PHÂN TÍCH BÀI THƠ “ÁNH TRĂNG” CỦA NGUYỄN DUY
phân tích khổ cuối bài thơ ánh trăng của nguyễn duy
- Cảm xúc:
+ Tư thế đối diện trực tiếp
+ “Mặt” là khuôn mặt của tri kỉ; quá khứ - hiện tại, thủy chung – vô tình;
+ “Rưng rưng” nỗi xúc động chân thành, nghẹn ngào.
+ Kỉ niệm ùa về (cấu trúc song hành, liệt kê): bất ngờ
- Suy ngẫm, triết lí:
+ “Trăng cứ tròn vành vạnh” quá khứ thủy chung
+ “Im phăng phắc” nhân hóa: nghiêm khắc cảnh tỉnh; bao dung độ lượng
+ “Giật mình”: thức tỉnh, ăn năn để tự nhắc mình thay đổi
=> Tác giả gửi gắm lời nhắc nhở về lẽ sống, về đạo lí uống nước nhớ nguồn ân nghĩa, thủy chung
Phân tích bút pháp xây dựng hình ảnh thơ trong các bài thơ: Đồng chí (Chính Hữu), Đoàn thuyền đánh cá (Huy Cận), Ánh trăng (Nguyễn Duy).
Bút pháp xây dựng hình ảnh thơ trong bài thơ Đồng chí, hình ảnh chân thực, chi tiết sinh động, ngôn ngữ giản dị vô cùng và cô đọng giàu sức biểu cảm
- Bút pháp xây dựng hình ảnh trong Đoàn thuyền đánh cá:
+ Giọng điệu tươi vui, sôi nổi
+ Lời thơ dõng dạc, điệu thơ như khúc hát say mê, niềm vui của người lao động
- Bút pháp xây dựng trong bài Ánh trăng:
+ Kết hợp hài hòa giữa tự sự với trữ tình
+ Bài thơ như lời tâm tình tha thiết, nhịp thơ khi trôi chảy nhịp nhàng, khi trầm lắng suy tư
Bút pháp xây dựng hình ảnh thơ trong bài thơ Đồng chí, hình ảnh chân thực, chi tiết sinh động, ngôn ngữ giản dị vô cùng và cô đọng giàu sức biểu cảm
- Bút pháp xây dựng hình ảnh trong Đoàn thuyền đánh cá:
+ Giọng điệu tươi vui, sôi nổi
+ Lời thơ dõng dạc, điệu thơ như khúc hát say mê, niềm vui của người lao động
- Bút pháp xây dựng trong bài Ánh trăng:
+ Kết hợp hài hòa giữa tự sự với trữ tình
+ Bài thơ như lời tâm tình tha thiết, nhịp thơ khi trôi chảy nhịp nhàng, khi trầm lắng suy tư
cảm nhận khổ 1 bài thơ ánh trăng của nguyễn duy
Tham khảo nha em:
Nguyễn Duy là nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ, người đọc biết đến ông qua bài thơ Cây tre Việt Nam. Vào thời bình, ông như bao thi nhân khác luôn viết về trăng, đối với ông trăng được coi là nguồn sáng lung linh để thanh lọc tâm hồn, để ăn năn hối lỗi. Bài thơ “Ánh trăng” (1978) của ông được khơi nguồn từ những cảm xúc chân thành và cao đẹp như thế. Và đặc biệt là phần mở đầu vô cùng tự nhiên, trôi chảy về mối quan hệ gắn bó giữa trăng và nhà thơ:
Hồi nhỏ sống với đồng
Với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ
Chỉ bằng 4 câu thơ ngắn Nguyễn Duy đã dựng lại được cả thời niên thiếu cho đến lúc trưởng thành, một không gian thân thương: đồng, sông, bể.
Nguyễn Duy đưa ta từ không gian đầy ắp kỉ niệm ấy ta nhận ra niềm say mê, sảng khoái của con người trong cái mát lành dịu ngọt ân tình của quê hương qua ánh trăng lai láng trên cánh đồng, dòng sông, bãi biển. Về với năm tháng tuổi thơ với hình ảnh cậu bé sống nông thôn cùng bạn bè dạo chơi đồng sông bể có ánh trăng đầy kỉ niệm. Không gian cứ mở rộng mãi ra, bao la bát ngát theo nhịp trưởng thành của con người.
Thời gian không ngừng vận động và cậu bé lớn lên từ quê hương ấy đã trở thành chiến sĩ. Đó là những năm tháng gian lao cùng với đồng đội chiến đấu, trăng soi đường lúc hành quân,lúc nghỉ ngơi trăng tự tình trở thành tri kỉ:
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ
Khi xa quê, đi vào cuộc chiến, nỗi nhớ thương chợt hiện về quay quắt tâm hồn, lúc này người và trăng lại càng gắn bó thì ánh trăng là người bạn tri kỉ chia sẻ mọi gian nan thiếu thốn, mọi buồn vui sướng khổ trong những năm tháng chiến tranh của ông cùng đồng đội. Như vậy là tuổi thơ chớp mắt đã trôi qua. Cái còn lại lúc này là vầng trăng thật đơn sơ, chung thuỷ. Hai chữ hồi ở câu thơ đầu và thứ 3 làm cho khổ thơ như có một chỗ dừng chân. Cái dừng chân giữa ranh giới của ấu thơ và trưởng thành.
Mở đầu bài thơ Ánh trăng, Nguyễn Duy đã cho ta nhận thấy tình cảm những năm tháng ấy thật hoang sơ mộc mạc, về kỉ niệm vầng trăng gắn liền trong quá khứ gằn liền với hồi ức một cách thật tự nhiên.
#Tham_khảo!
Nguyễn Duy là một trong những nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Ông là một gương mặt tiêu biểu trong lớp nhà thơ trẻ yêu nước thời kháng chiến chống mỹ. Sau giải phóng, ông tiếp tục bền bỉ sáng tác sau ngày đất nước giải phóng. Thơ Nguyễn Duy nhiều bài có cái ngang tàng nhưng vẫn trầm tĩnh và giàu chiêm nghiệm vì thế cứ ngấm vào người đọc và trong cái đà ngấm ấy có lúc khiến người ta phải giật mình suy nghĩ. Bài thơ Ánh trăng thể hiện sâu sắc đặc điểm nghệ thuật ấy của ông.
Khổ 1: Hình ảnh vầng trăng gắn với tuổi thơ tươi đẹp và hình ảnh vầng trăng trong chiến đấu nghĩa tình, thủy chung
Bài thơ mang dáng đấp một câu chuyện được kể theo trình tự thời gian. Trong đó, "ánh trăng" là hình ảnh xuyên suốt và giàu ý nghĩa. Tác phẩm bắt đầu bằng những hồi ức thơ ấu của tác giả:
"Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với biển".
Từ "với" được lặp lại đến ba lần, thể hiện mạnh mẽ sự hòa hợp giữa thiên nhiên và con người. Cánh đồng, dòng sông, biển cả là những hình ảnh quen thuộc, gần gũi, thân thương. Đó chính là biểu tượng của quê hương máu thịt, nơi in dấu biết bao kỉ niệm hồn nhien, tinh nghịch tuổi thơ.
Bốn câu thơ ấy đã thể hiện một cách ấn tượng sự vận động của các hình ảnh. Phải chăng con người khi đã lớn lên thì gắn bó "với đồng" - biểu hiện của một tâm hồn trong sáng, điềm tĩnh. Rồi khi bước chân đi xa hơn đến "với sông", rồi "với bể" - biểu hiện của sự trưởng thành và khát vọng vươn xa?
Do hoàn cảnh lịch sử của dân tộc, con người bước vào cuộc chiến má lửa với kẻ thù, vầng trăng vẫn luôn kề cận, cùng con người đến mọi nẻo đường:
"hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỷ".
Những người bạn rất thân, hiểu con người như hiểu chính mình nên mới gọi nhau là tri kỉ. Vầng trăng với người lính trong những năm tháng chiến đấu ở rằng là người bạn tri kỉ tâm giao. Người chiến sĩ thường ngồi bên nhau dưới ánh trăng thanh hay hành quân dưới bầu trời trăng.
Trăng soi bước chân người đi, cùng chia sẻ hiểm nguy, gian khổ; cùng chiến đấu và chiến thắng. Vầng trăng trong sáng tinh khiết kia còn là biểu tượng cho lý tưởng và tâm hồn cao đẹp của con người. Tâm hồn ấy được nuôi dưỡng từ ấu thơ, được tôi luyện trong cuộc chiến hào hùng cảu dân tộc.
Khổ 2: Cảm nhận của nhà thơ về vầng trăng nghĩa tình
Sang khổ thơ thứ hai, hình ảnh vầng trăng càng hiện rõ
"Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ".
Trăng có vẻ đẹp vô cùng bình dị. Việc dùng hai tính từ kép "trần trụi" và "hồn nhiên" ở đầu dòng thơ là một chủ định của tác giả. Chính điều đó đã tạo nên một sự khái quát thật mạnh mẽ và giàu cảm xúc, vẻ đẹp vô tư , hồn nhiên. Trăng tượng trưng vẻ đẹp tiên nhiên nên trăng đã hòa vào thiên nhiên, hòa vào cây cỏ. Vầng trăng ấy cũng gắn bó với con người bằng một tình cảm mộc mạc, thủy chung. Ai có thể quên được người bạn tri kỉ ấy?
"ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa"
"Vầng trăng tình nghĩa" ấy đâu chỉ là thiên nhiên thơ mộng, mát lành. Đó còn là biểu tượng của quá khứ nghĩa tình, một thời kỉ niệm của cuộc sống gắn bó, hồn nhiên, trong sáng, một thời chiến tranh lửa đạn, nguy hiểm vẫn bên nhau
Khổ 3: Hình ảnh vầng trăng trong hiện tại và sự vô tình của con người
Cuộc chiến tranh thần thánh kết thúc, hoàn cảnh sống của con người cũng đổi thay:
"Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương"
Con người sống trong một môi trường hoàn toàn khác: "ánh điện" "cửa gương". Sự ồn ã của phố phường, những công việc của mưu sinh tốt đẹp trước kia giờ đã phai mờ. "Vầng trăng tình nghĩa" năm nào giờ đã bị lãng quên. Người bạn tri kỷ ấy trở thành "người dưng". Một so sánh khiến người đọc xót xa:
"Vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường".
Trăng được nhân hóa, lặng lẽ bước đi. Trăng thành "người dưng" chẳng còn ai nhớ, chẳng còn ai hay. Giọng thơ trở nên sâu lắng, trầm buồn đến xa xót!
Khổ 4: Sự cố bất ngờ khiến con người nhận ra sự vô tình của mình
"Bi kịch" của tác phẩm bùng nổ bởi hai câu thơ rất thực, thực hơn cả câu nói thường:
"Thình linh đèn điện tắt
phòng buyn - đinh tối om".
"Đèn điện", "phòng buyn - đinh" là những hình ảnh tượng trưng cho cái thực vật chất mà con người bị cuốn vào. Nhưng chúng vô cùng thờ ơ, vô cảm với con người. "Đèn điện" thì "thình lình" tắt, "phòng buyn - đinh" thì "tối om". Chúng chẳng bao giờ là "tri kỷ", "tình nghĩa" đối với con người cả. Điều gì sẽ cứu con người ra khỏi cảnh "tối om" ấy hay con người cả. Điều gì sẽ cứu con người ra khỏi cảnh "tối om" ấy hay con người sẽ bị chết đắm trong bóng tối lạnh lẽo đó?
"vội bật tung của sổ
đột ngột vầng trăng tròn".
Hành động "bật tung cửa sổ" như một bản năng không chuẩn bị trước. Cảm giác "đột ngột" cho ta thấy rằng con người trong cuộc thực sự không biết gì đang đợi mình bên ngoài. Anh ta chẳng hề biết rằng người bạn "tri kỷ", "tình nghĩa", người mà con người coi như "người dưng" vẫn cứ đang sẵn sàng có mặt. Vầng trăng ấy không bao giờ bỏ rơi con người, dù họ có vô tình lãng quên. Hình ảnh này đã chứng tỏ tính vị tha, chất bền vững trong sâu thẳm nguồn cội tâm hồn Việt. Khổ thơ này tạo ấn tượng rất đặc biệt với toàn bộ bài thơ.
Khổ 5. Cảm xúc của tác giả khi gặp lại "cố nhân" giữa thị thành
Trăng xưa như đã đến với người. vẫn tròn, vẫn đẹp, vẫn thủy chung. Người ngắm trang rồi bang khuân suy ngẫm:
"Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rung rung".
Con người đang "mặt đối mặt" với trăng, với những giá trị tinh thần mình đã lãng quên, khước từ. Hai "mặt" ấy mãi là một, không thể tách rời và cũng chưa từng tách rời. Chỉ có con người cắm cúi vào những vật chất, phồn hoa tầm thường mà quên mất thôi. Từ láy "rưng rưng" đã thể hiện sâu sắc cảm giác con người lúc này. Vì lẽ gì mà con người "rưng rưng", nếu không phải là:
"như là đồng là bể
như là sông là rừng".
Điệp ngữ "như là" lập lại bốn lần. Bốn hình ảnh thân thương chợt hiện về trong ký ức: "đồng", "bể", "sông". Sự láy lại những hình tượng quá khứ đã làm sáng tỏ những gì con người đang cảm nhận lại được. Cái kí ức nghĩa tình ấy, vẻ đẹp thân thương ấy không bao giờ mất đi. Nó chỉ lặng lẽ sống trong tâm hồn con người mà thôi.
Khổ 6: Suy ngẫm của nhà thơ về tình đời, tình người và lời nhắc nhở trách nhiệm đối với quá khứ
Trăng cứ vẹn nguyên, chung thủy khiến người đọc cũng ngỡ ngàng, cức động:
"Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình".
Mặc cho người "vô tình" vầng trăng vẫn tròn "tròn vành vạnh", độ lượng, bao dung. Hay nói khác đi, những giá trị bền vững, thần thiết vẫn luôn bao bọc, che chở cho con người một cách vô hình. Khi con người quay về với cội nguồn tinh thần, họ mới nhận ra mình đã bỏ phí quá nhiều điều vô giá:
"Ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình".
Ánh trăng như người bạn, nhân chứng nghĩa tình đang nghiêm khắc nhắc nhở con người. Cái "im phăng phắc" ấy giống như một người dẫn đường nghiêm khắc chỉ vào cái quá khứ nghĩa tình mà con người tự đánh mất, tự bỏ quên... Hai chữ "giật mình" ở cuối bài thơ như một sám hối một sự tự cảnh tỉnh chính mình của con người.
Cất lên như một lời nhắc nhỏ, bài thơ không còn có ý nghĩa đối với một lớp người, một thế hệ vừa mới đi qua cuộc chiến tranh mà còn có ý nghĩa đối với nhiều người khác. Nó đã đặt ra một thái độ sống với quá khứ, với những người đã khuất với cả chính mình. Đừng bao giờ lãng quên quá khứ, hãy thủy chung với nghĩa tình đẹp đẽ, bình dị của đất nước, của nhân dân. Đó chính là điều tác giả muốn gởi gắm trong bài thơ.
"Ánh trăng" của Nguyễn Duy đã gây xúc động nhiều thế hệ độc giả bởi cách diễn đạt bình dị, chân thành. Giọng thơ trầm tĩnh, sâu lắng. Từ thơ bất ngờ, mới lạ. tác phẩm như một lời tâm sự, nhắc nhở về tình nghĩa thủy chung, bài học đạo lý "Uống nước nhớ nguồn" sâu sắc, khiến người đọc phải giật mình, suy nghĩ nhìn lại bản thân.
Nhớ và chép thuộc lòng khổ thơ cuối bài thơ “Ánh trăng” của nhà thơ Nguyễn Duy
Chép thuộc khổ thơ cuối Ánh trăng của Nguyễn Duy
Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình
Cảm nhận của em về ý nghĩa triết lý qua hình ảnh"Ánh trăng" qua hai khổ thơ kết bài "ánh trăng"của Nguyễn Duy.
Câu 1:Em hãy viết MB và KB của đoàn thuyền đánh cá lúc trở về
Câu 2: Phân tích 2 khổ thơ đầu bài"Ánh trăng"của Nguyễn duy
Hai khổ thơ đầu khắc hoạ hình ảnh vầng trăng trong quá khứ: Tác giả kể theo trình tự thời gian
- Hồi nhỏ -> gợi lên những năm tháng tuổi thơ êm đềm khi sống
+ với đồng.
+ với sông.
+ với bể.
- Thủ pháp liệt kê: “đồng, sông, bể” -> những từ ngữ cùng một trường nghĩa -> gợi không gian làng quê gần gũi, thân thương.
- Trình tự liệt kê: từ nhỏ hẹp đến xa rộng: từ những cánh đồng đến dòng sông rồi biển cả. Không gian được mở rộng dần -> gợi liên tưởng từ không gian làng quê đến không gian đất nước.
- Điệp từ “với” được lặp lại ba lần càng tô đậm thêm sự gắn bó chan hòa của con người với thiên nhiên, với những tươi đẹp của tuổi thơ.
-> Đó là không gian của kỉ niệm ->ta hình dung ra bao kỉ niệm ấu thơ có trăng làm bầu bạn.
Trăng:
+ Chia sẻ niềm vui thơ ngây.
+ Nâng đỡ bao ước mơ thời niên thiếu.
+ Lưu giữ tất cả những kỉ niệm ngọt ngào, trong sáng nhất của tuổi thơ.
- “Hồi chiến tranh ở rừng” – những năm tháng gian khổ, ác liệt thời chiến tranh,“vầng trăng thành tri kỉ”
-> Nghệ thuật nhân hóa: trăng là người bạn thân thiết, tri âm tri kỉ, là đồng chí cùng chia sẻ những vui buồn trong chiến trận với người lính – nhà thơ
-> Hành quân giữa đêm, trên những nẻo đường chông gai ra mặt trận, những phiên gác giữa
rừng khuya lạnh lẽo, những tối nằm yên giấc dưới màn trời đen đặc, người lính đều có vầng trăng bên cạnh. Trăng ở bên, bầu bạn, cùng cảm nhận cái giá buốt nơi “Rừng hoang sương muối” (Đồng chí), cùng trải qua bao gian khổ của cuộc sống chiến đấu, cùng chia ngọt sẻ bùi,đồng cam cộng khổ; cùng hân hoan trong niềm vui thắng trận, cùng xao xuyến, bồn chồn,
khắc khoải mỗi khi người lính nhớ nhà, nhớ quê…
Câu 2 (2,0 điểm)
a, Nhớ và chép thuộc lòng khổ thơ cuối bài thơ “Ánh trăng” của nhà thơ Nguyễn Duy
b, Xác định từ láy và biện pháp tu từ có trong khổ thơ vừa chép.
c, Qua bài thơ “Ánh trăng” của nhà thơ Nguyễn Duy, em rút ra cho mình thái độ sống như thế nào? (Trình bày bằng một đoạn văn từ 6 đến 8 câu)
Em tham khảo nhé !!
a.
“Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình”
b.
- Từ láy vành vạnh, phăng phắc
- Cuộc sống của con người luôn chảy trôi vô tình, đừng vì quá đắm mình trong cuộc sống thực tại mà lãng quên đi những kí ức đã qua, đó là những kí ức mà chúng ta đã từng trải qua, nó góp phần làm nên con người của thực tại, vì vậy hãy trân trọng để nó luôn sống động trong tâm hồn của mỗi chúng ta.
a) “Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình”
b) - Từ láy vành vạnh, phăng phắc
-Biện pháp tu từ là nhân hóa: Ánh trăng im phăng phắc
c) Tham khảo
Bài thơ“Ánh trăng” của Nguyễn Duy, chúng ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng mang ý nghĩa triết lí sâu sắc.Đó chính là đạo lí "uống nước nhớ nguồn”.Con người khi được sống đầy đủ về mặt vật chất thì thường hay quên đi những giá trị tinh thần, quên đi cái nền tảng cơ bản của cuộc sống, đó chình là tình cảm con người.“Ánh trăng” đã đi vào lòng người đọc bao thế hệ như một lời nhắc nhở đối với mỗi người: Nếu ai đã lỡ quên đi, đã lỡ đánh mất những giá trị tinh thần qúy giá thì hãy thức tỉnh và tìm lại những giá trị đó. còn ai chưa biết coi trọng những giá trị ấy thì hãy nâng niu những kí ức quý giá của mình ngay từ bây giờ, đừng để quá muộnPhần II. Tự luận
a) Nhớ và chép thuộc lòng khổ thơ cuối bài thơ “Ánh trăng” của nhà thơ Nguyễn Duy. (0,5 điểm)
b) Xác định từ láy và biện pháp tu từ có trong khổ thơ vừa chép. (1,0 điểm)
c) Qua bài thơ “Ánh trăng” của nhà thơ Nguyễn Duy, em rút ra cho mình thái độ sống như thế nào? (Trình bày bằng một đoạn văn từ 6 đến 8 câu) (1,5 điểm)
a, Chép thuộc khổ thơ cuối Ánh trăng của Nguyễn Duy (0,5 điểm)
Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình
b, Từ láy được sử dụng “vành vạnh”, “phăng phắc” để diễn tả trạng thái của ánh trăng.
Từ láy “vành vạnh”: từ láy tượng hình, gợi lên hình ảnh vầng trăng chung thủy, tròn vạnh, trong sáng. Người đọc liên tưởng tới sự son sắt, trước sau như một, không thay đổi.
Từ láy “phăng phắc” gợi hình ảnh, gợi tả trạng thái, từ láy này bổ sung cho từ “im” gợi tả sự im lặng tuyệt đối, sự âm thầm lặng lẽ, trước sau như một không thay đổi.
→ Sự bao dung âm thầm, lặng lẽ mà cao thượng trước sự thay đổi của con người.
Biện pháp tu từ được sử dụng:
Biện pháp nhân hóa: Ánh trăng, vầng trăng lúc này trở thành con người sống động, có cảm xúc, có cách hành xử. Ánh trăng vừa bao dung, độ lượng vừa nghiêm khắc.
c, Thái độ sống:
- Bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy, hình ảnh vầng trăng mang ý nghĩa triết lý sâu xa. Con người khi được sống trong đầy đủ vật chất thì thường lãng quên đi giá trị nền tảng cơ bản của cuộc sống
- Bài thơ nhắc nhở con người cần biết trân trọng quá khứ, trân trọng những điều đã qua. Bài thơ nhắc con người về đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Nếu như ai lỡ quên, lỡ đánh mất những giá trị tinh thần quý giá thì cần thức tỉnh, hối lỗi, sự hối lõi, ăn năn và sửa đổi cũng là điều đáng quý.
Một buổi đêm yên tĩnh. Ngồi trên bàn làm việc, với xấp giấy trước mặt mình, cái tay cầm bút của tôi cứ xoay đi xoay lại cái bút một hồi để không bị tê tay. Chắc tôi đang bí, chẳng nghĩ ra được gì để viết cả. Nhìn ra đồng hồ kia, kim chỉ giờ điểm điểm sát 11 giờ tròn. Thở dài một tiếng, bất giác tôi lại bồi hồi đi, nhớ về chuyện cũ. Biết là chẳng liên quan gì, nhưng đột nhiên tôi lại nhớ đến trăng - người bạn tri kỉ tâm giao của tôi. Nhớ hồi còn bé, khi không ngủ được, tôi lại cứ nhìn lên trăng mà trò chuyện với trăng, rồi khi lớn lên, đi chiến tranh ở rừng, khi cô đơn, tôi lại nhìn lên trăng, cứ như là đang nói cuyện với nhau qua suy nghĩ của tôi vậy; thế mà đã 3 năm sau ngày cách mạng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, lâu lắm rồi tôi đã chẳng còn nhớ cảnh trong rừng nó như thế nào nữa, giờ đây, trước mặt tôi chỉ có một tấm gương trong suốt được đặt lên làm cửa kính và một bóng đèn led đang chói sáng trên đầu tôi, còn nhớ, nhưng ngày đó có bao kỉ niệm vui với trăng, vậy mà...