"Niềm vui của nhà văn chân chính là được làm người dẫn đường đến xứ sở của cái đẹp ". Hãy khám phá "xứ sở của cái đẹp" qua văn bản chuyện người con gái Nam Xương
Bài làm:
"Người con gái Nam Xương" là một trong những tác phẩm văn học nổi tiếng của Việt Nam, được viết bởi nhà văn Nam Cao. Tác phẩm này đã giúp định hình hình ảnh về xứ sở Nam Xương - một nơi được coi là xứ sở của cái đẹp - và khám phá các khía cạnh về cái đẹp trong văn hóa và xã hội của người Việt Nam.
Xứ sở Nam Xương trong truyện là một nơi tưởng tượng, nơi có những cô gái xinh đẹp và duyên dáng nhất. Điều này thể hiện sự mơ mộng và mong ước về cái đẹp tinh thần trong cuộc sống. Xứ sở Nam Xương không chỉ là nơi về vẻ đẹp bề ngoại, mà còn là biểu tượng cho sự thuần khiết, trong sáng và tinh tế của vẻ đẹp nội tâm.
Xứ sở Nam Xương, nhà văn Nam Cao đã khám phá và thể hiện nhiều khía cạnh về cái đẹp. Nhân vật chính trong câu chuyện, cô gái tên là Mùa, được miêu tả như một hình mẫu của vẻ đẹp tinh thần, với lòng tử tế, đạo đức và tình yêu thương con người. Nhờ vào sự hiện diện của Mùa, các nhân vật khác trong truyện trở nên nhận thức được ý nghĩa của cái đẹp trong cuộc sống và khao khát được làm người tốt.
Nhưng qua cảnh tượng tưởng tượng của xứ sở Nam Xương, Nam Cao cũng tương tương và phê phán nhiều khía cạnh của xã hội và cuộc sống thực tế. Câu chuyện của Mùa, Mây, Hương và nhiều nhân vật khác là một bức tranh phản ánh cuộc sống của người nông dân Việt Nam thời đó, với những khó khăn, cực khổ và xung đột gia đình. Nhà văn Nam Cao đã sử dụng xứ sở Nam Xương và những nhân vật của mình để thể hiện ý nghĩa và giá trị của cái đẹp trong mọi khía cạnh của cuộc sống.
Khép lại trang sách , câu trích dẫn "Niềm vui của nhà văn chân chính là được làm người dẫn đường đến xứ sở của cái đẹp" có thể được hiểu là nhà văn chân chính muốn thông qua việc viết về xứ sở Nam Xương và những người con gái ở đó, họ có thể tìm kiếm và thể hiện cái đẹp ở nhiều khía cạnh khác nhau của cuộc sống, từ vẻ đẹp nội tâm cho đến vẻ đẹp trong tình thân, tình bạn và tình yêu.
Nguyễn Xuân Thành sao chép trên google luôn =))
trong truyện ngắn lặng lẽ sapa nhà văn nguyễn thành long viết:"trong cái lặng im của sapa....có những con người làm việc và lo nghĩ như vậy cho đất nước" qua các nhân vật trong tác phẩm lặng lẽ sapa,em hãy làm sáng tỏ vẻ đẹp đó
Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương, ''Chuyệ người con gái Nam Xương'' thể hiện niềm cảm thông với số phận đau khổ của người phụ nữ đồng thời khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ?''
Phân tích nhân vật Vũ Nương trong truyện '' Người con gái Nam Xương'' của Nguyễn Dữ để làm sáng tỏ nhận định trên.
Học rộng, tài cao, nhưng Nguyễn Dữ phải sống trong xã hội phong kiến Việt Nam thời kì khủng hoảng, nên ông chỉ làm quan một vài năm rồi lui về ở ẩn, viết sách. Tuy không có nhiều tác phẩm lớn đóng góp cho nền văn học trung đại, nhưng Nguyễn Dữ với Truyền kì mạn lục, ông thường viết về những người phụ nữ bị xã hội phong kiến chà đạp, đẩy vào hoàn cảnh bất hạnh, Chuyện người con gái Nam Xương là một trong số đó. Vũ Nương, nhân vật chính trong tác phẩm là người phụ nữ nết na, hiền thục, nhưng phải chịu số phận đau thương, oan nghiệt.
Vũ Nương luôn khao khát hạnh phúc gia đình. Sống trong gia đình chồng, nàng phụng dưỡng mẹ chồng chu đáo như với cha mẹ đẻ của mình, đến mẹ chồng cũng phải khen nàng “xanh kia chẳng phụ con, cũng như con chẳng phụ mẹ”. Sống với chồng, nàng hết sức giữ gìn khuôn phép, không bao giờ có sự thất hòa giữa hai vợ chồng, nên gia đình luôn êm ấm. Khi Trương Sinh phải đi lính, nàng hết sức lo lắng, phút chia tay, nàng nói với chồng rằng: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu,.. chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên”. Vũ Nương chẳng cần vinh hoa phú quý, chỉ khao khát được đoàn tụ, gia đình sum vầy, hạnh phúc mà thôi.
Thế nhưng nàng cố gắng vun vén cho hạnh phúc gia đình bao nhiêu thì càng phải chịu đau khổ, bất hạnh bấy nhiêu. Thật oan trái! Bi kịch thứ nhất là nàng bị chồng nghi ngờ một cách vô lí mà không được thanh minh. Những lời biện bạch tha thiết “Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguội lòng… Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói” đều bị chồng để ngoài tai. Những lời van xin thống thiết, hỏi chuyện đó ai nói: “ Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ”, đều bị chồng gạt phắt đi, anh ta chỉ một mực mắng nhiếc và đánh đuổi nàng đi.
Và một bi kịch tiếp tất sẽ xảy ra, dù nàng đã tìm mọi cách để cứu vãn sự đổ vỡ vẫn không tránh khỏi gia đình tan vỡ như “bình rơi tram gãy,… sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió”. Nàng than khóc mà nghe đứt ruột “khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn…”. Đó là nỗi thất vọng tột cùng của Vũ Nương. Không những thế nàng càng đau lòng vì sự trong sáng bị sỉ nhục, tấm lòng thủy chung bị nghi ngờ, nhân cách cao quý của đời người phụ nữ bị xúc phạm nặng nề, nên nàng chỉ còn tìm đến cái chết được minh oan cho mình. Đó là bi kịch thứ ba của cuộc đời nàng.
Cuối cùng, tuy được Linh Phi cứu và được giải oan giữa thanh thiên bạch nhật, nhưng niềm khao khát hạnh phúc giữa trần gian của Vũ Nương vẫn không thực hiện được. Nàng trở về giữa con sông quê hương, xiêm y lộng lẫy, ngồi trên kiệu hoa nhưng không được trở về ngôi nhà nhỏ bé ấp áp bên chồng con mãi mãi. Đoàn tụ hạnh phúc chỉ là ảo ảnh, chia li tan nát vẫn là hiện thực. Lời nói vĩnh biệt: “thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa” thể hiện niềm mong mỏi hạnh phúc không thể thực hiện được vì thế gian đầy bất công này không dành những điều tốt đẹp cho nàng. Hình ảnh Vũ Nương “lúc ẩn, lúc hiện… Rồi trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất” như ánh sáng đã tàn, gieo vào lòng người đọc nỗi xót xa tột đỉnh.
Cuộc đời Vũ Nương là điển hình cho số phận đau thương của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến suy tàn. Qua đó, em cảm nhận được nỗi đau thương của thân phận sống lệ thuộc của họ. Những người phụ nữ ấy không bao giờ được quyết định cuộc đời mình. Ở nhà phải phục tùng cha, đi lấy chồng phải phục tùng chồng, chồng chết phải phục tùng con trai trưởng của mình, dù cha, chồng, con trai có quyết định vô lí đến đâu. Họ thường bị ép gả vào những cuộc hôn nhân không bình đẳng, không tình yêu với người chồng gia trưởng, độc đoán. Dù bị chồng hành hạ tàn nhẫn cũng phải cắn răng mà chịu, nếu phản ứng lại sẽ bị coi là lăng loan, bị chồng rẫy bỏ, gia đình chồng mắng nhiếc, bị người đời phỉ nhổ, sỉ nhục đến chết. Vì vậy, họ chỉ có thể chọn một trong hai con đường: đi tu thoát tục hoặc chết một cách thảm khốc. Chế độ gia trưởng của thời phong kiến đã cho người đàn ông cái quyền độc tôn trong gia đình, hại bao cuộc đời người phụ nữ.
Nguyễn Dữ viết Chuyện người con gái Nam Xương phản ánh số phận oan nghiệt của người phụ nữ là góp một bản án về cái chết oan khốc nhằm lên án chế độ phong kiến; đồng thời khơi dậy ở chúng ta niềm cảm thương trước một bi kịch về thân phận người phụ nữ đương thời. Em càng cảm nhận rõ về số phận đau thương vì luôn bị phụ thuộc của họ, vừa cảm phục họ vì như Hồ Xuân Hương đã viết “Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn/ Mà em vẫn giữ tấm lòng son” (trích Bánh trôi nước) thì càng căm ghét cái xã hội phong kiến bất công.
Giáo sư, nhà giáo nhà lí luận - phê bình văn học Lê Ngọc Trà có nhận định cho rằng: "Nghị luận cũng là tiếng nói tình cảm con người, là sự tự giãi bày và gửi gắm tâm tư".Qua bài thơ " Sự bùng nổ của mùa xuân " của Thanh Thảo hãy làm sáng tỏ nhận định trên
giúp mk với, nhớ đúng chủ đề câu hỏi nha
Tham khảo:Giải thích:
– Nghệ thuật: Nghệ thuật là một lĩnh vực của cuộc sống khác các lĩnh vực khoa học. Nghệ thuật mà Lê Ngọc trà đặc biệt nhấn mạnh ở đây là văn học – những tác phẩmnghệ thuật ngôn từ có hình tượng.
– Bao giờ: luôn luôn.
– Là tiếng nói tình cảm con người: Tình cảm của con người được thể hiện trong tác phẩm và tình cảm của chủ thể sáng tạo – nhà văn – người nghệ sĩ.
– Là sự tự giãi bày và gửi gắm tâm tư: những tình cảm ấy được nói ra, được viết ra xuất phát từ nhu cầu:
. Được giãi bày: được bày tỏ, chia sẻ những gì chất chứa ở trong lòng để có thể nhân đôi những niềm vui và vơi bớt những nỗi buồn.
. Gửi gắm những tâm tư: muốn kí thác vào tác phẩm những lời nhắn nhủ, những bức thông điệp, những tư tưởng, tình cảm của nhà văn….
=> Ý kiến đề cập đến đặc trưng của văn học: Văn học là tiếng nói của tình con người, những tình cảm được nói ra, viết ra từ nhu cầu được bày tỏ, chia sẻ, gửi gắm vào tác phẩm những tình cảm, tư tưởng của nhà văn. Ý kiến đồng thời đưa ra tiêu chí để đánh giá một tác phẩm chân chính phải chứa đựng những tình cảm đẹp, những tư tưởng tiến bộ làm đẹp cho tâm hồn con người.
phân tích nhân vật anh thanh niên trong lặng lẽ sa pa để chứng minh cho nhận định "Nhà văn là người dẫn dường đến sứ sở cái đẹp"
Có người cho rằng một truyện ngắn hay vừa là chứng tích của một thời, vừa là hiện thân cho chân lí giản dị của mọi thời. . Em hiểu ý kiến trên như thế nào ? Qua văn bản Tức Nước Vỡ Bờ . Hãy làm sáng tỏ nhận định trên
làm theo ý của cj nhe:
1. Giải thích:
- Nhận định bày tỏ quan niệm, yêu cầu đối với một truyện ngắn hay:
+ Là chứng tích của một thời: phản ánh chân thực hiện thực thời đại, đặt ra những vấn đề quan trọng, bức thiết của cuộc sống, con người đương thời (bản chất hiện thực, số phận con người, nỗi trăn trở nhân sinh…).
+ Là hiện thân của một chân lí giản dị của mọi thời: tác phẩm đặt ra, chạm tới được những chân lí giản dị – những vấn đề bình dị nhưng đúng đắn, là cốt lõi, bản chất, mang tính quy luật phổ quát, lâu dài của nhân sinh muôn thuở.
- Truyện ngắn hay là những tác phẩm hài hòa hai giá trị: vừa soi bóng thời đại, ghi dấu những vấn đề lớn, cốt lõi của thời đại – vừa có ý nghĩa lâu dài, chạm đến những chân lí bình thường, phổ quát, muôn đời..
2. Bình luận:
Đây là nhận định đúng đắn, sâu sắc, đặt ra yêu cầu tất yếu đối với một tác phẩm có giá trị và sức sống lâu dài.
- Đặc trưng về đối tượng phản ánh của văn học nói chung, truyện ngắn nói riêng là khám phá, miêu tả, soi bóng thời đại mà nó ra đời: hiện thực cuộc sống, đời sống con người, đặt ra những vấn đề nhân sinh phong phú, phức tạp…
- Đặc trưng của truyện ngắn: thể loại tự sự cỡ nhỏ, dung lượng ngắn, thường chỉ kể về một tình huống đặc biệt của đời sống, với số lượng không nhiều các nhân vật, tình tiết, chi tiết, qua đó gửi gắm những thông điệp tư tưởng, tình cảm của tác giả.
- Truyện ngắn hay phải là những tác phẩm kết tinh hài hòa hai giá trị:
+ Là chứng tích của một thời: tác phẩm phải phản ánh được bức tranh sâu rộng về hiện thực thời đại, xây dựng được những chân dung nhân vật vừa chân thực vừa điển hình của thời đại, đặt ra được những vấn đề cốt lõi, quan trọng, bức thiết nhất đương thời. Mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời (Tô Hoài)
+ Là hiện thân của một chân lí giản dị của mọi thời: khi tác phẩm chạm đến được chiều sâu của hiện thực, đặt ra được một hoặc nhiều vấn đề tuy giản dị, bình thường nhưng là bản chất, cốt lõi, có tính quy luật, là chân lí phổ quát muôn đời. Khi đó, tác phẩm là kết quả của sự gắn bó, trăn trở sâu sắc với thời đại và nhân sinh, thực sự có giá trị và sức sống lâu dài.
- Giá trị và sức sống ấy chỉ có được khi tác phẩm có chất lượng nghệ thuật cao: tuy dung lượng ngắn, tình huống độc đáo, nhân vật không nhiều, chi tiết cô đúc … nhưng có độ dồn nén, hàm súc, khả năng khái quát, điển hình.
3. Chứng minh qua tác phẩm “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng.
Thí sinh làm sáng tỏ nhận định qua các dẫn chứng diện và điểm, trong đó đi sâu phân tích cụ thể truyện ngắn được nêu ở đề bài.
Thí sinh có thể triển khai theo nhiều cách, song cần bám sát định hướng của đề.
4. Bàn bạc, mở rộng vấn đề:
Nhận định chủ yếu khẳng định giá trị, vẻ đẹp, sức sống của thể loại truyện ngắn ở phương diện ý nghĩa nội dung tư tưởng, song cũng cần nhắc tới những yêu cầu, phẩm chất về nghệ thuật của thể loại: dựng truyện, kể chuyện hấp dẫn; xây dựng nhân vật; lựa chọn sáng tạo chi tiết, giọng điệu, lời văn…
- Ý kiến được nêu cũng gợi nhắc những đòi hỏi, yêu cầu:
+ Đối với người sáng tác: phải gắn bó, hiểu biết sâu sắc, trăn trở và nói lên những vấn đề thiết cốt nhất của thời đại để tác phẩm của mình thực sự là chứng tích của một thời; đồng thời đào sâu vào những vấn đề bản chất, chân lí của nhân sinh để tác phẩm có ý nghĩa và sức sống lâu dài, vượt tầm thời đại.
+ Đối với người đọc: tiếp nhận, trân trọng giá trị của những tác phẩm hay giúp ta hiểu sâu rộng hơn về cuộc sống, con người một thời và thấy được ý nghĩa của tác phẩm với muôn đời, muôn người, trong đó có chúng ta và thời đại mình đang sống.
( ghê chưa ghê chưa chất xám cả đóa nhoa):>
"Tư tưởng cơ bản của nhà văn bao giờ cũng gắn liền với cái nhìn về cuộc sống bằng hình tượng và những biểu tượng , là sáng tạo riêng độc đáo của mỗi nhà văn " . Bằng hiểu biết của anh chị làm sáng tỏ nhận định trên
Suy ngẫm về giá trị đích thực của một tác phẩm văn chương, nhà văn Nam Cao khẳng định:
"Một tác phẩm thật giá trị , phải vượt lên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ.... Nó tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình... Nó làm cho người gần người hơn"
Qua truyện ngắn" Lão Hạc"-Nam Cao, em hãy phân tích làm sáng tỏ nhận định trên.
1. Giải thích: Ý kiến khẳng định giá trị của tác phẩm chính là giá trị nhân đạo của tác phẩm ấy.
2. Phân tích
a. Số phận bất hạnh
- Gia cảnh
+ Góa vợ, sống một mình
+ Nghèo, vì nghèo mà không lấy được vợ cho con -> dằn vặt
+ Người con trai duy nhất bỏ đi phu, bặt vô âm tín.
ð Cô đơn khi về già.
- Khó khăn:
+ Già rồi nhưng vẫn đi làm thuê
+ Hai trận ốm lấy hết số tiền lão có
+ Trận bão cướp hết hoa màu
+ Lão phải “cạnh tranh” với những người phụ nữ khác.
b. Tình cảnh trớ trêu
- “Cậu Vàng” là người thân duy nhất, là kỉ vật duy nhất của người con trai
+ Lão Hạc chăm sóc và yêu thương nó như một con người.
+ Cách gọi tên “cậu” giống đứa con cầu tự.
+ Cách cho ăn giống như nhà giàu
+ Cách chăm sóc: trò chuyện, cưng nựng.
ð Yêu cậu Vàng hơn cả bản thân.
- Lão bị rơi vào bi kịch: bán hay không bán cậu Vàng.
- Thực tế khốn khó buộc lão phải bán cậu Vàng.
- Tâm trạng của lão sau khi bán cậu Vàng:
+ Cố làm ra vui vẻ
+ Cười như mếu, mắt
+ Mặt co rúm lại, lão khóc
+ Day dứt vì mình đã lừa cậu Vàng.
+ Sau khi bán cậu Vàng, cuộc sống của lão ngày càng nghèo khó
ð Tự trừng phạt bản thân.
c. Cái chết của lão Hạc
- Lão hoàn toàn trắng tay.
- Trừng phạt bản thân vì đã lừa cậu Vàng.
- Bảo toàn số tiền tiết kiệm và mảnh vườn.
- Ước muốn được “hóa kiếp” sang cuộc sống tốt hơn.
- Cách lão tự tử: dùng bả chó.
-> lão đau đớn, vật vã.
=> Đòn nghiêm khắc lão dành để hành hạ bản thân.
d. Phẩm chất của lão Hạc
- Người cha hết mực thương con và trách nhiệm.
+ Luôn cảm thấy xót xa vì đã không làm tròn vai trò.
+ Gửi gắm lòng thương con vào việc chăm sóc cậu Vàng.
+ Lão không ngừng lao đông và quyết tâm giữ mảnh vườn.
- Lòng tự trọng rất sâu sắc
+ Lão luôn sống bằng sức lao động của chính mình.
+ Lão không chấp nhận tha thứ cho bản thân vì đã lừa cậu Vàng.
+ Không chấp nhận sự giúp đỡ của ông giáo.
+ Để lại tiền ma chay.
=> Giá trị nhân đạo của tác phẩm
Nhân vật Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao là một người giàu đức hi dinh và hết lòng vì con
Hãy làm sáng tở nhận định trên bằng 1 đoạn văn khoang 12 đến 15 câu theo phương pháp tổng-phân-hợp
Bằng việc phân tích một vài tác phẩm trong chương trình Ngữ Văn, em hãy làm sáng tỏ nhận định của nhà văn Nguyễn Đình Thi: ''Bắt rễ ở cuộc đời hằng ngày của con người, văn nghệ tạo ra được sự sống cho tâm hồn người. Nghệ thuật mở rộng khả năng của tâm hồn, làm cho con người vui buồn nhiều hơn, yêu thương và căm hờn nhiều hơn, tai mắt biết nhìn, biết nghe thêm tế nhị, sống được nhiều hơn''
ê sao giống tên bff của tui thế
đây không phải là chuyên mục nhận người thân