+3): Cảnh con hổ trong chốn giang sơn hùng vĩ

a. Đoạn 2

- Cảnh núi rừng đầy hùng vĩ với “bóng cả cây già” đầy vẻ nghiêm thâm

- Những tiếng “gió gào ngàn”, “giọng nguồn hét núi” ⇒ Sự hoang dã của chốn thảo hoa không tên không tuổi

 

⇒ Những từ ngữ được chọn lọc tinh tế nhằm diễn tả cảnh đại ngàn hùng vĩ, lớn lao mạnh mẽ, bí ẩn thiếng liêng

- Bước chân dõng dạc đường hoàng ⇒ vẻ oai phong đầy sức sống

⇒ Vẻ oai phong của con hổ khiến tất cả đều phải im hơi, diễn tả vẻ uy nghi, dũng mãnh vừa mềm mại vừa uyển chuyển của vị chúa sơn lâm

b. Đoạn 3

- “Nào đâu ... ánh trăng tan” ⇒ Cảnh đẹp diễm lệ khi con hổ đứng uống ánh trăng thật lãng mạn

- “Đâu những ngày ...ta đổi mới” ⇒ Cảnh mưa rung chuyển đại ngàn, hổ lãng mạn ngắm giang sơn đổi mới.

- “Đâu những bình minh...tưng bừng”⇒ cảnh chan hòa ánh sáng, rộn rã tiếng chim ca hát cho giấc ngủ của chúa sơn lâm.

- Cảnh tượng cuối cùng cho thấy hổ là loài mãnh thú đợi màn đêm buông xuống nó sẽ là chúa tể muôn loài

⇒ Một bộ tranh tứ bình đẹp lộng lẫy, cho thấy những cảnh thiên nhiên hoang vắng đẹp rợn ngợp và con hổ với tư thế và tầm vóc uy nghi, hoành tráng

3. (Đoạn 5): Niềm khao khát tự do mãnh liệt

- Sử dụng câu cảm thán liên tiếp⇒ lời kêu gọi thiết tha ⇒ khát vọng tự do mãnh liệt nhưng bất lực

 

⇒ Nỗi bất hòa sâu sắc với thực tại và niềm khao khát tự do mãnh liệt

⇒ Tâm sự của con hổ chính là tâm sự của người dân Việt Nam mất nước đang sống trong cảnh nô lệ và tiếc nhớ những năm tháng tự do oanh liệt với những chiến thắng vẻ vang trong lịch sử

III/ Kết bài

- Khái quát nội dung và nghệ thuật chủ đạo làm nên thành công của tác phẩm

- Liên hệ bài học yêu nước trong thời kì hiện nay

Có thể bạn cần: Các đề văn về Nhớ rừng của Thế Lữ thường gặp trong các đề thi

4. SƠ ĐỒ TƯ DUY

Sơ đồ tư duy phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

BÀI THAM KHẢO PHÂN TÍCH BÀI THƠ NHỚ RỪNG CỦA THẾ LỮPHÂN TÍCH BÀI THƠ NHỚ RỪNG - BÀI THAM KHẢO 1

Thế Lữ là một trong các cây bút tiên phong, mở đường cho thơ ca hiện đại Việt Nam phát triển. Có thể nói ông là người cắm ngọn cờ chiến thắng cho thơ mới, dựng lên nền thơ mới cho thi ca dân tộc ở ngay chặng đầu (1930-1935). Thơ ông mang nặng tâm sự thời thế, đất nước nhưng không bế tắc, u buồn mà là tiếng thơ tha thiết, bi tráng. "Nhớ rừng" là một trong những bài thơ được sáng tác theo bút pháp lãng mạn, có vị trí quan trọng trong sự nghiệp sáng tác Thế Lữ và cũng là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của phong trào thơ mới. Thi phẩm được sáng tác năm 1934, in trong tập "Mấy vần thơ" (1935), tác giả đã mượn lời con hổ bị nhốt ở vườn bách thú để diễn tả sâu sắc nỗi chán ghét thực tại tầm thường, tù túng và niềm khát vọng tự do mãnh liệt của chàng thanh niên mất nước. Bộc lộ niềm khát vọng được khẳng định cái tôi của chính mình và được phát triển trong một cuộc sống rộng lớn, đất nước tự do. Đó cũng là lời tâm sự chung của những chàng thanh niên trí thức sống trong hoàn cảnh mất nước thời kì đó.

Trước hết, với bài thơ "Nhớ rừng", Thế Lữ đã xây dựng thành công hình tượng con hổ bị sa cơ lỡ vận, mang vẻ đẹp của người anh hùng chiến bại. Đoạn thơ mở đầu là nỗi đau bi kịch của con hổ ngay trong thì hiện tại:

Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt

Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua

Khinh lũ người kia ngạo mạn ngẩn ngơ

Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm

Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm

Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi

Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi

Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.

Nỗi căm hờn là nỗi đau đớn, uất ức, căm phẫn vốn vô hình nhưng qua động từ "gậm" đã trở nên có hình có khối, như có thể nhìn thấy cụ thể. Nỗi căm hờn ấy không chỉ tồn tại trong một khoảnh khắc mà nó luôn âm ỉ, kế đọng từ rất lâu rồi. Đó là nỗi căm hờn của sự cầm tù "trong cũi sắt" đến mất quyền tự do, chỉ biết "nằm dài" ngao ngắn, tuyệt vọng nhìn ngày tháng trôi qua dần dần mà bất lực. Nỗi đau bi kịch đó của chúa sơn lâm càng được đẩy lên cao trào hơn khi phải sống chung với "bọn gấu dở hơi" và trở thành một món đồ chơi lạ mắt cho "lũ người ngạo mạn". Hiện tại là thế: sa cơ, tù hãm, bất lực nhưng hổ chẳng bao giờ quên được những năm tháng của thuở trời đất dọc ngang, ngang dọc tung hoành bốn bể năm nào:

Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ

Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa

Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,

Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,

Với khi thét khúc trường ca dữ dội,

Ta bước chân lên dõng dạc, đường hoàng,

Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,

Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc

Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,

Là khiến cho mọi vật đều im hơi

Ta biết ta chúa tể cả muôn loài

Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi.

Nỗi nhớ đã khơi nguồn cho những cảnh núi rừng bí ẩn lần lượt hiện ra thật tráng lệ, hùng vĩ nhưng cũng thật trữ tình, nên thơ. Đó là cảnh "bóng cả cây ngà", "tiếng gió gào ngàn", "giọng nguồn hét núi". Chúa sơn lâm cứ say sưa nhớ lại những kỉ niệm rực lửa, huy hoàng, tự hào và kiêu hãnh khi ấy. Những động từ miêu tả động tác như "bước, vờn, lượn, quắc" kết hợp với hệ thống những từ láy giàu tính chất tạo hình "nhịp nhàng, dõng dạc, âm thầm" đã tạo nên một vị chúa tể rừng xanh vừa mềm mại, uyển chuyển, vừa tự tin, đàng hoàng, lại vừa oai phong lẫm liệt, dũng mãnh phi thường. Và thời gian đó là những ngày tháng đẹp nhất:

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối

Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?

Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn

Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?

Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,

Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?

ADVERTISING X

Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng

Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt

Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?

-Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?

Nỗi nhớ cồn cào da diết cứ dẫn dắt mãnh hổ trở về với quá khứ xa xăm của một thời vang bóng, đó là những đêm trăng vàng bên bờ suối tận hưởng, thả hồn uống ánh trăng đêm; những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn, lặng lẽ ngắm mưa rừng dữ dội; những ngày yên bình, thanh thản trong ánh nắng bình minh ngập tràn sắc nắng hay là lúc hả hê, vui thích trong những chiếm lợi phẩm và đợi mặt trời lặn xuống để làm chủ đêm đen. Nghệ thuật điệp cấu trúc (điệp ngữ) kết hợp với câu hỏi tu từ đã xen vừa diễn tả dòng hồi tưởng miên man không dứt; lại vừa thể hiện nỗi nhớ nhung da diết, xen lẫn niềm tiếc nuối xót xa về những ngày tháng được tung hoành, tự do. Vì thế, câu thơ cuối đoạn cất lên như một tiếng thở dài ngao ngán, tuyệt vọng:

"-Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?"

Trở về với thực tại tầm thường, giả dối, nỗi chán ngắn, sự khinh bỉ của "chúa tể muôn loài" đã tăng lên đến cao độ. Đó toàn là những khung cảnh giả dối, tầm thường:

Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;

Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng

Len dưới nách những mô gò thấp kém;

Dăm vừng lá hiền lành, không bí hiểm,

Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu

Của chốn ngàn năm cao cả, âm u.

Vì thế, đoạn thơ cuối là lời nhắn gửi bi tráng của con hổ với chốn nước non hùng vĩ. Một mặt thể hiện niềm xót xa về quá khứ; một mặt khẳng định tâm thế cường tráng, mạnh mẽ của mãnh hổ không gì có thể khuất phục được, ngay cả khi đã bị giam cầm trong cũi sắt:

Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!

Là nơi giống hầm thiêng ta ngự trị

Nơi thênh thanh ta vùng vẫy ngày xưa

Nơi ta không còn được thấy bao giờ!

Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,

Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn.

Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,

- Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!

Xét về hình thức nghệ thuật của bài thơ "Nhớ rừng", cái "mới" của thi phẩm trước hết được thể hiện qua thể thơ tám chữ, gieo vần liền (hai câu liền nhau có vần với nhau), vần bằng, vần trắc hoán vị liên tiếp, đều đặn. Kế thừa thể hát nói truyền thống nhưng "Nhớ rừng" với thể tám chữ đã được dùng linh hoạt, tự do hơn về cách ngắt nhịp, phá bỏ hoàn toàn những qui định niêm luật vận đối cứng nhắc (khi ngắn, khi dài, khi anh, khi chậm...). Ngoài ra ngôn ngữ hình ảnh thơ không còn mang tính ước lệ nữa, thay vào đó rất sinh động, sáng tạo, giàu tính chất trữ tình, biểu cảm. Bên cạnh đó, bài thơ còn sử dụng nhiều các biện pháp tu từ nghệ thuật: ẩn dụ, so sánh, liệt kê, câu hỏi tu từ... Tất cả điều đó đã tạo nên tính nhạc điệu và chất họa cho bài thơ.

Xét về nội dung, bài thơ "Nhớ rừng" đã mượn lời con hổ ở vườn bách thảo để thể hiện kín đáo tâm sự con người thời kì đó. Bài thơ có lời đề từ là "Lời con hổ ở vườn bách thú"những đó thực chất là lời tâm sự, khát vọng tự do mạnh mẽ của thế hệ thanh niên sống trong hoàn cảnh mất nước. Đó là "niềm uất hận ngàn thâu" đối với hiện thực xã hội tù túng, ngột ngạt – một hiện thức khiến con người thấy chán ghét, muốn từ bỏ, thoát ly. Đi liền với sự chối bỏ là niềm khát khao mạnh mẽ được đổi thay, được khẳng định giá trị bản thân mình trong một xã hội bình yên, phẳng lặng. Vì thế, bài thơ không chỉ dừng lại ở việc xây dựng hình tượng con hổ bị giam cầm, nhớ về thời vàng son của mình mà còn gửi gắm trong đó sự lên tiếng của cá nhân, đòi giải phóng cái tôi người nghệ sĩ và mong ước đất nước được hòa bình, tự do, thoát khỏi cảnh nô lệ, ngục tù. Cho nên, có thể nói, bài thơ đã bộc lộ kín đáo, thấm thía tình yêu quê hương, đất nước của nhà thơ Thế Lữ.

Tóm lại, qua bài thơ "Nhớ rừng", chúng ta thấy được sức sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Thế Lữ, góp phần khẳng định chỗ đứng vững chắc và sự toàn thắng của thơ mới trên văn đàn, đánh dấu một bước ngoặt lớn của thi ca Việt Nam đương đại. Bài thơ đã dựng lên thành công hình tượng chúa sơn lâm thật đẹp, thật bi tráng mang nỗi niềm tâm sự của con người. Vướt thoát khuôn khổ câu chữ trong thơ, bài thơ đã thể hiện sâu sắc thấm thía tình yêu quê hương đất nước của lớp thanh niên đương thời.



Xem thêm tại: https://doctailieu.com/phan-tich-bai-tho-nho-rung-cua-the-lu
nguyen quoc phi
Xem chi tiết
Rykels
16 tháng 12 2021 lúc 20:40

Thế Lữ đến với phong trào Thơ mới ngay từ buổi đầu từ buổi đầu. Không hề có những tuyên bố lớn lao, hay định hướng rõ ràng cho tư tưởng, Thế Lữ âm thầm đóng góp những bài thơ và từng bước khẳng định vị trí của mình trong làng thơ. Có lẽ, đó là tính cách của Thế Lữ khi ông cho rằng nghệ thuật là phải thầm lặng. Trong nghệ thuật không nhất thiết phải kêu ca. Ông dùng sức mạnh của nghệ thuật để khẳng định xu hướng mới chứ không đi vào lí luận dài dòng. Và trong giai đoạn đầu ông đã thắng lớn, khẳng định mạnh mẽ sự tồn tại và phát triển của nền thơ mới, tạo động lực cho thế hệ sau tiếp tục phát triển đến thắng lợi hoàn toàn. Một trong những bài thơ tiêu biểu, đầy sức mạnh của ông trong giai đoạn ấy chính là Nhớ rừng.

 

Ở trong Nhớ rừng, Thế Lữ đã thể hiện một tâm sự u uất, chán nản và khát vọng tự do cháy bỏng tha thiết qua lời mượn của con hổ trong vườn bách thú. Đó cũng là tâm sự chung của những người Việt Nam yêu nước trong hoàn cảnh mất nước.

Trở lại thời kì này, vào những năm đầu thế kỉ 20, tình cảnh đất nước thật điêu đứng. Sau những cuộc khai thác thuộc địa tàn khốc của thực dân Pháp khiến cho đất nước ta rơi vào tình trạng kiệt quệ, người dân vô cùng cực khổ, tình hình xã hội hết sức căng thẳng, tù túng. Những người trẻ tuổi như thế hệ của Thế Lữ luôn khao khát tìm lấy một hướng giải thoát nhưng đành bất lực trước thực tại. Thêm vào đó, trào lưu tư tưởng phương Tây không ngừng xâm nhập vào nước ta, tình thần tự do và khát vọng sống không ngừng sôi sục tiếp thêm sức mạnh cho nền văn học phát triển.

Chính vì vậy Thơ Mới có khuynh hướng thoát ly thực tại, thể hiện tâm trạng bất hoà, bất lực trước thực trạng xã hội. Qua đó, Thơ Mới cũng đã bộc lộ sự phản kháng gay gắt trước thực tại tầm thường giả dối, tù túng giam hãm ước mơ con người.

Đầu thế kỉ 20, bối cảnh ở nước ta vô cùng bức bối. Pháp tăng cường vơ vét của cải và đàn áp khốc liệt các cuộc khởi nghĩa của nhân dân. Trong khi đó, các luồng văn hóa mới mẻ phương Tây không ngừng xâm nhập vào nước ta hình thành một tầng lớp thành niên mới. Họ cảm thấy bức bách trong hoàn cảnh khủng bố ngột ngạt và không ngừng khao khát tìm kiếm một cuộc sống mới.

Mượn lời con hổ ở vườn bách thú để nói lên tâm trạng chính mình, Thế Lữ đã dựng lên một khung cảnh vừa rất thực vừa ẩn chứa những điều thầm kín sâu xa. Chính bị giam cầm một cách vô lí, nó cảm thấy tiếc nhớ về quá khứ oanh liệt nơi núi rừng hùng vĩ và không ngừng mơ ước được tự do.

Mở đầu bài thơ, Thế Lữ dựng lên bức tranh con hổ trong vườn bách thú thấm đẫm tâm trạng buồn rầu:

“Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua”.

Từ “gậm” thể hiện rõ ràng tâm trạng uất ức tột cùng của hổ. Ở đây lại là “gậm một khối căm hờn” . Nghĩa là nó tự nghiền ngẫm cái bi kịch của mình mà không hiểu tại sao lại như thế. Bởi không hiểu cho nên nó chán chường, mệt mỏi. Nó buông xuôi bấy lâu nay trong tư thế “nằm dài trong ngày tháng dần qua”.

 

Thật đáng sợ thay khi mà ta mong mỏi một điều gì đó mà không tin rằng nó chưa hẳn là có thật. Và càng đáng sợ hơn khi bao quanh con hổ là chiếc lồng sắt vững chắc. Cái mà nó không thể phá được và sẽ giam cầm nó vĩnh viễn. Thế nhưng, dù bất lực nhưng cái oai hùng của nó vẫn không hề mất đi:

“Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm”.

Trước mắt hổ, những gì quen thuộc cứ lặp đi lặp lại một cách nhàm chán. Loài người kia dù đã đủ sức giam cầm nó nhưng nó không hề sợ mà còn tỏ ra khinh thường, khiêu khích, không ngừng đe dọa. Nó tự bào chữa cho tình thế của mình và xem đó chỉ là một rủi ro. Bởi lỡ bước sa cơ nên phải chịu cảnh “nhục nhằn tù hãm”. Dường như, vai trò và sức mạnh của nó đã hoàn toàn bị loài người đánh cắp.

Nó luôn tự kiêu về sức mạnh của mình và liên tục hồi tưởng quá khứ mỗi khi tâm trạng rơi vào trạng thái bế tắc như thế này:

“Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa
Nhớ cảnh sơn lâm bóng cả cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi
Với khi thét khúc trường ca dữ dội…”

Chốn rừng thiêng xưa nơi hổ từng ngự trị là một khung cảnh ghê gớm. Qua nỗi nhớ của hổ, ta thấy rõ điều đó. Khung cảnh hiện lên với “bóng cả, cây già” thâm u,bí hiểm. Chốn sơn lâm với “tiếng gió gào ngàn, giọng nguồn hét núi” làm kinh thiên động địa khiến muôn loài phải khiếp sợ mà lẩn tránh. Bản lĩnh của một vị chúa sơn lâm luôn thể hiện xứng đáng quyền lực tối cao của mình với sức mạnh phi thường dữ dội. Ở đó, con hổ đã hiện lên với tư thế hiên ngang ngạo nghễ nhưng vẫn toát lên vẻ đẹp oai phong lẫm liệt giữa núi rừng hùng vĩ:

“Ta bước chân lên dõng dạc đường hoàng
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng
Vờn bóng âm thầm lá gai cỏ sắc
Trong bóng tối mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật phải im hơi
Ta biết ta chúa tể của muôn loài
Giữa chốn thảo hoa không tên không tuổi”.

Từng sắc thái của hổ hiện lên trước mắt người đọc qua lớp ngôn từ sống động, đầy sức biểu cảm. Con hổ với tư thế tự do, kiêu hãnh, bước đi như sóng cuộn, mây vờn, lặng lẽ giữa bao la vũ trụ. Không có loài nào dám sánh bước cùng nó. Nó nhìn khắp không gian với đôi mắt thần sắc. Kể cả trong bóng tối cũng không gì che giấu nổi nó. Đó là một tư thế hoàn toàn tự chủ, thống trị cả ánh sáng lẫn màn đêm. Nó nhận thấy muôn loài đang run sợ, đáng thương như sắp đi vào cõi chết. Sức mạnh oai quyền của nó đủ sức lấn át mọi sự đối nghịch và sẵn sàng tiêu diệt tất cả.

Đó là uy quyền tuyệt đỉnh của vị chúa tể rừng xanh không gì địch nổi. Không gian thần bí với những loài cây không tên không tuổi mà con người chưa từng biết đến hay đặt chân đến. Nó tự hào về điều đó. Những gì nó biết và ngự trị vượt xa những gì con người đã biết và chiếm lĩnh. Đó là một bí mật mà nó không bao giờ muốn chia sẻ.

 

Chưa hết, hồi ức của hổ tiếp tục mơ về những tháng ngày lẫm liệt, gắn chặt với kỉ niệm không bao giờ quên:

“Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn,
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng.
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?

Chín câu thơ là bốn bức tranh tuyệt đẹp về cảnh tượng đại ngàn và niềm vui sướng ngự trị của hổ. Nó say sưa thưởng thức và tự hào dù chỉ qua hồi tưởng. Những cảm xúc cuộn trào dữ dội, không ngừng làm cho nó say mê. Đó là những đêm vàng ánh trăng bên bờ suối êm đềm. Sau cuộc đi săn nó đắm mình trong ánh trăng huyền ảo. Đó là những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn, vũ trụ đi vào cơn quần vũ khủng khiếp. Đó là những bình minh rực rỡ ánh sáng và rộn rã tiếng chim ca ru mềm giấc ngủ. Đó là những chiều lênh láng máu sau rừng biểu hiện sức mạnh chinh phục và giết chóc của chúa sơn lâm.

Tất cả diễn ra trong âm thầm, lặng lẽ đến đáng sợ. Con hổ chiếm giữ một sức mạnh phi thường ngang tầm trời đất. Ta có cảm tưởng như chính con hổ đã tạo ra quy luật trong một thế giới riêng nào đó mà ở đó nó định đoạt tất cả. Không có đối thoại, không có đối lực, tất cả đều tuân phục một cách triệt để. Thế nhưng, câu thơ cuối đã trả người đọc về với thực tại. Tất cả bây giờ chỉ là một giấc mơ, một giấc mơ hùng tráng, lẫm liệt để hồi cố nhằm lấy lại nghị lực mà sống tiếp. Thực tại khép lại giấc mơ huy hoàng:

– Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?

Nếu ở trên kia nó ngạo nghễ bao nhiêu thì giờ đây nó lại chán chường bấy nhiêu. Hai từ “than ôi!” như là tiếng kêu thống thiết , bất lực trước thực tại và tiếc nuối chốn cũ rừng xưa đã mãi mãi không còn. Bây giờ, nó quay về đối điện và khinh miệt thực tại:

“Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu,
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém;
Dăm vừng lá hiền lành, không bí hiểm,
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u”.

Trước mắt hổ, khung cảnh vườn bách thú thật tầm thường và giả dối. Tất cả đã bị ngụy tạo một cách vụng về, không che giấu nổi sự thấp kém của nó. Hổ khinh mạn điều đó khi so sánh với chốn rừng thiêng bí hiểm, âm u. Cảnh vật giả tạo, phù phiếm khiến nó thất vọng. Tất cả tầm thường, không một chút tương xúng nào với nó. Càng nhìn ngắm, nó càng ngao ngán.

Bởi thế, nó không nguôi nhung nhớ vì cảnh vật trước mắt càng làm cho nó thêm chán ghét. Ít ra, khi giam cầm nó cũng phải có cái gì đó đáng để cho nó khâm phục hoặc tự hào. Nhưng ở đây, sự đối lập quá lớn, quá tàn nhẫn. Điều đó khiến cho những mâu thuẫn trong nó không ngừng trỗi dậy trong tiếng kêu than thảm thiết:

Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hùm thiêng ta ngự trị.
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa,
Nơi ta không còn được thấy bao giờ!
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,
Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,
– Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!

Câu thơ “Nơi ta không còn được thấy bao giờ!” xác nhận sự bất lực hoàn toàn của con hổ. Giờ đây, nó đã xác nhận phải sống với thực tại thấp kém này và tự nhắc nhở mình thôi mong nhớ hay hi vọng. Chiếc khung lòng mỏng manh nhưng giam giữ quá chặt. Kể cả sức mạnh như nó cũng không thể nào phá nổi. Nó chỉ khẩn xin một điều rằng những giấc mơ kia dẫu chỉ là mơ mộng thôi nhưng cứ tiếp tục đến để hồn của hổ được an ủi, được vỗ về mà tiếp tục sống hết những tháng ngày còn lại.

 

Qua tâm sự của con hổ, Thế Lữ cũng đã kín đáo thể hiện khát vọng tự do và tinh thần yêu nước của mình và thế hệ thanh niên yêu nước lúc bấy giờ. Tuy không tìm được lối thoát, cuối cùng cũng rơi vào bế tắc nhưng bài thơ đã thể hiện được sức sống của dân tộc trong thời kì nô lệ, luôn khát vọng vươn lên dù bất cứ trong hoàn cảnh nào. Niềm mơ mộng có sức mạnh cổ vũ tinh thần con người tiếp tục sống và đợi chờ cơ hội vượt thoát để làm nên cuộc cách mạng vĩ đại sau này.

Nếu xét về lý tưởng, Thế Lữ đã không có đóng góp gì đáng kể. Nhưng qua bài thơ Nhớ rừng người đọc nhận rõ đước sức mạnh sử dụng ngôn từ của ông. Nó giống như một đoàn quân ồ ạt xông tới, tung hoành mạnh mẽ. Người đọc không cần làm gì thêm, cứ thản nhiên đón nhận. Một thành công nữa của Thế Lữ là đã thể hiện một trí tưởng tượng phong phú khi mượn hình ảnh con hổ trong vườn bách thú để nói hộ cho những tâm sự kín đáo sâu sắc của mình. Qua đó diễn tả nỗi chán ghét cảnh sống tù túng. Đồng thời khơi lên tình cảm yêu nước của người dân thuở ấy.

Hà Nguyên
Xem chi tiết
Trần Ngọc Hải
26 tháng 12 2021 lúc 10:34

tự học

Võ Thị Thu Nhi
Xem chi tiết
minh nguyet
25 tháng 2 2021 lúc 8:24

Tham khảo:

Cách sử dụng từ ngữ phong phú, giàu sức biểu cảm diễn tả tâm trạng của hổ một cách chi tiết.

Sử dụng bút pháp lãng mạn, với nhiều biện pháp nghệ thuật như nhân hóa, đối lập, phóng đại, sử dụng từ ngữ gợi hình, giàu sức biểu cảm.

Xây dựng hình tượng nghệ thuật có nhiều tầng ý nghĩa.

Hình ảnh thơ giàu chất tạo hình

 

♊Ngọc Hân♊
Xem chi tiết
Phong Y
12 tháng 2 2021 lúc 15:59

NghệThuật:  Sử dụng bút pháp lãng mạn, với nhiều biện pháp nghệ thuật như: Nhân hóa, đối lập, tương phản, phóng đại.Xây dựng hình tượng nghệ thuật có nhiều tầng ý nghĩa.       Nội dung: Mượn lời con hổ trong vườn bách thú, tác giả kín đáo bộc lộ tình cảm yêu nước, niềm khát khao thoát khỏi kiếp đời nô lệ.

Theo em tác giả muốn gửi gắm:

- Niềm khao khát tự do mãnh liệt

- Nỗi căm phẫn trước cuộc sống tầm thường, giả dối

- Lòng yêu nước kín đáo, sâu sắc

                                                                           

  
✿✿❑ĐạT̐®ŋɢย❐✿✿
12 tháng 2 2021 lúc 17:17

*Nội dung

Mượn lời con hổ bị nhốt trong vườn bách thú để diễn tả sâu sắc nỗi chán ghét thực tại tầm thường và niềm khao khát tự do mãnh liệt của tác giả và cũng là của người dân Việt Nam yêu nước lúc bấy giờ.

*Nghệ thuật

- Sử dụng bút pháp lãng mạn.

- Nhiều biện pháp nghệ thuật như nhân hóa, đối lập, phóng đại, điệp từ, sử dụng từ ngữ gợi hình, ngôn ngữ, nhạc điệu phong phú giàu sức biểu cảm.

*  Nhà thơ muốn nhắn gửi những tâm sự của con hổ là tâm trạng của người dân Việt Nam mất nước đang sống trong cảnh nộ lệ và tiếc nhớ khôn nguôi thời oanh liệt với những chiến công chống giặc ngoại xâm vẻ vang trong lịch sử dân tộc.