Câu “Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ” sử dụng nghệ thuật gì?
A. Nghệ thuật đối
B. Đảo ngữ
C. Liệt kê
D. Ẩn dụ
Câu “Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ” sử dụng nghệ thuật gì?
A. Nghệ thuật đối
B. Đảo ngữ
C. Liệt kê
D. Ẩn dụ
Nghệ thuật đối “Súng giặc đất rền”- “Lòng dân trời tỏ”, phác họa khung cảnh bão táp của thời đại.
=> Hình ảnh không gian to lớn “đất”, “trời” kết hợp những động từ gợi sự khuyếch tán âm thanh, ánh sáng “rền”, “tỏ” : Sự đụng độ giữa thế lực xâm lược hung bạo với vũ khí tối tân và ý chí chiến đấu của nhân dân ta.
Đáp án cần chọn là: A
Câu “Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ” gợi cho em liên tưởng đến câu thơ nào trong bài thơ Chạy giặc (Nguyễn Đình Chiểu)
A. “Một bàn cờ thế phút sa tay”
B. “Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy”
C. “Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây”
D. “Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây”
Câu “Súng giặc đất rền;lòng dân trời tỏ” gợi liên tưởng đến câu thơ “Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây”. Tiếng súng Tây lần đầu được đưa vào trong văn học. Hai câu thơ đều gợi ra khung cảnh tàn khốc, ác liệt.
Đáp án cần chọn là: D
Câu văn mở đầu “Súng giặc đất rền; Lòng dân trời tỏ.” có ý nghĩa như thế nào trong việc thể hiện tư tưởng chung của bài văn tế?
- Câu văn nhấn mạnh sự khốc liệt của cuộc đối đầu giữa lòng dân và súng đạn kẻ thù:
+ Tình thế đất nước nguy cấp, tiếng súng quân giặc làm rung chuyển non sông.
+ Lúc đất nước nguy nan, mới hiểu hết lòng dân.
+ Lòng dân là cái vô hình nhưng sẽ được chuyển hóa thành sức mạnh vật chất cụ thể; súng giặc đất rền là uy lực vũ khí kẻ thù đang tâm chĩa vào lương tri nhân loại, là tội ác không thể dung tha.
- Câu văn mang ý nghĩa khái quát bối cảnh thời đại và chân dung tinh thần của người nghĩa binh Cần Giuộc. Chỉ với hai vế câu ngắn gọn đã cho thấy tinh thần, suy nghĩ, hành động của người nghĩa sĩ nông dân tay không tấc sắt nhưng có lòng căm thù giặc sâu sắc và đã anh dũng xả thân cứu nước.
VĂN TẾ NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC
Hỡi ơi !
Súng giặc đất rền;
Lòng dân trời tỏ.
Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao;
Một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ.
Nhớ linh xưa
Cui cút làm ăn;
Toan lo nghèo khó,
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập mác, tập giáo, tập cờ, mắt chưa từng ngó.
Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa;
Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu;
Hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó.
Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;
Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này nguyện ra tay bộ hổ.
Khá thương thay!
Vốn chẳng phải quân cơ quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh;
Chẳng qua là dân ấp dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ
Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn;
Chín chục trận binh thư, không chờ bày bố.
Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi,
Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chỉ nài sắm dao tu, nón gõ.
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia;
Gươm đeo dùng một ngọn dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
Chi nhọc quan quản gióng trống kỳ trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không;
Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà, ma ní hồn kinh;
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ.
Ôi!
Những lăm lòng nghĩa lâu dùng, đâu biết xác phàm vội bỏ.
Một giấc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây;
Trăm năm âm phủ ấy chữ quy, xá đợi gươm hùm treo mộ.
Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng;
Nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng lụy nhỏ.
Chẳng phải án cướp, án gian đày tới, mà vì binh đánh giặc cho cam tâm;
Vốn không giữ thành, giữ lũy bỏ đi, mà hiệu lực theo quân cho đáng số.
Nhưng nghĩ rằng:
Tấc đất ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta;
Bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó.
Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương;
Vì ai xui hào lũy tan tành, xiêu mưa ngã gió.
Sống làm chi theo quân tả đạo, quẳng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn;
Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu ngọt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.
Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh;
Còn hơn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ.
Ôi thôi thôi!
Chùa Tông Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm;
Đồn Lang Sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.
Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều;
Não nùng thay! Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.
Ôi!
Một trận khói tan,
Nghìn năm tiết rỡ.
Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, ai làm nên bốn phía mây đen;
Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ.
Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen;
Thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ.
Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia;
Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đức đó.
Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo,thương vì hai chữ thiên dân;
Cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ.
Hỡi ôi, thương thay!
Có linh xin hưởng.
đúng là có việt nam thật nhưng đề bài câu hỏi là j ak :))
VĂN TẾ NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC(THAM KHẢO)
Hỡi ơi !
Súng giặc đất rền;
Lòng dân trời tỏ.
Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao;
Một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ.
Nhớ linh xưa
Cui cút[1] làm ăn;
Toan lo[2]nghèo khó,
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung[3];
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ[4].
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập mác, tập giáo, tập cờ, mắt chưa từng ngó.
Tiếng phong hạc[5] phập phồng hơn mười tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa;
Mùi tinh chiên[6]vấy vá[7] đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.
Bữa thấy bòng bong[8] che trắng lốp, muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu;
Hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó.
Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;
Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này nguyện ra tay bộ hổ.
Khá thương thay!
Vốn chẳng phải quân cơ quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh;
Chẳng qua là dân ấp dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ
Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn;
Chín chục trận binh thư, không chờ bày bố.
Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi,
Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chỉ nài sắm dao tu, nón gõ.
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia;
Gươm đeo dùng một ngọn dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
Chi nhọc quan quản gióng trống kỳ trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không;
Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà, ma ní hồn kinh;
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ.
Ôi!
Những lăm lòng nghĩa lâu dùng, đâu biết xác phàm vội bỏ.
Một giấc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây;
Trăm năm âm phủ ấy chữ quy, xá đợi gươm hùm treo mộ.
Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng;
Nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng lụy nhỏ.
Chẳng phải án cướp, án gian đày tới, mà vì binh đánh giặc cho cam tâm;
Vốn không giữ thành, giữ lũy bỏ đi, mà hiệu lực theo quân cho đáng số.
Nhưng nghĩ rằng:
Tấc đất ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta;
Bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó.
Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương;
Vì ai xui hào lũy tan tành, xiêu mưa ngã gió.
Sống làm chi theo quân tả đạo, quẳng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn;
Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu ngọt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.
Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh;
Còn hơn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ.
Ôi thôi thôi!
Chùa Tông Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm;
Đồn Lang Sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.
Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều;
Não nùng thay! Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.
Ôi!
Một trận khói tan,
Nghìn năm tiết rỡ.
Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, ai làm nên bốn phía mây đen;
Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ.
Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen;
Thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ.
Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia;
Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đức đó.
Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo,thương vì hai chữ thiên dân;
Cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ.
Hỡi ôi, thương thay!
Có linh xin hưởng.
Cảm ơn bạn đã chia sẻ và lan tỏa trái tim yêu nước với mọi người.
Súng ai rền ở Vũ Quang thuở nào
Là ai?
Súng ai rền ở Vũ Quang thuở nào
Là ai?
Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi : “Thôi em nằm lại Với đất lành Duy Xuyên Trên mồ em có mùa xuân ở mãi Trời chiến trường vẫn một sắc xanh nguyên, Trời chiến trường không một phút bình yên Súng nổ gấp. Anh lên đường đuổi giặc Lấy nỗi đau vô cùng làm sức mạnh vô biên Bước truy kích đạp trăm rào gai sắc Ôi mũi lê này hôm nay sao sáng quắc Anh mất em như mất nửa cuộc đời Nỗi đau anh không thể nói bằng lời Một ngọn lửa thâm trầm âm ỉ cháy Những viên đạn quân thù bắn em, trong lòng anh sâu xoáy Anh bàng hoàng như ngỡ trái tim rơi Như bỗng tắt vầng mặt trời hạnh phúc. Nhưng em ạ, giây phút này chính lúc Anh thấy lòng anh tỉnh táo lạ thường Nhằm thẳng quân thù, mắt không giọt lệ vương Anh nổ súng... (Trích* Bài thơ về hạnh phúc”- Bùi Minh Quốc) 1/Từ “ lửa, cháy” trong câu” Một ngọn lửa thâm trầm âm ỉ cháy” có phải là thuật ngữ không? (0.5đ).Tại sao? (0.5đ) 2/ Tìm những câu thơ nói lên tâm trạng của nhân vật “anh” khi mất đi người thân yêu? (1đ) 3/ Em hiểu 2 câu thơ sau như thế nào? (1đ) ** ‘ Anh thấy lòng anh tỉnh táo lạ thường Nhằm thẳng quân thù, mắt không giọt lệ vương” 4/ Thông điệp rút ra qua đoạn thơ trên là gì? Hãy trình bày từ 3 đến 5 câu. (1đ)
Kết thúc bài thơ “Đồng chí”, Chính Hữu viết :
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo"
Lúc đầu Chính Hữu viết câu thơ cuối cùng là “Đầu súng mảnh trăng treo”. Việc bớt đi một chữ chỉ còn “Đầu súng trăng treo” đã thể hiện được hiện thực nào ở Việt Bắc mà tác giả đã từng chứng kiến trong những đêm phục kích chờ giặc.
1.Ngựa ai phun lửa đầy đồng ?
2.Voi ai nhỏ lệ ở dòng Hoá giang ?
3.Kiếm ai trả lại rùa vàng ?
4.Súng ai rền ở Vũ Quang thuở nào ?
1, Thánh Gióng
2,Bà Triệu
3, Lê Lợi
4,Cao Thắng
1. Thánh Gióng
2. Bà Triệu
3. Lê Lợi
4. Cao Thắng
1.Ngựa ai phun lửa đầy đồng ?
2.Voi ai nhỏ lệ ở dòng Hoá giang ?
3.Kiếm ai trả lại rùa vàng ?
4.Súng ai rền ở Vũ Quang thuở nào ?
Trả lời :
1. Thánh Gióng.
2. Bà Triệu.
3. Lê Lợi.
4. Cao Thắng.