Những câu hỏi liên quan
Tô Mì
Xem chi tiết
Nam Nen
Xem chi tiết
Đỗ Tuệ Lâm
28 tháng 2 2022 lúc 18:32

Dựa vào dàn ý để làm nha , dàn ý chi tiết rồi đó:>

1. Giải thích ý kiến 

Quà tặng bất ngờ: là những điều may mắn, hạnh phúc, niềm vui bất ngờ đến với con người do khách quan đem lại hoặc người khác trao tặng.

"Chờ đợi": thái độ sống thụ động, phụ thuộc.

"Tự mình làn nên cuộc sống": sống tích cực, chủ động.

=> Khẳng định ý nghĩa của câu nói: khuyên con người cần có thái độ sống chủ động, không nên trông chờ vào người khác. Cuộc sống của mỗi người do chính bản thân tạo nên.

2. Bàn luận ý kiến 

- Trong cuộc đời của mỗi người đôi khi sẽ nhận được những bất ngờ từ cuộc sống. Khi đó ta sẽ có may mắn được hưởng niềm vui, hạnh phúc trong cuộc đời. Không thể phủ nhận ý nghĩa và giá trị của quà tặng bất ngờ mà cuộc sống đem lại cho con người, vấn đề là biết tận dụng, trân trọng quà tặng ấy như thế nào.

- Tuy nhiên cuộc sống không phải lúc nào cũng là thảm đỏ trải đầy hoa hồng, cuộc sống là một trường tranh đấu luôn tiềm ẩn những khó khăn phức tạp. Vì vậy, cần chủ động, tự mình vượt lên hoàn cảnh để vươn tới những điều tốt đẹp. 

Dẫn chứng: những tấm gương nghị lực vượt hoàn cảnh số phận: thầy Nguyễn Ngọc Ký, Đoàn Phạm Khiêm, Đồng Thị Nga...; những người nghèo biết vượt lên chính mình;... 

3. Bài học nhận thức và hành động 

- Trong cuộc sống, ngoài ý chí nghị lực vươn lên, yếu tố may mắn cũng góp phần không nhỏ tạo nên thành công.

- Phải chủ động trang bị kiến thức, rèn luyện cách sống bản lĩnh, có lí tưởng, có ước mơ để làm nên những điều kì diệu cho cuộc sống của chính mình.

- Phê phán một số người thụ động, thiếu ý chí vươn lên, chỉ chờ đợi những quà tặng bất ngờ mà không tự mình làm nên cuộc sống.

Đào Thành Đạt
26 tháng 4 2023 lúc 21:29

gà 

nhìn đây này nhót

qqqqqqqqqqqqqqqqqqqwqwqwqwqwqwqwqwqwqqqqqqqqqqqqqqqqqqqqqqqqqqqqwwwwwwwwwwwwwwwwwwwwwwwwwwwwwwwwweeeeeeeeeeeeeeeeerrrrrrrrrrrrrrrrrrrrrrrrrrrrrrrrrrrrrrrrrrrrrrttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyuuuuuuuuuuuuuuuuuiiiiiiiiiiiiiiiiiioooooooooooooooooooop[pppppppppppp[[[[[[[[[[]]]]]]]]ư

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\'''''''''''''''''''lkkkkkjjjjjjjjhgfdsaqwertyuiol.,mnbv

Trần Nhật Duy
Xem chi tiết
︵✰Ah
10 tháng 1 2022 lúc 7:45

Tham Khảo 
Cuộc sống vốn công bằng, không thiên vị một ai. Cuộc sống của bạn hoàn toàn phụ thuộc vào cách nhìn của bạn. Bởi thế, xây dựng một thái độ sống tích cực là một điều rất cần thiết để bạn nhận rõ bản thân và nắm bắt cơ hội thành công. Thay đổi nhỏ nhất về cách nhìn có thể biến đổi cả một cuộc đời. Điều chỉnh thái độ dù chỉ một chút thôi cũng có thể thay đổi cả thế giới của bạn. Hãy sống lạc quan, yêu đời, tự tin. Sống có ước mơ, lí tưởng, hoài bão và luôn kiên trì thực hiện ước mơ. Hãy hướng đến những giá trị tốt đẹp, nhân văn để khẳng định giá trị bản thân, làm cho cuộc sống có ý nghĩa hơn. Chẳng có gì là xấu hay tốt, cũng chẳng có gì là thất bại hay thành công, nó như thế nào là do chính bạn nhìn nhận nó. Trong cái xấu có chứa những cái tốt cần phải gìn giữ; trong thất bại cũng có mầm mống của thành công. Đừng bi quan, oán trách hay thù ghét bất cứ điều gì, hãy nhìn nhận cuộc sống một cách tích cực và tự hoàn thiện bản thân để xây dựng một cuộc sống tốt đẹp như bạn mong muốn. Thật đáng trách cho những ai luôn bi quan, chán nản, bỏ cuộc trước khó khăn. Họ quá yếu đuối và dễ bị những trở ngại khuất phục, sống phụ thuộc vào hoàn cảnh mà không hề có ý chí vượt lên.

Không ai sinh ra là đã hoàn hảo. Bởi vậy, trong cuộc sống, ta đôi khi bắt gặp những người mắc sai lầm với mình và mong muốn được sửa chữa những sai sót. Lúc này đây, họ rất cần sự cảm thông và đặc biệt là tấm lòng khoan dung. Khoan dung là biết tha thứ, bỏ qua cho những sai lầm thiếu sót của người khác; là biết chấp nhận những yếu đuối sai phạm của người khác và giúp họ đứng lên sau vấp ngã. Khoan dung còn là cách thể hiện sự cưu mang, giúp đỡ của bản thân với những người lầm đường lạc lối, giúp cho họ được trở về hòa nhập với cuộc sống hơn. Khoan dung, còn nghĩa là tự tha thứ cho chính mình. Khoan dung với chính mình là tự làm cho bản thân cảm thấy nhẹ nhõm, thoải mái hơn để có thể đưa ra quyết định, mục tiêu đúng đắn hơn. Khoan dung là một đức tính tốt cần thiết trong cuộc sống. Cuộc sống không tránh khỏi những va chạm, xung đột, những gièm pha, bình phẩm không thiện ý. Con người nên chủ động giảng hòa, xoá bỏ hận thù, có hành vi ứng xử thân thiện. Hay như trong cuộc sống gia đình vợ chồng, con cái cũng có lúc nảy sinh mâu thuẫn, sự bất đồng. Khi đó rất cần sự khoan dung của những người thân trong gia đình. Cha mẹ nên vị tha khi con mắc lỗi. Qua đó, chúng ta thấy niềm vui mà khoan dung mang lại là niềm vui lớn, đích thực, khoan dung là biểu hiện của lối sống đẹp, thể hiện nhân cách con người. Ta tha thứ lỗi lầm cho người để cảm hoá người. Bản thân người cảm động bởi lòng khoan dung của ta mà ăn năn, hối lỗi, biết ơn ta, không tiếp tục mắc lỗi lầm. Bản thân ta thấy nhẹ lòng, tránh được những ý nghĩ, hành động hẹp hòi, thiển cận, trái đạo. Trong mỗi con người đều có hai mặt tốt và xấu, sáng và tối, con người luôn phải đấu tranh để chống lại nó, để chiến thắng nó, chính là lòng khoan dung, độ lượng. Bên cạnh đó, cần biết phân biệt giữa khoan dung và bao che. Khoan dung - là chấp nhận những yếu đuối của người khác và giúp họ sữa chữa - không có nghĩa là tiếp tay cho họ. Khoan dung cần phải tỉnh táo: dành cho những cá nhân biết hướng thiện, tránh tạo cơ hội cho cái ác, cái xấu. Đồng thời, cần phê phán thái độ thờ ơ, lạnh nhạt của một số thanh niên hiện nay. Chính sự thờ ơ, lạnh nhạt, lòng ích kỷ, thiếu khoan dung ấy đang gián tiếp tiếp tay cho tội ác lan rộng. Thông qua đây, chúng ta thấy được vai trò to lớn của lòng khoan dung trong cuộc sống. Nếu xã hội thiếu thốn tình cảm, thiếu thốn vị tha, lòng khoan dung,... tất cả sẽ chỉ còn là một xã hội vô tri, vô giác, lạnh lùng, vô cảm. Khoan dung là một đức tính tốt của con người, nó làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn, vì vậy, mỗi thanh niên cần phải rèn luyện cho mình đức tính khoan dung ngay từ khi ngồi trong ghế nhà trường. Mỗi người hãy học cách khoan dung với bản thân, với người khác bằng lòng nhân ái, bằng đức hi sinh. Không chỉ biết khoan dung, bên cạnh đó, việc giúp người khác (hay chính mình) nhận ra sai lầm, định hướng sửa chữa cũng là điều rất quan trọng. Để cuộc sống tươi đẹp và giàu tình người hơn, mỗi chúng ta hãy sống một cách chân thành, luôn bao dung và độ lượng với những người xung quanh. Khi đó, bạn sẽ cảm thấy cuộc sống thật đẹp và ý nghĩa.

Nguyễn Trần Gia Hân
Xem chi tiết
Ý Nguyễn
Xem chi tiết
Amee
22 tháng 3 2021 lúc 13:50

I. Mở bài:

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm

- Dẫn dắt vấn đề cần nghị luận

II. Thân bài:

1. Quan niệm về đất nước qua các triều đại để đi đến giải thích đất nước nhân dân.

- Đất nước – một đề tài lớn, một hình tượng trữ tình rất đẹp trong thơ ca Việt Nam, nhưng ở mỗi giai đoạn văn học, mỗi thời kì lịch sử, mỗi tác giả, tác phẩm thì hình tượng ấy lại mang những tư tưởng riêng, lấp lánh màu sắc thẩm mĩ riêng. Ở thời đại gắn với tư tưởng “trung quân ái quốc” vì quan niệm đất nước gắn liền với công lao của đế vương, của các triều đại:
“Nam quốc sơn hà nam đế cư”
(Lý Thường Kiệt)
hay ” Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”
(Nguyễn Trãi)

- Thơ văn yêu nước những năm đầu thế kỉ XX tư tưởng này có một bước tiến mới qua tiếng nói của người chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu: “Dân là dân nước, nước là nước dân” nhưng dẫu sao vẫn mang dấu ấn của tư tưởng tư sản.

2. Chứng minh tư tưởng đất nước của nhân dân.

2.1 Đất nước được nhà thơ nhìn nhận và thể hiện qua bề rộng không gian địa lí. (lấy kiến thức đoạn “Đất là nơi anh đến trường….cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ” và ” những người vợ nhớ chồng….Bà Đen, Bà Điểm”)

- Nhà thơ suy tư về “Đất Nước” qua độ rộng của không gian địa lí để khẳng định đất nước của nhân dân. Theo cảm nhận của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm “Đất nước” là không gian vô cùng gần gũi thân thương, là một cõi đầy thơ mộng, ngọt ngào gắn với bao kỉ niệm của tình yêu mỗi chúng ta.

2.2 Đất nước được thể hiện và cảm nhận trong chiều dài lịch sử (tư liệu từ ” Và ở đâu trên khắp ruộng đồng… cho người sau trồng cây hái trái)

2.3 Đất nước được thể hiện ở bề sâu văn hóa dân tộc qua cái nhìn đầy tự hào của thanh niên yêu nước.
Những phát hiện sâu sắc và mới mẻ về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện ở nguồn mạch phong phú của văn hóa dân tộc, văn học dân gian. 

3. Đất nước của ca dao thần thoại

Chứng minh qua nghệ thuật của bài:
– Thơ trữ tình chính luận độc đáo
– Giọng thơ thủ thỉ tâm tình anh-em
– Chất liệu văn hóa dân tộc, văn học dân gian.

III. Kết bài

- Khái quát vấn đề

Xem thêm:

Soạn bài Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm siêu ngắn
Bài mẫu

Bài tham khảo số 1

BÀI LÀM

     Đất Nước - hai tiếng thiêng liêng ấy vang lên tự sâu thẳm tâm hồn ta vừa cao cả, trang trọng, vừa xiết bao bình dị, gần gũi. Hình tượng Đất nước đã khơi nguồn cho biết bao hồn thơ cất cánh. Văn học kháng chiến 1945 - 1975 trong mạch chảy ngầm dạt dào, mãnh liệt của cuộc sống không chỉ bắt được những âm vang náo nức cùa thời đại mà còn khắc tạc nên tượng đài nghệ thuật Đất nước thật nên thơ, cao đẹp. Đất nước hóa thân trong một mảnh hồn quê Kinh Bắc đậm đà màu sắc văn hóa dân gian, tình tứ, dịu dàng mà quằn quại dưới gót giày xâm lược trong thơ Hoàng Cầm; Đất nước tươi đẹp mà đau thương với sức vươn khỏe khoắn “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” sống động hiện hình lên trong thơ Nguyễn Đình Thi.

     Từ chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa, trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm là tiếng ca sôi nổi nhiệt tình cất lên từ trái tim tuổi trẻ xuống đường tranh đấu, trong đó những trang thơ khắc hình Đất nước là những nốt nhạc trong trẻo, xanh tươi nhất, rung động lòng người nhất, được tỏa sáng dưới một cái nhìn mới mẻ đầy tính phát hiện của thi nhân. Xuyên suốt đoạn trích Đất Nước, tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” nhuần nhyễn trong hình thức “Đất Nước của ca dao thần thoại” như một sợi chỉ đỏ tạo nên mạch chảy đằm sâu, tha thiết của cảm xúc nhà thơ.

     Giản dị như một lẽ tự nhiên, một vầng trăng cố tích huyền ảo gợi lên trong thế giới "ngày xửa ngày xưa”, một điệu hồn mềm mại trong sáng vút ngân từ trái tim nồng nàn yêu thương của mẹ trong những lời ru đong đầy vành nôi... tất cả thắm vào tâm hồn mỗi con người tự bao giờ. Dòng nước ngọt ngào của tình mẹ tắm mát hồn ta, ươm lên mảnh đất tâm hồn ta những hạt giống tốt lành đầu tiên để từ đó nảy mầm xanh tươi vươn lên đón nhận nắng gió của cuộc đời. Thế giới tuổi thơ - thế giới của trí tưởng tượng bay bổng ấy, thật kì diệu, gắn bó sâu xa tựa như trở thành hơi thở, thành máu thịt nuôi dưỡng tâm hồn. Và cũng chẳng biết tự bao giờ, tình yêu quê hương đất nước đậm đà, từ vành nôi của mẹ, thành hình trong ta từ trong tiềm thức... Văn học dân gian nói chung, ca dao thần thoại nói riêng chính là linh hồn dân tộc. Có thể nói đây là bộ phận văn học trong sáng, giàu sức sống nhất và cũng biểu hiện rõ nhất điệu hồn dân tộc - một giọng điệu hồn hậu, tươi duyên và đằm thắm không ai khác chính nhân dân - tập thể những người lao động - trong quá trình lao động cải tạo thiên nhiên, là tác giả cùa nền văn học dân gian dồi dào sáng tạo ấy. Với những xúc động chân thành mãnh liệt của một hồn thơ nảy nở từ nguồn sữa dân gian dạt dào, với sự cảm hiểu sâu sắc của một thanh niên trí tuệ có vốn văn hóa sâu rộng, phong phú đang trực tiếp trải nghiệm trong cuộc đấu tranh sôi nổi, quyết liệt của nhân dân dưới mưa bom bão đạn của kẻ thù Nguyễn Khoa Điềm tìm về với cội nguồn “ca dao, thần thoại” để bật lên ánh sáng tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”, vừa độc đáo mới mẻ, vừa thể hiện cái nhìn chính xác, toàn diện, có chiều sâu của nhà thơ về đất nước, về nhân dân. Tư tưởng chủ đạo ấy thấm nhuần từ cảm xúc đến việc sử dụng chi tiết nghệ thuật bài thơ. Đi suốt đoạn trích, ta bắt gặp một thế giới vừa gần gũi, thân quen, vừa kì diệu sâu xa khơi dậy hồn đất nước. Và chương V của bản trường ca Mặt đường khát vọng được tắm đẫm, được bao bọc bởi bầu không khí văn hóa dân gian gắn bó máu thịt với mỗi tâm hồn, trong đó âm hưởng “đất nước của "nhân dân” là nốt nhạc chủ đạo ngân vang suốt bản đàn “đất nước”.

                                          Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

                                          Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa”... mẹ thường hay kể

                                          Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

                                         Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

     Những câu thơ mở đầu đoạn trích, thật tự nhiên và sâu lắng, nói với ta bao điều giản dị mà cũng thật thiêng liêng, thật thấm thía. Một thế giới cổ tích, truyền thuyết xưa như ùa về, sống dậy trong tâm hồn người đọc: câu chuyện Trầu Cau với tình người nồng hậu, thủy chung, biểu tượng đạo lí sáng đẹp yêu thương của dân tộc; sự tích Thánh Gióng như khúc anh hùng ca tráng lệ tự hào, biểu tượng sức mạnh thần kì của nhân dân Việt Nam từ buổi bình minh non trẻ dựng nước và giữ nước. Hơi thở trải dài, trầm lắng ngân nga như tiếng lòng đất nước dội về tự thuở nào, gợi dậy quá trình sinh thành và tồn tại của đất nước. Nếu như trong cổ tích, truyền thuyết xưa, nhân dân là những cô Tấm, những chàng Thạch Sanh... hay hóa thân trong vẻ đẹp Thánh Gióng, Sọ Dừa, thì trên trang thơ Nguyễn Khoa Điềm, nhân dân hiện lên thân thương, gần gũi qua dáng hình của bà, của mẹ, của “dân mình”. Còn đất nước, không phải là một hình người khổng lồ xa lạ, hay là một khái niệm trừu tượng mà là những gì giản dị, thân thiết trong cuộc sống hàng ngày của mỗi con người. Đất nước hiện hình từ câu chuvện cổ tích của mẹ, miếng trầu của bà đến cái kèo, cái cột trong nhà, hạt gạo ta ăn hàng ngày. Tất cả những vật thân quen, bình dị ấy trong dời sống vật chất, cùng với những phong tục tập quán trong đời sông tinh thần của nhân dân: ăn trầu, trồng tre, búi tóc sau đầu, cách đặt tên người..., và cả tình yêu của con người (“cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”) đều làm nên khuôn mặt dân tộc - một dân tộc nghĩa tình, đằm thắm như trong câu ca dao gợi lên trong ta:

                                         Tay nâng chén muối, đĩa gừng

                                         Gừng cay, muối mặn xin đừng quên nhau

     Chất dân gian, hồn dân tộc như thấm vào từng câu từng chữ. Đất nước bắt nguồn từ những cái hàng ngày gần gũi, lại là những cái bền vững sâu xa, đã hình thành và tồn tại từ ngàn xưa trong đời sống dân tộc; từ những phong tục tập quán xa xưa như không có tuổi, lại là sự tiếp nối thiêng liêng, thấm đượm qua nhiều thế hệ. Đó chính là chiều sâu văn hóa - lịch sử của đất nước thể hiện ngay trong cuộc sống gần gũi hàng ngày của nhân dân. Có thể nói, bằng những hình tượng cụ thể, sinh động giàu sức khơi gợi. Nguyễn Khoa Điềm đã đưa ra định nghĩa mới mẽ, độc đáo về đất nước. Những câu thơ mở đầu như khúc dạo thiết tha đưa người đọc vào thế giới nghệ thuật của đoạn thơ, vừa gần gũi, thân quen, vừa huyền ảo, diệu kì tự xa xưa.

     Không những thế, đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm còn gắn với kỉ niệm riêng tư của mỗi con người, biến thành máu thịt của mỗi người. Tách Đất và Nước thành hai yêu tố, nhà thơ soi chiếu mối quan hệ Đất Nước với không gian và thời gian, với lịch sứ và hiện tại. Đất Nước là mảnh đất quen thuộc, gắn bó với mỗi con người:

                                        Đất là nơi anh đến trường

                                        Nước là nơi em tắm.

     Đất Nước còn là núi sông rừng bể bao la, là không gian sinh tồn và phát triển của bao thế hệ người Việt. Và thật thiêng liêng, Đất Nước là chứng nhân ghi dấu kỉ niệm tình yêu:

                                       Đất Nước là nơi ta hò hẹn

                                       Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.

     Câu thơ thể hiện ngòi bút tài hoa, tinh tế của thi nhân. Ta như lắng nghe điệu bài ca dao “khăn thương nhớ ai" dìu dặt trong bài thơ. Kỉ niệm đẹp đẽ, xúc động của tình yêu như khơi dậy xôn xao, lấp lánh mỗi dòng thơ, ẩn sau đó là biết bao xao xuyến, bâng khuâng của “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy”. Vì thế, ấn tượng về sự gắn bó thân thiết với mỗi cá nhân cùa đất nước càng khắc ghi sâu đậm.

     Những câu thơ sau lại thấm nhuần chất dân gian nhờ cách sử dụng linh hoạt chọn lọc chất liệu văn hóa dân gian:

                                       Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”

                                       Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi"

     Theo mạch suy tưởng, tác giả tiếp tục cảm nhận đất nước ở bình diện lịch sử với huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ “đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng", truyền thuyết Hùng Vương với ngày giỗ tổ. Những câu thơ gợi cảm xúc trang trọng, thiêng liêng khi hướng về nguồn cội cha ông. Những giá trị truyền thống, phong tục, văn hóa bền vững ấy tạo nên mạch ngầm chảy từ quá khứ, nối liền hiện tại và tương lai:

                                      Những ai đã khuất

                                      Những ai bây giờ

                                      Yêu nhau và sinh con đẻ cái

                                      Dặn dò con cháu chuyện mai sau

                                      Hàng năm ăn đâu làm đâu

                                      Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ.

     Cảm nhận đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã phát hiện mối quan hệ biện giải giữa con người và đất nước, tạo nên sự “hài hòa, nồng thắm”:

                                      Trong anh và em hôm nay đều có một phần đất nước

     Một “Đất Nước của ca dao thần thoại” đi vào tâm hồn con người từ thuở trong nôi, một “Đất Nước của Nhân dân” gắn bó gần gũi, thiêng liêng trong cuộc sống hàng ngày, đất nước đã quấn quyện trong hơi thở, máu thịt mỗi người. Những câu thơ đang từ tính chất độc thoại, hướng nội chuyển sang đối thoại ,đặt ra trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với đất nước.

                                     Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình

                                    Phải biết gắn bó và san sẻ.

                                    Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

     Làm nên Đất Nước muôn đời. Câu thơ dù là hình thức mệnh lệnh, nhưng với giọng điệu thiết tha, với cảm xúc mãnh liệt bật lên từ trái tim, từ sự cảm hiểu sâu sắc về đất nước, điệu thơ có sức cuốn hút, thôi thúc mạnh mẽ, tác động đến tâm hồn và trí tuệ người đọc. Mỗi con người gắn bó máu thịt với đất nước nên phải biết bảo vệ, giữ gìn đất nước, hơn nữa phải hi sinh vì đất nước khi vận mệnh dân tộc lâm nguy để mảnh đất mãi màu mỡ, xanh tươi những khúc hát tự do như người con gái trong bài thơ.

     Quê hương của Giang Nam: “Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất có một phần xương thịt của em tôi”. Trong hoàn cảnh đất nước đang gồng mình dưới mưa bom bão đạn của kẻ thù, những vần thơ cùa Nguyễn Khoa Điềm càng có sức lay động sâu xa lòng người, khơi dậy trong mỗi người ngọn lửa yêu thương, chiến đấu, hi sinh bởi trách nhiệm với đất nước chính là trách nhiệm với chính bản thân mình, với truyền thống văn hóa ngày xưa của nhân dân. Những câu thơ viết về chính trị mà không khô khan chính vì “phát khởi tự trong lòng'’ thi nhân, thấm nhuần cảm xúc dạt dào hứng khởi và nói với ta biết bao điều thiêng liêng về đất nước, về trách nhiệm bản thân đối với đất nước.

     Đi suốt đoạn thơ và nhập sâu vào cảm xúc nhà thơ, tư tưởng “đất nước của nhân dân” càng sáng lên rạng rỡ. Đất nước được nhìn từ phương diện địa lí, lịch sử văn hóa trở nên trang trọng, đẹp đẽ lạ thường.

     Những câu thơ như trải rộng mãi cùng cái nhìn, toàn cảnh thiên nhiên đất nươc từ Bắc xuống Nam, từ biển lên rừng. Đôi mắt thi nhân tưởng như muốn ôm trọn những cảnh quan mĩ lệ, kì thú của non sông:

                                 Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

                                 Cặp vợ chổng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

                                 Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

                                 Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương

                                 Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

                                 Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên

                                 Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

                                 Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm.

     Vốn văn hóa dân gian sâu rộng trải ra trên mỗi trang thơ với những phát hiện mới mẻ,sâu sắc và tinh tế của nhà thơ. Những chất liệu dân gian như cổ tích, truyền thuyết... từ sự tích núi Vọng Phu đến hòn Trống Mái, từ chuyện Thánh Gióng đến sự tích chín mươi chín con voi quây quần thuần phục nơi đất Tổ Hùng Vương, từ những sự tích về núi Bút, non Nghiên, thắng cảnh Hạ Long hay những địa danh Nam Bộ... mỗi danh lam thắng cảnh tươi đẹp của đất nước gắn với truyền thuyết riêng, tạo nên một thế giới cố tích huyền diệu. Nhưng có lẽ nét sâu sắc hơn, tài hoa hơn cả chính ở cái nhìn “đất nước của nhân dân” nên mỗi cảnh quan đất nước đều in dấu hình dáng con người: nhưng người vợ nhớ chồng, cặp vợ chồng yêu nhau, người học trò nghèo, những người dân,... và cả đến những con vật gần gũi thân quen của cuộc sống con người (con cóc, con gà quê hương) cũng góp phần tô điểm vẻ đẹp dáng hình đất nước, nhân dân không chỉ bằng  những sinh hoạt của mình, cắt nghĩa các truyền thuyết, mà còn sáng tạo ra danh lam thắng cảnh đẹp đẽ, mang hồn thiêng núi sông, dân tộc. Thiên nhiên đất nước hiện lên chính là một phần máu thịt, tâm hồn của nhân dân. Từ đó, tác giả khái quát, nâng lên như một suy tư giàu chất triết luận:

                                Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

                                Chẳng mang một dáng hình một ao ước một lối sống ông cha.

                                Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

                                 Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.

     Vượt qua thời gian đằng đẵng, nhìn xa vào bốn ngàn năm đất nước, có bề lịch sừ hào hùng của đất nước như sống dậy. Ca dao xưa nói về nỗi nhớ quê hương qua những chi tiết thật bình dị của bữa cơm đạm bạc và bóng dáng dầm sương dãi nắng.

     Nhìn lại lịch sứ dài lâu của đất nước, ta thường khắc ghi các triều đại, ngợi ca  những anh hùng ghi danh trong trang sử vàng của dân tộc.

     Những cảm quan “Đất Nước của Nhân dân” như sợi chỉ đỏ xuyên suốt, chi phối cái nhìn lịch sử của nhà thơ. Nhân dân là người sáng tạo ra đất nước, chiến đấu bảo vệ đất nước. Những cụm từ lấy ra trong ca dao, tục ngữ: “nuôi cái cùng con”, “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” tạo cho lời thơ sự hòa quyện rất gợi cảm. Nốt nhấn của khúc ca ca ngợi nhân dân chính là điểm sáng ngời trong phẩm chất nhân dân:

                                 Họ đã sống và chết

                                 Giản dị và bình tâm

                                 Không ai nhớ mặt đặt tên

                                 Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.

     Nhân dân trong quan niệm Nguyễn Khoa Điềm, là tập thể những người anh hùng vô danh. Họ sống giản dị, chết bình tâm, chiến đấu không phải để mang tên cho lịch sử mà vì một lẽ thiêng liêng, bình dị và cao cả: bảo vệ đất nước. Câu thơ ngắn, cô đúc nhưng lại chính là sự dồn nén của cảm xúc tác phẩm, ấn chứa biết bao xúc động chân thành trước những hi sinh thầm lặng, những đóng góp lớn lao của những con người vô danh, hiền lành và giản dị.

     Từ cái nhìn đầy tính phát hiện, tác giả nhấn mạnh vai trò của nhân dân. Nhân dân, bằng máu xương của mình đã chiến đấu bảo vệ gìn giữ đất nước, họ là những anh hùng chiến trận. Nhân dân, bằng lao động sáng tạo đã dựng xây đất nước, giữ gìn và truyền lại cho các thế hệ Việt Nam mọi giá trị văn hóa, phẩm chất tinh thần: từ hạt lúa với nền văn minh lúa nước, ngọn lửa tạo nên bước tiến của loài người đến những của cải tinh thần quý báu như phong tục tập quán, giọng nói cha ông, tên xã, tên làng... họ là những anh hùng văn hóa. Nhân dân đã ấp iu qua nhiều thế hệ nhưng phẩm chất cao đẹp đúc kết trong những câu ca dao, tục ngữ đi vào lòng người, dễ thuộc dễ nhớ. Đó là cái gốc rễ mọi tình cảm đẹp, tình yêu thương, thể hiện trong câu ca dao hóm hỉnh:

                                                      Yêu em từ thuở trong nôi

                                                      Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru

     Đó là sự quý trọng công sức lao độmg:

                                                      Cầm vàng mà lội qua sông

                                                      Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng

      Đó còn là tinh thần bất khuất quật cường và lòng căm thù giặc sâu sắc:

Thù này ắt hẳn còn lâu

 Trồng tre nên gậy, gặp đâu đánh què

     Sử dụng linh hoạt sáng tạo chất liệu ca dao của văn học dân gian, dường như có một sự đồng diệu và gặp nhau trong tâm hồn cha ông ngàn xưa và thế hệ hiện tại. Phải thấu hiểu, trân trọng giá trị văn hóa dân tộc thì tác giả mới có cái nhìn sâu sắc, mới mẻ ấy trong quan niệm “Đất Nước của Nhân dân”.

     Cảm hứng thơ dồn dập dâng trào đến đỉnh điểm từ đó bật lên điểm sáng cốt lõi trong quan niệm đất nước của Nguyễn Khoa Điềm.

                                                      Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân

                                                      Đất Nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại.

     Đoạn trích khép lại bằng hình ảnh dòng sông đưa nước từ những phương trời xa tắm mát tâm hồn ta và vẻ đẹp cùa thiên nhiên, con người đất Việt “gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”. Phải chăng đó cũng chính là dòng sông của truyền thống lịch sử chảy về tự ngàn xưa, từ đó bồi đắp phù sa cho tâm hồn muôn thế hệ? Và lời thơ kết rung động lòng người bởi nó bật lên từ sự xúc động chân thành của trái tim thi sĩ: “Ta nghẹn ngào đất nước Việt Nam ơi!”. Cái “nghẹn ngào” của nhà thơ thật đáng quý, đáng trân trọng, đó là kết tinh của những cảm xúc mãnh liệt và suy tư, chiêm nghiệm sâu sắc về đất nước, về vai trò to lớn và vẻ đẹp cao cả của nhân dân, là tiếng lòng chân thành của cả thế hệ hướng tới nguồn cội dân tộc, tới truyền thông văn hóa, lịch sử vững bền mà nhân dân là người sáng tạo, bảo tồn và truyền lại cho con cháu mai sau.

     Có thể gọi Đất Nước là một tùy bút thơ của Nguyễn Khoa Điềm, trong đó tác giả không đơn thuần viết theo dòng chảy cảm xúc mà còn huy động vào thơ kho hiểu biết dồi dào trong tính tổng hợp về địa lí, lịch sử, văn hóa dân gian mà tâm điểm là văn học dân gian. Đoạn trích được xây dựng theo phương thức luận đề, chất “tư duy lôgic” dễ làm thơ mất đi chất “tươi xanh nhựa sống”, khô khan, chỉ tác động vào lí trí. Hơn nữa với vốn kiến thức phong phú tổng hợp khiến thơ dễ sa vào ước lệ, khô cứng như một bài diễn ca xã hội học. Nhưng không! Viết về đất nước, về một nguồn mạch cảm hứng lớn của thi ca nói chung và thơ cách mạng nói riêng, Nguyễn Khoa Điềm đã chiết xuất chất liệu văn hóa dân gian, đưa vào ngôn ngữ thơ những chi tiết hiện thực gần gũi, phổ biến, không chỉ quen thuộc trong nhận thức mà còn có sức lay động tình cảm sâu xa đối với mọi tâm hồn Việt Nam. Việc sử dụng khá dày, đậm nhưng cũng rất linh hoạt sáng tạo nguồn văn học dân gian tạo nên thế giới thơ bình dị, gắn bó máu thịt với tâm hồn người đọc và dễ đi vào lòng người bởi ngôn ngữ dân gian hồn hậu, trong sáng. Chính sách sử dụng ngôn ngữ này tạo sắc điệu thẩm mĩ và không khí riêng cho đoạn thơ, đồng thời thể hiện rõ nét tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” bởi nhân dân đã sáng tạo ra nền văn học dân gian giàu sức sống, thân quen gần gũi với mỗi người dân đất Việt.

     Mặt khác, chính cám xúc chân thành, mãnh liệt của thi nhân mang lại cho nhà thơ âm hưởng tha thiết, ngân vang, với nhiều giọng điệu lúc thì nồng nhiệt say mê, khi lại trầm lắng như trò chuyện, tâm tình về những nhận thức, cảm xúc về đất nước, nhân dân. Mỗi chi tiết, hình ảnh đưa ra đều thấm nhuần tâm hồn nhà thơ, khi thì là cảm nhận riêng tư, lúc lại chứa chan cảm xúc như hồi ức, một kỉ niệm. Sự kết. hợp hài hòa chất trữ tình và giọng chính luận cho đoạn thơ vẻ đẹp riêng độc đáo, thơ không xa lạ mà đi vào lòng người tiếng nói tình cảm xúc động chân thành mà vẫn thế hiện chất trí tuệ. Chúng ta trải nghiệm bản thân của một nhà thơ - chiến sĩ lăn mình trong khói lửa chiến tranh cùng với vốn văn hóa sâu rộng và tình cảm yêu thương đất nước, trân trọng, ca ngợi nhân dân đã tỏa sáng tư tưởng, tâm hồn thi nhân.

     Cũng viết về đề tài đất nước, thơ ta chống Mĩ không chỉ kế tục truyền thống yêu nước từ văn học giai đoạn trước và trực tiếp nhất là thơ ca chống Pháp mà còn có đóng góp làm phong phú, sâu sắc thêm nguồn cảm hứng dạt dào này. Nguyễn Trãi trước kia từng thấy được vai trò “lật thuyền mới biết dân như nước”, Phan Bội Châu từng viết “dân là dân nước, nước là nước dân”, nhưng phải đến Nguyễn Khoa Điềm, tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” mới thể hiện rõ nét và được nâng lên thành cảm hứng nghệ thuật của thơ ca chống mỹ. Bằng những khám phá, phát hiện về chiều sâu văn hóa - lịch sử đất nước, sự gắn bó giữa truyền thống quá khứ và hiện tại, với con đường đi riêng: con đường của văn học dân gian gần gũi, kì diệu, tư tưởng của Nguyễn Khoa Điềm thấm vào từng hình tượng, ngôn ngữ với mối liên tưởng, tưởng tượng phong phú, độc đáo và thông minh. Có thế nói đây là phần tinh túy nhất, sâu sắc nhất trong trường ca Mặt dường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm.

     Văn học chống Mĩ cũng có những cảm nhận sâu sắc về nhân dân, đặt nền tảng cho lòng yêu nước: Nguyễn Duy suy nghĩ về nhân dân qua một Hơi ấm ổ rơm- hay hình tượng Tre Việt Nam, còn Thanh Thảo trong trường ca Những người đi tới biển đã viết lên những lời ca xúc động nhất, về nhân dân:

                                                   Và cứ thế nhân dân thường ít nói

                                                   Như mẹ tôi lặng lẽ suốt đời

                                                   Và cứ thế nhân dân cao vời vợi

                                                   Hơn cả những ngôi sao cô độc giữa trời

     Nhưng có lẽ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm với nhạc điệu “Đất Nước của thần thoại” để sáng lên tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” rất độc đáo là nốt nhạc ngân vang trong bản hòa điệu của thơ ca kháng chiến, thể hiện tâm  hồn cảm xúc thi nhân trước vẻ đẹp văn hóa dân tộc, tư tưởng ấy đến nay còn tươi nguyên giá trị của nó bởi trách nhiệm “hóa thân cho dáng hình xứ sở" là vấn đề muôn đời của thơ ca và cuộc sống.

 

 

Phương Vương
Xem chi tiết
lenadz
19 tháng 6 2023 lúc 9:10

dfgyuioloiuyt

Tuấn Trần
Xem chi tiết
Đỗ Thị Thảo Chi
Xem chi tiết
Nguyễn Ngọc Như Quỳnh
18 tháng 3 2022 lúc 11:04

văn bản nào

minh nguyet
18 tháng 3 2022 lúc 11:07

Em viết theo các ý chị gợi ý nhé:

Nêu lên vấn đề cần nghị luận (Việc học có vai trò rất lớn đối với mỗi con người ...)

Việc học có vai trò gì?

Người chăm chỉ học là người như thế nào?

Dẫn chứng?

Trái với việc chăm chỉ học là gì?

Liên hệ bản thân?

Kết luận. 

Trang Nguyễn
Xem chi tiết
Đỗ Tuệ Lâm
1 tháng 5 2023 lúc 15:22

Có câu nói như thế này: "Người nghèo nhất trong tất cả mọi người không phải là người không có một xu dính túi, mà là người không có lấy một ước mơ." Thực vậy, cuộc sống sẽ thật nhạt nhẽo và nghèo biết chừng nào nếu như sống mà chẳng có khát vọng, hoài bão, ước mơ. Vậy ý nghĩa của ước mơ là gì?. Ấy là tượng trưng cho động lực cố gắng, phấn đấu của mọi người để đạt điều mình muốn. Còn với tuổi học trò, ước mơ sẽ giúp cho ta trở thành một con người tài năng ngày càng trưởng thành. Chẳng hạn như khi gặp phải những trở ngại, thử thách, nếu không có ước mơ, ta sẽ dễ dàng bị mất động lực, hy vọng và cảm thấy thất bại. Nhưng khi có ước mơ, ta sẽ có sức mạnh để vượt qua những khó khăn, thử thách và trở thành người mạnh mẽ hơn. Chúng ta mới buộc mình phải hành động để thực hiện ước mơ đó mà để hành động bao giờ ta cũng phải học thật tốt, rèn luyện bản thân trở nên tốt đẹp hơn. Ngoài ra, khi ấp ủ ước mơ trong lòng ta còn có thể kiếm tìm ý nghĩa cuộc sống rồi định hướng cho tương lai của mình. Hãy để bản thân được tự do mơ mộng, làm điều mà mình mong muốn rồi bắt tay vào thực hiện nó dù thời gian có là bao lâu đi nữa. Mặt khác để đạt được ước mơ, cần phải kiên trì và không bỏ cuộc dù gặp phải những khó khăn, thử thách. Chỉ khi có đủ sự nỗ lực và kiên trì, chúng ta mới có thể biến ước mơ thành hiện thực. Như một hạt giống mong ngày được nảy mầm, nó luôn cố gắng bén rễ sâu vào đất lấy chất dinh dưỡng; như một con người của nghệ thuật, họ luôn cố gắng làm sao cho bài thơ bài hát của mình thật du dương thật hấp dẫn. Ước mơ gắn với cuộc đời, vì vậy hãy sống hết mình với ước mơ của chính chúng ta. Khép lại, không chỉ với tuổi học trò mà ước mơ luôn có ý nghĩa quan trọng với bất kì ai.

T.Lam

Trâm Đặng 9C
Xem chi tiết
Cua Trôi - Trường Tồn
11 tháng 3 2019 lúc 12:25

Mỗi chúng ta không phải đều được tạo nên từ những phần tươi đẹp, có những góc tối u ám mà mỗi người luôn cố gắng khắc phục. Và có lẽ, hai chữ “đố kỵ” là điều mà không ai mong muốn nhưng nó lại luôn hiện hữu mạnh mẽ trong ta. Trong bức thư của Tổng thống Mỹ Abraham Lincoln gửi thầy hiệu trưởng ngôi trường nơi con trai ông theo học, ông đã viết “Xin hãy dạy cháu tránh xa sự đố kỵ”. Dù bức thư đã được viết hơn 200 năm trước nhưng dường như lời nhắn gửi của ông vẫn còn vẹn nguyên giá trị. “Đố kỵ” là một thói xấu phổ biến trong xã hội. Đó là cảm giác ghen ghét, hậm hực, uất ức trước sự thành công, trước sự uy việt hoặc trước uy tín của người khác. Nhà văn Tạ Duy Anh đã nói “thói ghen tị là một thuộc tính của con người – luôn luôn ẩn náu trong chúng ta và luôn luôn chờ thời cơ để nhảy bổ vào chi phối những suy nghĩ, ứng xử, hành động của ta…cái con rắn ghen tức, đố kị sẽ tìm cách khuất phục lý trí để ngóc đầu dậy tác oai tác quái”. Như vậy, tổng thống Lincoln không chỉ muốn nhắn gửi đến sự giáo dục – hãy dạy trẻ em tránh xa góc tối đố kỵ đó mà còn hướng đến tất cả mọi người, chúng ta cần chung tay để loại bỏ nó. Sự đố kỵ bắt nguồn từ đâu. Nó sẽ xuất hiện khi ta thấy xấu hổ bởi không thành công hay có được điều gì đó như những người khác. Nó cũng len lỏi khi ta muốn sở hữu thành công, danh vọng,…nhưng lại không chịu cố gắng, không học tập. Đã biết bao câu chuyện về sự đố kỵ. Trong truyện cổ tích “Sọ Dừa”, hai cô chị vì ghen ghét, đố kỵ với em lấy được Sọ Dừa – khi chàng đã trở nên khôi ngô mà hãm hại chính em gái ruột của mình. Nhưng rồi chính họ lại phải gánh chịu hậu quả. Hay như sự việc, một loạt những “anh hùng bàn phím” đã ra sức để chỉ trích, bôi nhọ MC Phan Anh khi anh có được sự tin cậy của đông đảo người dân để đóng góp vào quỹ từ thiện của mình. Đố kỵ gây ra vô vàn những hậu quả. Đối với cá nhân, nó làm thui chột những tình cảm tốt đẹp, nhiều mối quan hệ thiêng liêng, làm cho con người trở nên nhạt nhẽo, tầm thường, thậm chí độc ác, ích kỉ. Đối với xã hội, nó kìm hãm tài năng, cản trở phát triển hay kéo lùi sự phát triển của lịch sử. Trong quá trình học tập và rèn luyện để hoàn thiện nhân cách của mình, chúng ta phải dũng cảm, phải kiên quyết loại bỏ thói ghen tị “Đừng để cho con rắn ghen tị luồn vào trong tim. Đó là một con rắn độc, nó gặm mòn khối óc và làm đồi bại trái tim” (Ét-môn-đô A-mi-xi). Thay vì ghen ghét, hãy coi thành công của người khác là tấm gương để chúng ta học tập, noi theo, phấn đấu. Cuộc sống sẽ rạng rỡ, tươi đẹp hơn nếu không còn sự hiện hữu của “đố kỵ”.