Những câu hỏi liên quan
Xem chi tiết
Phạm Hoàng Khánh Linh
18 tháng 7 2021 lúc 22:13

trả lời:

Đúng là triều  (1010-1226)  9 đời vua: Thái Tổ, Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Thần Tông, Anh Tông, Cao Tông, Huệ Tông và Chiêu Hoàng.

còn thời nhà trần mk ko cóa bt

Khách vãng lai đã xóa
Vũ Thị Minh Anh
18 tháng 7 2021 lúc 22:14

1. LÝ THÁI TỔ (1010 – 1028) 

Tên húy là Lý Công Uẩn, sinh ngày 12 tháng 02 năm Giáp Tuất (974) là người châu Cổ Pháp (thuộc huyện Tiên Sơn tỉnh Bắc Ninh ngày nay). 

Thời Lê Ngọa Triều, Lý Công Uẩn giữ chức Tứ sương quân phó chỉ huy sứ, sau đó được thăng đến chức Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ. Bởi chức này, sử cũ thường gọi vua là Thân vệ. Năm Kỷ Dậu (1009), Lê Ngọa Triều mất, ông được triều thần (đại diện là Đào Cam Mộc) và các nhà sư (đại diện là Sư Vạn Hạnh) tôn lên ngôi vua. Vua lên ngôi tháng 10 năm Kỷ Dậu (1009) nhưng bắt đầu đặt niên hiệu riêng từ năm 1010 nên sử vẫn thường tính năm đầu đời Lý Thái Tổ là năm 1010. Tháng 7 năm 1010 vua quyết định dời đô về Thăng Long. Vua ở ngôi 18 năm, mất ngày 03 tháng 3 năm Mậu Thìn (1028), thọ 54 tuổi. Trong 18 năm làm vua, ông chỉ dùng một niên hiệu duy nhất là Thuận Thiên. 

2. LÝ THÁI TÔNG (1028 – 1054) 

Tên húy là Lý Phật Mã hay Lý Đức Chính, con trưởng của Lý Thái Tổ, mẹ đẻ là Lê Thái Hậu. Vua sinh ngày 26 tháng 6 năm Canh Tí (1000) tại Hoa Lư. Tháng 4 năm Nhâm Tý (1012), ông được lập Thái tử và lên ngôi Vua vào ngày 04 tháng 3 năm Mậu Thìn (1028), ở ngôi 26 năm, mất ngày 1 tháng 10 năm Giáp Ngọ (1054), thọ 54 tuổi. 

Vua Lý Thái Tông là vị vua anh minh và có nhiều đóng góp trong triều đại nhà Lý. Chính ông thân chinh đem quân đi dẹp cuộc nổi dậy của Nùng Tồn Phúc, Nùng Trí Cao; năm 1044 sau cuộc chiến tranh với Chiêm Thành vua cho đại xá miễn một nữa tiền thuế để khoan sức dân; năm 1049 cho xây chùa Diên Hựu (Chùa Một cột); Năm 1042 vua cho ban hành Bộ Luật Hình thư là bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta.  

Trong thời gian ở ngôi, ông có 6 lần đặt niên hiệu, đó là: Thiên Thành (1028-1034), Thông Thụy (1034-1039), Càn Phù Hữu Đạo (1039-1042), Minh Đạo (1042-1044), Thiên Cảm Thánh Vũ (1044-1049), Sùng Hưng Đại Bảo (1049-1054). 

3. LÝ THÁNH TÔNG (1054-1072) 

Tên húy là Nhật Tôn. Các bộ chính sử đều chép vua là con trưởng của vua Lý Thái Tông, mẹ người họ Mai, tước Kim Thiên Thái hậu (duy chỉ có Đại Việt sử lược thì chép vua là con thứ ba, mẹ là Linh Cảm Thái hậu). Vua sinh ngày 25 tháng 2 năm Quý Hợi (1023) tại kinh thành Thăng Long. Ngày 6 tháng 5 năm Mậu Thìn (1028) ông được lập thành Thái tử và lên ngôi ngày 1 tháng 10 năm Giáp Ngọ (1054), ông ở ngôi 18 năm, mất tháng 1 năm Nhâm Tí (1072), thọ 49 tuổi. 

Vua được xem là ông vua thương dân, gắn bó với nông dân, đồng ruộng, ông thường đi xem cấy, gặt hái. Năm 1070 vua cho mở trường lập Văn Miếu tại kinh đô Thăng Long. 

Trong 18 năm ở ngôi, vua Lý Thánh Tông đã 5 lần đặt niên hiệu, đó là: Long Thụy Thái Bình (1054-1058), Chương Thánh Gia Khánh (1059-1065), Long Chương Thiên Tự (1066-1068), Thiên Huống Bảo Tượng (1068-1069), Thần Vũ (1069-1072).  

4. LÝ NHÂN TÔNG (1072-1127) 

Tên húy là Càn Đức, con trưởng của Vua Lý Thánh Tông, mẹ đẻ là Linh Nhân Thái hậu (tức bà Ỷ Lan). Vua sinh ngày 25 tháng 1 năm Bính Ngọ (1066) tại kinh thành Thăng Long, lên ngôi tháng 1 năm Nhâm Tí (1072), ở ngôi 55 năm, mất ngày 12 tháng 12 năm Đinh Mùi (1127), thọ 61 tuổi. 

Trong thời gian vua Lý Nhân Tông ở ngôi, nhà Tống có ý đồ xâm lược nước ta, vua và Thái úy Lý Thường Kiệt đã chủ động đánh đuổi quân Tống, và đã chiến thắng ở sông Như Nguyệt, đánh đuổi được quân Tống. 

Năm 1076 vua cho mở trường Quốc Tử Giám ở kinh đô Thăng Long, cũng từ đây, nền giáo dục đại học của nước ta được khai sinh.  

Trong 55 năm ở ngôi vua đã 8 lần đặt niên hiệu, đó là: Thái Ninh (1072-1076), Anh Vũ Chiêu Thắng  (1076-1084), Quảng Hựu (1085-1092), Hội Phong (1092-1100), Long Phù (Long Phù Nguyên Hóa) (1101-1109), Hội Tường Đại Khánh (1110 – 1119), Thiên Phù Duệ Vũ (1120-1126), Thiên Phù Khánh Thọ (1127). 

5. LÝ THẦN TÔNG (1127-1138)

Tên húy là Dương Hoán, con trưởng của em ruột vua Nhân Tông là Sùng Hiền Hầu, được Vua Trần Nhân Tông nhận làm con nuôi rồi sau truyền ngôi cho, mẹ đẻ là phu nhân họ Đỗ. Thần Tông là cháu ruột của Vua Nhân Tông. Vua sinh tháng 6 năm Bính Thân (1116), Năm Đinh Dậu (1117) thì được Nhân Tông nhận làm con nuôi. Khi vua Nhân Tông mất, ông được lên nối ngôi vào cuối tháng 12 năm Đinh Mùi (1127). Vua ở ngôi 10 năm, mất ngày 26 tháng 9 năm Mậu Ngọ (1138), thọ 22 tuổi.

Vua Lý Thần Tông coi trọng việc phát triển nông nghiệp, thực hiện chính sách “ngụ binh ư nông”, cho binh lính đổi phiên, cứ lần lượt 6 tháng một được về làm ruộng, do vậy nhân dân no đủ, an cư lạc nghiệp. Trong thời gian ở ngôi, vua Lý Thần Tông đã đặt hai niên hiệu: Thiên Thuận (1128-1132), Thiên Chương Bảo Tự (1133-1138). 

6. LÝ ANH TÔNG (1138-1175) 

Tên Húy là Thiên Tộ, con trưởng của Lý Thần Tông, mẹ đẻ là Lê thái hậu. Vua sinh tháng 4 năm Bính Thìn (1136) và lên ngôi ngày 1 tháng 10 năm Mậu Ngọ (1138), ở ngôi 37 năm, mất vào tháng 7 năm Ất Mùi (1175), thọ 39 tuổi. 

Trong 37 năm ở ngôi, ông đã đặt 4 niên hiệu: Thiệu Minh (1138-1140), Đại Định (1140-1162), Chính Long Bảo Ứng (1163-1174), Thiên Cảm Chí Bảo (1174-1175). 

7. LÝ CAO TÔNG (1175-1210)

Tên húy là Long Trát hay Long cán, là con thứ 6 của Vua Anh Tông, mẹ đẻ là Thụy Châu Thái hậu, người họ Đỗ. Vua sinh ngày 25 tháng 5 năm Quý Tị (1173), lên ngôi tháng 7 năm Ất Mùi (1175), ở ngôi 35 năm, mất ngày 28 tháng 10 năm Canh Ngọ (1210), thọ 37 tuổi. 

Trong thời gian ở ngôi, vua ăn chơi vô độ do vậy giặc cướp nổi lên nhiều nơi, dân đói kém liên miên, cơ nghiệp nhà Lý suy đồi từ đây dù đã có dấu hiệu từ thời vua Lý Anh Tông. 

Vua Lý Cao Tông có 4 lần đặt niên hiệu: Trinh Phù (1176-1186), Thiên Tư Gia Thụy (1186-1202), Thiên Gia Bảo Hựu (1202-1205), Trị Bình Long Ứng (1205-1210).  

8. LÝ HUỆ TÔNG (1210-1224) 

Tên húy là Hạo Sảm, con trưởng của Vua Cao Tông, mẹ đẻ là Đàm Thái Hậu. Vua sinh tháng 7 năm Giáp Dần (1194), được lập làm Thái tử vào tháng 1 năm Mậu Thìn (1208), lên ngôi cuối năm Canh Ngọ (1210), ở ngôi 14 năm. Năm Giáp Thân (1224), vua nhường ngôi cho con gái thứ là Lý Chiêu Hoàng rồi đi tu ở chùa Chân Giáo (trong thành Thăng Long, hiệu là Huệ Quang Thiền Sư). Mặc dù ông ở ngôi vua, nhưng mọi việc trong triều chính đều do Trần Thủ Độ điều hành.  Huệ Tông sau bị nhà Trần bức tử vào tháng 8 năm Bính Tuất (1226), thọ 32 tuổi. Trong 14 năm trị vì, vua chỉ đặt một niên hiệu là Kiến Gia (1211-1224). 

9. LÝ CHIÊU HOÀNG (1224-1225) 

Tên húy là Phật Kim, lại có tên húy khác là Lý Thiên Hinh Nữ, được vua cha là Lý Huệ Tông phong làm Chiêu Thánh công chúa, là con thứ hai của vua Trần Huệ Tông, mẹ đẻ là Thuận Trinh thái hậu Trần Thị Dung. Bà sinh tháng 9 năm Mậu Dần (1218). Tháng 10 năm Giáp Thân (1224) được vua cha truyền ngôi. Đến tháng 12 năm Ất Dậu (1225) dưới sự đạo diễn của Trần Thủ độ, Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh (là cháu gọi Trần Thủ Độ bằng chú, sau này là vua Trần Thánh Tông), từ đây bà là Chiêu Thánh hoàng hậu. Nhà Lý chấm dứt từ đó. Lý Chiêu Hoàng mất vào tháng 3 năm Mậu Dần (1278), thọ 60 tuổi. Niên hiệu trong thời gian bà ở ngôi là Thiên Chương Hữu Đạo.

Khách vãng lai đã xóa
Vũ Thị Minh Anh
18 tháng 7 2021 lúc 22:16

1. TRẦN THÁI TÔNG (1225-1258) 

Tên thật là Trần Cảnh, nguyên quán Làng Tức Mặc, Phủ Thiên Trường, nay là xã Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Trần cảnh sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần (1218), con thứ của ông Trần Thừa, thân mẫu người họ Lê. Ngày 11 tháng 12 năm Ất Dậu (1225), Trần Cảnh chính thức lên ngôi hoàng đế, đổi niên hiệu là Kiến Trung, phong Lý Chiêu Hoàng làm Chiêu Thánh Hoàng hậu, phong Trần Thủ Độ là Thái sư thống quốc hành quân vụ chinh thảo sự. 

Trong thời gian ở ngôi, vua đã đích thân dẫn quân đánh thắng quân Mông – Nguyên lần thứ nhất khi chúng sang xâm lược nước ta. 

Ngày 24 tháng 2 năm Mậu Ngọ (1258), vua Trần Thái Tông nhường ngôi cho Thái tử Trần Hoảng, triều đình tôn Thái Tông lên làm Thái Thượng Hoàng để cùng coi việc nước. Ngày mùng một tháng 4 năm Đinh Sửu (1277), Thái Thượng hoàng mất, thọ 59 tuổi, ở ngôi được 33 năm, làm Thái thượng hoàng 19 năm. Trong thời gian ở ngôi, vua đã đặt ba niên hiệu Kiến Trung (1225-1232), Thiên Ứng Chính Bình (1232-1251), Nguyên Phong (1251-1258). 

2. TRẦN THÁNH TÔNG (1258-1278)  

Tên thật là Trần Hoảng, là con trưởng của vua Thái Tông, mẹ là Hiển Từ Thuận Thiên hoàng thái hậu Lý Thị. Vua sinh ngày 25 tháng 9 năm Canh tý (1240), ngay sau khi sinh đã được lập làm thái tử. Ngày 24 tháng 2 năm Mậu Ngọ (1258) được vua Trần Thái Tông truyền ngôi. Vua lên ngôi hoàng đế đổi niên hiệu là Thiệu Long năm thứ 1. Ngày 22 tháng 10 năm Mậu Dần, vua nhường ngôi cho con là Thái tử Khâm để lên làm Thượng hoàng 12 năm.    

Trần Thánh Tông là một vị vua nhân từ độ lượng, hết lòng chăm lo việc nước. Về đối nội, nhà vua khuyến khích khai khẩn đất hoang, mở mang điền trang thái ấp bằng cách chiêu tập những người nghèo đói lưu lạc, giúp họ an cư lạc nghiệp. Nhà vua khuyến khích việc học hành bằng cách mở các khoa thi để lựa chọn người tài mà trọng dụng, thời Trần đã xuất hiện “Lưỡng quốc trạng nguyên” Mạc Đĩnh Chi, nhà sử học Lê Văn Hưu đã viết bộ quốc sử đầu tiên của nước ta là Đại Việt Sử Ký. Về đối ngoại, Vua Trần Thánh Tông đã thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo nhưng rất kiên quyết, nhằm bảo vệ danh dự và nền độc lập của tổ quốc. Mặt khác, quan tâm đến việc luyện tập quân sĩ, tích trữ lương thực, vũ khí chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên lần thứ hai. Ngày 25 tháng 5 năm Canh Dần – 1290 Thái thượng hoàng mất ở cung Nhâm Thọ, hưởng thọ 51 tuổi. Trong thời gian 20 năm ở ngôi, vua đã đặt 2 niên hiệu: Thiệu Long (1258-1272), Bảo Phù (1273-1278). 

3. TRẦN NHÂN TÔNG (1279-1293) 

Vua tên thật là Trần Khâm, sinh ngày 11 tháng 11 năm Mậu Ngọ (1258) tại kinh thành Thăng Long, là con trai trưởng của vua Trần Thánh Tông, thân mẫu nguyên là Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng Thái hậu. Trần Khâm được lập làm Thái tử tháng 12 năm Giáp Tuất. Ngày 22 tháng 10 năm Mậu Dần (1278), thái tử Khâm kế vị ngôi vua lấy hiệu là Nhân Tông. 

Trần Nhân Tông là vị vua anh minh, quyết đoán, được sử ca ngợi là vị anh hùng cứu nước qua cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên. Ông là người cùng với Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông tổ chức Hội nghị Bình Than, Hội Nghị Diên Hồng, bàn kế đánh quân Mông – Nguyên.

Sau 15 năm làm vua, năm 1293, Trần Nhân Tông truyền ngôi cho con là Trần Anh Tông và  lui về làm Thái Thượng Hoàng 6 năm, cho đến năm 1299 thì đi tu, trở thành thủy tổ phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử.  Trần Nhân Tông qua đời ngày 3 tháng 11 năm Mậu Thân (1308) tại am Ngọa Vân núi Yên Tử, thọ 50 tuổi. Trong thời gian ở ngôi, vua đã đặt hai niên hiệu: Thiệu Bảo (1279-1285), Trùng Hưng (1285-1293). 

4. TRẦN ANH TÔNG (1293-1314) 

Vua tên thật là Trần Thuyên, sinh ngày 17 tháng 9 năm Bính Tí (1276) tại Thăng Long, là con trưởng của vua Trần Nhân Tông và mẹ là Khâm Từ Bảo Khánh Hoàng Thái hậu, có hai em là Huệ Võ Vương Quốc Chuẩn và em gái là Huyền Trân Công chúa. Trần Thuyên được phong làm Thái tử vào tháng 2 năm Nhâm Thìn (1292), lên ngôi vào tháng 3 năm Quý Tị (1293). Ngày 18 tháng 3 năm Giáp Dần (1314) nhường ngôi cho thái tử Mạnh để làm Thái thượng hoàng 6 năm. Vua mất ngày 16 tháng 3 năm Canh Thân (1320), ở ngôi được 21 năm, thọ 44 tuổi. 

Vua Trần Anh Tông khéo biết kế thừa sự nghiệp của tổ tiên, cho nên thời cuộc đi đến thái bình, chính trị trở nên tốt đẹp, đất nước ngày càng thịnh vượng, cũng là một vua tốt của triều Trần. Trong 21 năm ở ngôi, vua chỉ đặt một niên hiệu duy nhất là Hưng Long. 

5. TRẦN MINH TÔNG (1314-1329) 

Tên thật là Trần Mạnh, con thứ tư của vua Trần Anh Tông, mẹ là Chiêu Hiến Hoàng Thái hậu Trần Thị (con gái của Bảo Nghĩa đại vương Trần Bình Trọng). Trần Mạnh sinh năm Canh Tý (1300), được lập làm Thái tử năm Ất Tị (1305). Ngày 18 tháng 3 năm Giáp Dần (1314) lên ngôi vua, năm Ất Tị (1329) nhường ngôi cho Thái tử Vượng để làm Thượng hoàng 28 năm, mất ngày 19 tháng 2 năm Đinh Dậu (1357), thọ 57 tuổi. 

Vua Trần Minh Tông có lòng nhân hậu, biết tôn trọng nhân tài nên có nhiều hiền thần dưới trướng như Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu, Chu Văn An, Nguyễn Trung Ngạn, Đoàn Nhữ Hài, nhưng đã quá tin bọn nịnh thần giết oan chú ruột, đồng thời là bố vợ là Huệ Võ Vương Trần Quốc Chẩn. 

Trong 15 năm ở ngôi, vua Trần Minh Tông đã đặt 2 niên hiệu: Đại Khánh (1314-1323), Khai Thái (1324-1329). 

6. TRẦN HIẾN TÔNG (1329-1341)  

Tên thật là Trần Vượng, con thứ của Trần Minh Tông, thân mẫu là bà Minh Từ hoàng thái phi Lê Thị. Trần Vượng sinh ngày 17 tháng 5 năm Kỷ Mùi (1319), được lập làm Thái tử ngày 7 tháng 2 năm Kỷ Tỵ (1329). Ngày 15 tháng 2 năm Kỷ Tị (1329) lên ngôi vua khi mới 10 tuổi, ở ngôi 12 năm, mất ngày 11 tháng 6 năm Tân Tị (1341), thọ 22 tuổi. Tuy Trần Hiến Tông làm vua nhưng việc điều khiển triều chính đều do Thái Thượng Hoàng Minh Tông đảm nhận. 

Trong 12 năm ở ngôi, Trần Hiến Tông chỉ đặt một niên hiệu là Khai Hựu (1329-1341). 

7. TRẦN DỤ TÔNG (1341 – 1369) 

Tên thật là Trần Hạo, con thứ 10 của vua Trần Minh Tông, thân mẫu là Hiến Từ hoàng hậu. Trần Hạo sinh ngày 19 tháng 10 năm Bính Tý (1336), lên ngôi ngày 21 tháng 8 năm Tân Tỵ (1341). Khi Thái thượng hoàng Trần Minh Tông mất, các trung thần như Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn cũng mất, Chu Văn An treo ấn từ quan, vua thì rượu chè ăn chơi quá độ, nên giặc giã nổi lên khắp nơi, dân khổ trăm bề. 

Năm Kỷ Dậu (1369) vua Trần Dụ Tông mất, ở ngôi được 28 năm, thọ 34 tuổi. Trong thời gian ở ngôi, vua đã đặt hai niên hiệu Thiệu Phong (1341-1357), Đại Trị (1358-1369). 

Khi vua Trần Dụ Tông mất thì bão táp ở cung đình nhà Trần nổi lên vì Hoàng thái hậu nhất định đòi lập người con nuôi của Cung Túc Vương là Dương Nhật Lễ lên ngôi. Mẹ Nhật Lễ là một đào hát đã lấy kép hát là Dương Khương có thai rồi mới bỏ chồng mà lấy Cung Túc Vương sinh ra Nhật Lễ. Nhật Lễ lên làm vua muốn cải họ Dương để dứt ngôi nhà Trần, nên cho giết bà Hoàng thái hậu và nhiều quý tộc họ Trần. Các tôn thất nhà Trần hội nhau khởi binh giết chết Nhật Lễ (ngày 21 tháng 11 năm Canh Tuất – 1370) rồi lên Đà Giang rước Cung Tĩnh Vương về làm vua, tức là Trần Nghệ Tông. Trong thời gian soán ngôi, Dương Nhật Lễ có đặt một niên hiệu là Đại Định (1369-1370). 

8. TRẦN NGHỆ TÔNG (1370-1372). 

Vua tên thật là Trần Phủ, con thứ ba của Vua Trần Minh Tông, mẹ đẻ họ Lê là Minh Từ hoàng thái phi. Trần Phủ sinh vào tháng 2 năm Tân Dậu (1321), lên ngôi ngày 15 tháng 11 năm Canh Tuất (1370), ở ngôi được 2 năm, nhường ngôi làm Thái thượng hoàng 22 năm, mất ngày 15 tháng 12 năm Giáp Tuất (1394), thọ 73 tuổi. 

Vua dẹp yên được loạn bên trong, khôi phục cơ đồ nhà Trần, nhưng thiếu cương nghị, quyết đoán. Bên ngoài, vua Chiêm thành là Chế Bồng Nga đem quân đánh kinh đô Thăng Long, vua Nghệ Tông phải bỏ kinh thành chạy sang Đình Bảng lánh nạn. Ngày 9 tháng 11 năm Nhâm Tý (1372), Nghệ Tông nhường ngôi cho em là Trần Kính, lui về Thiên Trường làm Thái thượng hoàng. Trong thời gian 2 năm ở ngôi, vua đặt một niên hiệu là Thiệu Khánh. 

9. TRẦN DUỆ TÔNG (1372-1377) 

Tên thật là Trần Kính, con thứ 11 của Vua Trần Minh Tông, em vua Nghệ Tông, mẹ là Đôn Từ hoàng thái phi. Trần Kính sinh ngày 2 tháng 6 năm Đinh Sửu (1337). Khi Nghệ Tông lánh nạn, Trần Kính chiêu mộ quân lính, vũ khí, lương thực để đánh Nhật Lễ, đón Nghệ Tông về. Nghệ Tông lên ngôi 2 năm thì nhường ngôi cho Trần Kính tức Trần Duệ Tông vào ngày 9 tháng 11 năm Nhâm Tí (1972). 

Trong một trận đánh với Chiêm Thành, vua Trần Duệ Tông không nghe lời can, khinh thường quân giặc nên tử trận ngày 24 tháng 1 năm Đinh Tị (1377). Nghệ Tông làm vua được 5 năm, thọ 40 tuổi. Trong thời gian ở ngôi, vua Trần Duệ Tông chỉ đặt một niên hiệu là Long Khánh.

10. TRẦN PHẾ ĐẾ (1377-1388) 

Tên thật là Trần Hiện, con trưởng của vua Trần Duệ Tông, mẹ là bà Gia Từ hoàng hậu Lê Thị. Vua sinh ngày 6 tháng 3 năm Tân Sửu (1361). Khi vua Trần Duệ Tông chết ở mặt trận phương Nam, Thượng hoàng Nghệ Tông lập Trần Hiện lên ngôi vua ngày 13 tháng 5 năm Đinh Tỵ (1377). Vua nhu nhược nên quyền lực ngày càng rơi vào tay Hồ Quý Ly. Thượng hoàng Nghệ Tông giáng Phế Đế xuống làm Linh Đức Đại Vương, sau đó bức tử vào ngày 6 tháng 12 năm Mậu Thìn (1388) thọ 27 tuổi. Trong thời gian 11 năm ở ngôi, vua chỉ đặt một niên hiệu là Xương Phù. 

11. TRẦN THUẬN TÔNG (1388-1398)

Tên thật là Trần Ngung, con út của vua Trần Nghệ Tông, thân mẫu là Lê Thái hậu. Vua sinh năm Mậu Ngọ (1378), lên ngôi năm Mậu Thìn, ở ngôi được 10 năm, đến tháng 3 năm 1398 bị Hồ Quý Ly ép nhường ngôi cho con trai là Trần Án (Trần Án là cháu ngoại Hồ Quý Ly) để đi tu ở cung Bảo Thanh tại núi Đại Lại (Thanh Hóa). Xuất gia hơn 1 năm thì bị Hồ Quý Ly bức tử chết vào tháng 4 năm Kỷ Mão (1399), thọ 21 tuổi, Vua thật ra chỉ giữ ngôi trên hình thức, mọi quyền lực điều hành đã vào tay bố vợ là Hồ Quý Ly. Trong thời gian ở ngôi, vua Trần Thuận Tông đặt niên hiệu duy nhất là Quang Thái.

12. TRẦN THIẾU ĐẾ (1398-1400) 

Tên thật là Trần Án, con trưởng của Trần Thuận Tông, thân mẫu là con gái của Hồ Quý Ly, tước hiệu Khâm Thánh hoàng thái hậu. Vua sinh năm Bính Tý (1396), lên ngôi ngày 15 tháng 3 năm Mậu Dần (1398). Ngày 28 tháng 2 năm Canh Thìn (1400) bị Hồ Quý Ly buộc nhường ngôi, giáng làm Bảo Ninh Đại Vương. Vua vốn là cháu ngoại của Hồ Quý Ly nên không bị giết, nhưng không rõ mất vào năm nào. Trong thời gian ở ngôi, vua có niên hiệu là Kiến Tân.

Khách vãng lai đã xóa
Nguyễn Thanh Hằng
Xem chi tiết
Phạm Thị Diệu Hằng
10 tháng 6 2018 lúc 3:56
Ngô thừa ân
Xem chi tiết
Trúc Linh Nguyễn
3 tháng 12 2016 lúc 9:58

Nhiều lắm: Từ đời Hùng Vương, An Dương Vương, Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Lí Bí,........đến đời nhà Nguyễn rồi nước ta chuyển sang cộng hòa dân chủ.

Võ Văn Minh
11 tháng 5 2017 lúc 11:57

Vua Việt Nam là nhà cai trị nước Việt Nam độc lập tự chủ từ thời dựng nước đến Cách mạng tháng Tám năm 1945. Tùy hoàn cảnh lịch sử mà có thể mang tước hiệu và chức vụ khác nhau, ở trong nước tước hiệu tự xưng cao nhất là hoàng đế và thấp hơn là vương. Về chức vụ, trong quan hệ ngoại giao với Trung Quốc thì có khi được thụ phong Quốc vương hoặc Quận vương, có khi chỉ là Tiết độ sứ hay Đô thống sứ.

Trong huyền sử, khái niệm vua Việt Nam đã thấy ghi chép từ Hồng Bàng thị nhưng còn nhiều điểm nghi vấn mơ hồ chưa thể khẳng định rõ rệt, sau đó nhà Thục cướp ngôi họ Hùng và họ Triệu lấy nước của nhà Thục. Thế nhưng Hồng Bàng thị là dòng dõi Thần Nông thị,[1] Thục Phán là hậu duệ Khai Minh thị[1] còn Triệu Đà cũng là người Hán [2]...như vậy những triều đại sơ khai đều có sự nghi vấn gây tranh cãi. Trong ngàn năm Bắc thuộc, từng trỗi dậy những chính quyền nhưng thời gian tồn tại chưa được bao lâu đã bị dẹp yên, sự nghiệp chưa ổn định lâu dài nên chưa thể cấu thành triều đại. Từ khi họ Khúc giành lấy quyền tự chủ cho đến hết loạn 12 sứ quân, danh nghĩa Việt Nam vẫn chỉ là một phiên chấn của Trung Quốc với cái tên Tĩnh hải quân, các nhà lãnh đạo Việt Nam thời tự chủ chỉ ở mức Tiết độ sứ cả trong nước và ngoại giao, đến lúc Ngô Quyền đánh đuổi quân Nam Hán mới tự xưng vương. Bắt đầu từ đấy, vua Việt Nam mới chính thức được xác định, tuy nhiên nhà Ngô vẫn chưa đặt quốc hiệu. Bấy giờ bên Trung Quốc cũng đang loạn to, chính quyền trung ương còn mải lo đánh dẹp nên chưa thể nhòm ngó xuống mạn cực nam, chỉ có nước Nam Hán kế cận thỉnh thoảng xung đột mà thôi. Đến thời nhà Đinh, đối với thần dân trong nước, các vua người Việt đã xưng hoàng đế và đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, gặp lúc nhà Tống cũng mới chấm dứt cục diện Ngũ đại thập quốc nên sai sứ sang sắc phong vua Đinh làm Giao Chỉ quận vương, từ đó nền quân chủ Việt Nam mới được xác lập.

Sau các cuộc tấn công thất bại của nhà Tống, người Hoa đã phải công nhận quyền lực của người Việt ở Thăng Long. Nước Việt được xem như một dạng chư hầu đặc biệt mà Trung Quốc không thể sát nhập bằng vũ lực nhưng, ngược lại, người Việt cũng phải công nhận Trung Quốc là một nước lớn, về phương diện ngoại giao phải chịu lép nhường thần quyền con trời, mạng trời cao hơn cho vua Trung Quốc, tuy vua Việt vẫn có quyền xưng là con trời và vâng mạng trời cai trị dân đối với dân nước Việt. Vua Việt Nam tự ví mình với Mặt Trời như vua Trung Quốc. Từ đây mô hình chính trị Trung Hoa đã được Việt hóa và phát triển để khẳng định ngai vua ở Thăng Long là ngai vàng của Hoàng đế nước Nam người trị vì "Đế quốc phương Nam" theo mệnh trời. Hệ thống triều đình của các vua nước Việt cũng tương tự các triều đình của vua chúa Trung Quốc, các nghi thức và danh phận của các vị quan cũng tương tự như quan lại Trung Quốc.

Các vị vua nước Việt đã sử dụng rất nhiều nghi thức, biểu tượng chỉ dành riêng cho vua Trung Quốc như áo long bào màu vàng có rồng 5 móng, giường long sàng, ngôi cửu ngũ, khi chết thì dùng từ "băng hà" và xây lăng có đường hầm dẫn xuống huyệt. Các vua nước Việt được chính thức dùng các nghi thức đặc biệt nhạy cảm với vua Trung Quốc như thờ trời, tế trời ở đàn Nam Giao, được quyền cai quản các thần linh ở nước Việt, được quyền phong chức tước cho các thánh, thần, sông núi ở nước Việt, có lẽ chỉ ngoại trừ vua Đồng Khánh là vị vua Việt Nam duy nhất chịu làm em của một nữ thần mà thôi...; có vua Việt Nam còn mượn cớ đau chân để khỏi quỳ gối trước chiếu chỉ vua Trung Quốc để chứng tỏ mình không phải là cấp dưới của vua Trung Quốc. Tóm lại, các vị vua của Việt Nam là các vị vua thực sự như các vua Trung Quốc.

Các vua Việt Nam đã dùng gần như đầy đủ các nghi thức thần quyền quân chủ dành riêng cho vua chúa Trung Quốc, chỉ có cái khác duy nhất là quyền lực thần quyền này không được phép áp đặt lên dân Trung Quốc, ngược lại, quyền lực thần quyền của vua chúa Trung Quốc cũng không áp đặt được lên vua quan và dân nước Việt, các quan của triều đình Việt Nam thì chỉ tuân lệnh và trung thành với vua Việt Nam mà thôi.

Thiên mệnh của vua Trung Quốc chỉ kéo dài đến biên giới Việt-Hoa. Theo ý thức thần quyền của hai chế độ quân chủ thì biên giới này do Trời vạch sẵn và được Trời cũng như các thần bảo vệ. Cả hai nước đều ý thức được tầm quan trọng của đường biên giới này trong việc duy trì quyền lực giữa hai nước và đã giữ được sự cố định truyền thống của nó trong một thời gian rất dài trong lịch sử. Quan hệ triều cống với Trung Quốc được coi là lựa chọn thay thế duy nhất cho đối đầu, chiến tranh hoặc cấm vận kinh tế với giá rẻ nhất.

Vì vậy Việt Nam trên danh nghĩa vẫn là một nước chư hầu của Trung Quốc, hầu hết các vị vua Việt Nam lên ngôi đều phải chịu sắc phong của Trung Quốc; hoặc phải để vua Trung Quốc hợp thức hóa vương vị và thần quyền của mình như vua Quang Trung. Vào lúc loạn lạc thay đổi triều đại ở Việt Nam là cơ hội tốt để các triều đại quân chủ và phong kiến phương bắc mượn cớ giúp vua triều trước, không chịu sắc phong cho vua mới hoặc đem quân qua can thiệp nhằm chiếm đóng và đô hộ lâu dài nước Việt như thời nhà Minh, nhà Thanh. Một số vua khác chỉ trị vì trên danh nghĩa, quyền lực thực sự lại nằm trong các vị chúa hoặc các đại thần và phe cánh. Hầu hết các vị vua đều được biết bằng Miếu hiệu hoặc Thụy hiệu và Tôn hiệu vắn tắt, những trường hợp vị quân chủ chỉ đặt một niên hiệu trong thời gian tại vị thì sẽ được biết đến bằng Niên hiệu.

Đối với Trung Quốc thì vua Việt Nam có tước hiệu là:

Tĩnh Hải Quân Tiết Độ Sứ: thời họ Khúc và nhà Ngô Giao Chỉ Quận Vương: thời nhà Đinh, nhà Tiền Lê và gian đoạn đầu nhà Hậu Lý An Nam Quốc Vương: thời nhà Hậu Lý, nhà Trần, nhà Hậu Lê và nhà Tây Sơn An Nam Đô Thống Sứ Ty: thời nhà Mạc và giai đoạn đầu nhà Lê trung hưng Việt Nam Quốc Vương: thời nhà Nguyễn

Sau đây là danh sách các vị vua Việt Nam từ khi hình thành nhà nước đến hết thời kỳ quân chủ. Trong danh sách này, ngoài những vị vua còn liệt kê một số nhân vật không phải vua nhưng đã nắm giữ thực quyền cai trị tối cao lãnh đạo đất nước như: các vị Tiết độ sứ thời tự chủ, các chúa Trịnh và chúa Nguyễn thời Lê trung hưng...Những vị vua tự xưng chế độ chưa thực sự ổn định, nhưng do chống ngoại xâm nên cũng bỏ qua sự trung lập mà đưa vào để tôn vinh sự chính thống và độc lập dân tộc:

Thời kỳ sơ sử[sửa | sửa mã nguồn] Hồng Bàng[sửa | sửa mã nguồn]

Kỷ Hồng Bàng hiện vẫn còn gây tranh cãi về tính chính xác và thời điểm xuất hiện. Do đó giai đoạn này được xem có tính truyền thuyết nhiều hơn.

Chân dungVua[3]Miếu hiệu[1]Thụy hiệu[3]Niên hiệu[1]Tên húyThế thứ[1]Trị vì

Kinh Dương Vương không có Kinh Dương Vương[4] không có Lộc Tục[3] khai sáng triều đại, con thứ Đế Minh, em Đế Nghi 2879 TCN[1][5] ?
Lạc Long Quân & Âu Cơ - Tết 2009.jpg Lạc Long Quân không có Lạc Long Quân[6] không có Sùng Lãm[3] con Kinh Dương Vương ? ?
Hùng Vương (I) không có Hùng Vương[7] không có không rõ con trưởng Lạc Long Quân TK VII TCN[8][9][10] ?
Hùng Vương (II) không có Hùng Vương[7] không có không rõ ? ?
Hùng Vương (III) không có Hùng Vương[7] không có không rõ ? ?
Hùng Vương (IV) không có Hùng Vương[7] không có không rõ ? ?
Hùng Vương (V) không có Hùng Vương[7] không có không rõ ? ?
Mausoleum of Hung King.JPG Hùng Vương (VI) không có Hùng Vương[7] không có không rõ ? ?
Hùng Vương (VII) không có Hùng Vương[7] không có Lang Liêu[11] ? ?
Hùng Vương (VIII) không có Hùng Vương[7] không có không rõ ? ?
Hùng Vương (IX) không có Hùng Vương[7] không có không rõ ? ?
Hùng Vương (X) không có Hùng Vương[7] không có không rõ ? ?
Hùng Vương (XI) không có Hùng Vương[7] không có không rõ ? ?
Hùng Vương (XII) không có Hùng Vương[7] không có không rõ ? ?
Hùng Vương (XIII) không có Hùng Vương[7] không có không rõ ? ?
Hùng Vương (XIV) không có Hùng Vương[7] không có không rõ ? ?
Hùng Vương (XV) không có Hùng Vương[7] không có không rõ ? ?
Hùng Vương (XVI) không có Hùng Vương[7] không có không rõ ? ?
Hùng Vương (XVII) không có Hùng Vương[7] không có không rõ ? ?
Hùng Vương (XVIII) không có Hùng Vương[7] không có không rõ ? 258TCN[3]hoặc 208TCN
Nhà Thục (257-208 TCN, hoặc 207-179 TCN)[sửa | sửa mã nguồn]

Chân dungVua[3]Miếu hiệu[3]Thụy hiệu[3]Niên hiệu[3]Tên húy[3]Trị vì

AnDuongVuong.jpg An Dương Vương không có An Dương Vương[12] không có Thục Phán 257TCN—208TCN[3]
hoặc 207TCN—179TCN[13]
Nhà Triệu (207-111 TCN)[sửa | sửa mã nguồn]

Chân dungVua[3]Miếu hiệu[2]Thụy hiệu[3]Niên hiệu[2]Tên húyThế thứ[13]Trị vì[3]

Zhao Tuo(Heyuan).JPG Triệu Vũ Đế[2] không có Vũ Vương
Vũ Đế[14]
không có Triệu Đà[3] Khai sáng triều đại 207TCN 137TCN
Si lü yu yi.JPG Triệu Văn Đế[2] không có Văn Vương
Văn Đế[15]
không có Triệu Hồ[13]
Triệu Mạt[16]
Triệu Muội[3]
cháu nội Triệu Đà, con Triệu Trọng Thuỷ 137TCN 125TCN
Triệu Minh Vương[2] không có Minh Vương không có Triệu Anh Tề[3] con Triệu Hồ 125TCN 113TCN
Triệu Ai Vương[2] không có Ai Vương không có Triệu Hưng[3] con thứ Triệu Anh Tề 113TCN 112TCN
Thuật Dương Vương[2] không có Thuật Dương Vương
Vệ dương vương
Vệ dương hầu[17]
không có Triệu Kiến Đức[3] con trưởng Triệu Anh Tề, anh Triệu Hưng 112TCN 111TCN

Nhà Triệu nếu trung lập thì là một triều đại chính thống của Việt Nam, còn nếu bỏ qua sự trung lập thì sẽ bị quy thành kẻ xâm lăng. Hiện trường hợp này vẫn còn đang tranh cãi, có sách tính từ khi Triệu Đà diệt nước Âu Lạc bắt đầu thời Bắc thuộc, có sách lại tính từ khi nhà Hán diệt nước Nam Việt mới tính là Bắc thuộc. Vì người Trung Quốc cũng không coi chính thể này là triều đại của họ, cho nên tạm thời vẫn liệt kê ở đây như một triều đại nối tiếp hợp pháp của Việt Nam.

Chống Bắc thuộc lần I, II và III[sửa | sửa mã nguồn] Trưng Nữ Vương (40-43)[sửa | sửa mã nguồn]

Chân dungVuaThụy hiệu[18]Tôn hiệuNiên hiệu[18]Tên húyTrị vì[18]

HaiBaTrung.JPG Trưng Vương[19] không có Trinh Linh Chi Phu Nhân[20] không có Trưng Trắc[18] 40 43

Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng ngắn ngủi chưa kịp ổn định đã bị diệt vong, tuy nhiên vì do phụ nữ lãnh đạo hơn nữa lại chống ngoại xâm nên cũng được sử sách đưa vào thành một triều đại của Việt Nam.

Nhà Tiền Lý và Triệu Việt Vương (544-603)[sửa | sửa mã nguồn]

Chân dungVua[21]Miếu hiệu[21]Thụy hiệuNiên hiệuTên húy[21]Thế thứTrị vì

Emperor Ly Nam De.jpg Lý Nam Đế không có Nam Đế
Nam Việt đế[22]
Thiên Đức (544-548)[21] Lý Bí
Lý Bôn
nổi dậy tự lập, khai sáng triều đại 544[21] 548[21]
Cuathanphu2.jpg Triệu Việt Vương không có Nam Việt quốc vương
Dạ Trạch Vương[23]
không có[21] Triệu Quang Phục con Thái phó Triệu Túc, được Lý Nam Đế giao toàn bộ quyền hành 548 571[21]
Hậu Lý Nam Đế[24] không có Nam Đế[25] không có[21] Lý Phật Tử người trong họ Lý Nam Đế 571[26] 602[21]
Lý Sư Lợi[27] không có không có không có Lý Sư Lợi con Hậu Lý Nam Đế 602 603
Họ Mai (713 - 723)[sửa | sửa mã nguồn]

Chân dungVuaMiếu hiệu[28]Thụy hiệuNiên hiệu[28]Tên húyThế thứTrị vì

Mai Hắc Đế[29] không có Đại Đế
Hắc Đế[30]
không có Mai Thúc Loan[29]
Mai Lập Thành[31]
Mai Thúc Yên[32]
nổi dậy tự lập[29] chưa rõ[33] 722[29]
Mai Thiếu Đế[34] không có không có không có Mai Thúc Huy
Mai Bảo Sơn
con trưởng Mai Hắc Đế 722 723
Bạch Đầu Đế[34] không có không có không có Mai Kỳ Sơn[35] con thứ Mai Hắc Đế, em song sinh với Mai Thiếu Đế 723 723

Chính quyền họ Mai cũng là cuộc khởi nghĩa chưa kịp ổn định, sử sách chỉ ghi chép vài dòng sơ sài nhưng vì tôn vinh vấn đề chống ngoại xâm nên cũng được liệt vào danh sách vua Việt Nam.

Họ Phùng (779-791)[sửa | sửa mã nguồn]

Chân dungThủ lĩnh[29]Miếu hiệuThụy hiệuNiên hiệuTên húy[29]Thế thứ[29]Trị vì

TuongPhungHung.jpg Phùng Hưng[36] không có Bố Cái Đại Vương[37] không có Phùng Hưng
Phùng Cự Lão
con Phùng Hạp Khanh, thế tập Biên Khố Di Tù Trưởng chưa rõ[38] 791[29]
Phùng An[39] không có không có không có Phùng An con Phùng Hưng 791 791
Thời kỳ tự chủ[sửa | sửa mã nguồn] Họ Khúc (905-923) hoặc (905-930)[sửa | sửa mã nguồn]

Chân dungTiết độ sứ[40]Tôn hiệu[40]Thụy hiệu[40]Niên hiệu[40]Tên húyThế thứTrị vì

Khúc Tiên Chủ[41] Tiên Chủ[42] không có không có Khúc Thừa Dụ[40] Mở màn nền tự chủ[40] 905 907[40]
Khúc Trung Chủ[41] Trung Chủ[42] không có không có Khúc Hạo
Khúc Thừa Hạo[43]
con Khúc Thừa Dụ[40] 907 917[40]
Khúc Hậu Chủ[41] Hậu Chủ[42] không có không có Khúc Thừa Mỹ[43] con Khúc Hạo[43] 917 923[43]
930[44]
Dương Đình Nghệ và Kiều Công Tiễn (931-938)[sửa | sửa mã nguồn]

Chân dungTiết độ sứ[43]Tôn hiệu[43]Thụy hiệu[40]Niên hiệu[40]Tên húyThế thứ[40]Trị vì[40]

Dương Chính Công[41] không có không có không có Dương Đình Nghệ[40]
Dương Diên Nghệ[45]
Khôi phục nền tự chủ, nha tướng của Khúc Hạo 931 937
Kiều Công Tiễn[41] không có không có không có Kiều Công Tiễn[43]
Kiểu Công Tiễn[40]
Kiểu Công Hạo[45]
con nuôi và nha tướng của Dương Đình Nghệ 937 938
Thời kỳ độc lập
Minh thuộc Nam-Bắc triều và Trịnh-Nguyễn phân tranh Pháp thuộc
Trước độc lập Nhà Ngô Nhà Đinh Nhà Tiền Lê Nhà Lý Nhà Trần Nhà Hồ Nhà Hậu Trần Nhà Hậu Lê Nhà Mạc Nhà Hậu Lê Nhà Tây Sơn Nhà Nguyễn Việt Nam hiện đại
Chúa Trịnh
Chúa Nguyễn
939 1009 1225 1400 1427 1527 1592 1788 1858 1945

Nhà Ngô và Dương Tam Kha (939-965)
939 965 1945

Chân dungVua[40]Tôn hiệuThụy hiệu[40]Niên hiệu[40]Tên húyThế thứ[40]Trị vì[40]

Tượng Ngô Quyền.jpg Tiền Ngô Vương Tiên Chủ không có không có Ngô Quyền[40] Sáng lập triều đại, con rể Dương Đình Nghệ 939 944
Dương Bình Vương[46] không có không có không có Dương Tam Kha[40]
Dương Chủ Tướng[47]
Dương Thiệu Hồng[48]
Con trai Dương Đình Nghệ 944 950
Thiên Sách Vương[49] không có không có không có Ngô Xương Ngập[40] Con trưởng Ngô Quyền 951 954
Nam Tấn Vương[49] không có không có không có Ngô Xương Văn[40] Con thứ Ngô Quyền 950 965
Nhà Đinh (968-980)
939 968 980 1945

Chân dungVua[50]Miếu hiệu[50]Thụy hiệuNiên hiệu[50]Tên húy[50]Thế thứ[50]Trị vì[50]

VuaDinhTienHoang.jpg Đinh Tiên Hoàng[51] không có Tiên hoàng đế[52] Thái Bình (970-979) Đinh Bộ Lĩnh
Đinh Hoàn[53]
Sáng lập triều đại 968 979
Dinhtoan.jpg Đinh Phế Đế[54] không có Phế Đế[55] Thái Bình[56] (979-980) Đinh Toàn
Đinh Tuệ
Con út Đinh Tiên Hoàng 979 980
Nhà Tiền Lê (980-1009)
939 980 1009 1945

Chân dungVua[50]Miếu hiệuThụy hiệu[50]Niên hiệu[50]Tên húyThế thứ[50]Trị vì[50]

Le Dai Hanh.jpg Lê Đại Hành[57] không có Đại Hành hoàng đế[58] Thiên Phúc (980-988)
Hưng Thống (989-993)
Ứng Thiên (994-1005)
Lê Hoàn Sáng lập triều đại, Phó vương nhiếp chính thời Đinh Phế Đế 980 1005
Lê Trung Tông Trung Tông không có Ứng Thiên[56] (1005-1005) Lê Long Việt Con thứ Lê Đại Hành 1005 1005
Lelongdinh.jpg Lê Ngọa Triều không có Ngọa Triều hoàng đế[59] Ứng Thiên[56] (1005-1007)
Cảnh Thụy (1008-1009)
Lê Long Đĩnh[50]
Lê Chí Trung[48]
Con thứ năm Lê Đại Hành, 1005 1009
Nhà Lý (1010-1226)
939 1010 1226 1945

Chân dungVuaMiếu hiệuThụy hiệuNiên hiệuTên húyThế thứTrị vì

Tượng Lý Thái Tổ.jpg Lý Thái Tổ[60] Thái Tổ[61] Thần Vũ Hoàng Đế[61] Thuận Thiên (1010-1028)[61] Lý Công Uẩn[61] Sáng lập triều đại. Nguyên là Điện tiền chỉ huy sứ và là phò mã trưởng Lê Đại Hành[61] 1009[61] 1028[61]
LýTháiTông.jpg Lý Thái Tông[62] Thái Tông[61] không rõ[63] Thiên Thành (1028-1033)[61]
Thông Thụy (1034-1038)[61]
Càn Phù Hữu Đạo (1039-1041)[61]
Minh Đạo (1042-1043)[61]
Thiên Cảm Thánh Vũ (1044-1048)[61]
Sùng Hưng Đại Bảo (1049-1054)[61]
Lý Phật Mã[61]
Lý Đức Chính[61]
Con trưởng Lý Thái Tổ[61] 1028 1054[61]
Lý Thánh Tông.JPG Lý Thánh Tông Thánh Tông không có[64][65] Long Thụy Thái Bình (1054-1058)[65] Chương Thánh Gia Khánh (1059-1065)[65]
Long Chương Thiên Tự (1066-1068)[65]
Thiên Huống Bảo Tượng (1068 - 1069)[65]
Thần Vũ (1069-1072)[65]
Lý Nhật Tôn[65] Con trưởng Lý Thái Tông[65] 1054 1072[65]
Lý Nhân Tông.JPG Lý Nhân Tông[66] Nhân Tông không có[67] Thái Ninh (1072-1076)
Anh Vũ Chiêu Thắng (1076-1084)
Quảng Hựu (1085-1092)
Hội Phù (1092-1100)
Long Phù (1101-1109)
Hội Tường Đại Khánh (1110-1119)
Thiên Phù Duệ Vũ (1120-1126)
Thiên Phù Khánh Thọ (1127-1127)
Lý Càn Đức[65] Con trưởng Lý Thánh Tông[65] 1072 1127
Lý Thần Tông Thần Tông không có[68] Thiên Thuận (1128-1132)
Thiên Chương Bảo Tự (1133-1138)
Lý Dương Hoán[65] con Sùng Hiền Hầu, cháu nội Lý Thánh Tông[65] 1127 1138
Lý Anh Tông[69] Anh Tông không có[70][71] Thiệu Minh (1138-1139)
Đại Định (1140-1162)
Chính Long Bảo Ứng (1163-1173)
Thiên Cảm Chí Bảo (1174-1175)
Lý Thiên Tộ[71] Con thứ Lý Thần Tông[71] 1128 1175
Lý Cao Tông Cao Tông không có[71][72] Trinh Phù (1176-1185)
Thiên Tư Gia Thuỵ (1186-1201)
Thiên Gia Bảo Hựu (1202-1204)
Trị Bình Long Ứng (1205-1210)
Lý Long Cán[73]
Lý Long Trát[71]
Con thứ 6 Lý Anh Tông 1176 1204
Lý Thẩm[74][75] không có không có không có Lý Thẩm Con thứ Lý Cao Tông 1209 1209
Den do.jpg Lý Huệ Tông[76] Huệ Tông không có[71][77] Kiến Gia (1211–1224) Lý Sảm
Lý Hạo Sảm
Con trưởng Lý Cao Tông[78] 1211 1224
Lý Nguyên Vương[79][75] không có Nguyên Vương[80] Càn Ninh (1214–1216)[78] không rõ[78] Con thứ Lý Anh Tông[78] 1214 1216[78]
Lý Chiêu Hoàng[81] không có Chiêu Hoàng[82] Thiên Chương Hữu Đạo (1224–1226)[78] Lý Phật Kim
Lý Thiên Hinh[78]
Con gái Lý Huệ Tông, vợ Trần Thái Tông[78] 1224 1226[78]
Nhà Trần (1226-1400)
939 1226 1400 1945

Chân dungVuaMiếu hiệuThụy hiệuNiên hiệuTên húyThế thứTrị vì

Trần Thái Tông[83] Thái Tông[84] Thống Thiên Ngự Cực Long Công Mậu Đức Hiển Hòa Hựu Thuận Thần Văn Thánh Vũ Nguyên Hiếu Hoàng Đế[84] Kiến Trung (1226-1237)[84]
Thiên Ứng Chính Bình (1238-1350)[84]
Nguyên Phong (1251-1258)[84]
Trần Cảnh[84]
Trần Bồ[84]
Trần Nhật Cảnh[85]
Trần Quang Bỉnh[85]
Sáng lập triều đại, chồng và anh họ Lý Chiêu Hoàng[84] 1226 1258[84]
Trần Thánh Tông[86] Thánh Tông[84] Huyền Công Thịnh Đức Nhân Minh Văn Vũ Tuyên Hiếu Hoàng Đế[84] Thiệu Long (1258-1272)[84]
Bảo Phù (1273-1278)[84]
Trần Hoảng[84]
Trần Uy Hoảng[85]
Trần Quang Bính[85]
Trần Nhật Huyên[85]
Con thứ hai Trần Thái Tông[84] 1258 1279[84]
Trần Nhân Tông.jpg Trần Nhân Tông[87] Nhân Tông[88] Pháp Thiên Sùng Đạo Ứng Thế Hóa Dân Long Từ Hiển Hiệu Thánh Văn Thần Vũ Nguyên Minh Duệ Hiếu Hoàng Đế[88] Thiệu Bảo (1278-1285)[88]
Trùng Hưng (1285-1293)[88]
Trần Khâm[88]
Trần Nhật Tuấn[85]
Con trưởng Trần Thánh Tông[88] 1278 1293[88]
Trần Anh Tông TLĐSXSĐ.jpg Trần Anh Tông[89] Anh Tông[88] Hiển Văn Duệ Vũ Khâm Minh Nhân Hiếu Hoàng Đế[88] Hưng Long (1293-1314)[88] Trần Thuyên[88]
Trần Nhật 㷃[85]
Trần Nhật
♡๖ۣۜทɦ¡¡♡๖ۣۜ
Xem chi tiết
Noob_doge
2 tháng 11 2021 lúc 13:53

Mình đã gộp hết các đáp án vào đây r bạn nhé :Triều đại này bắt đầu khi  Công Uẩn lên ngôi vào tháng 10 âm lịch năm 1009 sau khi giành được quyền lực từ tay nhà Tiền Lê. Triều đại này trải qua 9 vị hoàng đế và chấm dứt khi  Chiêu Hoàng, lúc đó mới có 7 tuổi, bị ép thoái vị để nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh vào năm 1225 – tổng cộng là 216 năm.

Nguyễn Hương Thảo
6 tháng 12 2021 lúc 15:02

Triều đại Lý ra đời lúc Lê Long Đĩnh mất.Lý Công Uẩn lên ngôi,lấy hiệu là Lý Thái Tổ.
Nhà lý có 9 đời vua.Lý chiêu hoàng là con của Lý Huệ Tông lên ngôi.lý chiêu hoàng nhường ngôi ch Trần Cảnh.Nhà Lý chấm dứt từ đây.

Nguyễn Thanh Hằng
Xem chi tiết
Phạm Thị Diệu Hằng
10 tháng 3 2017 lúc 16:20

Đáp án D

Nguyễn Thanh Hằng
Xem chi tiết
Phạm Thị Diệu Hằng
26 tháng 5 2019 lúc 11:04

Chọn D

Đỗ Thị Đức
Xem chi tiết
subjects
17 tháng 12 2022 lúc 20:03

- nhà nguyễn có 13 dời vua

- hồ quý ly là vị hoàng đế đầu tiên của nhà nước Đại Ngu trong lịch sử Việt Nam

- mozart  là nhà soạn nhạc người Áo

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Đỗ Thị Đức
17 tháng 12 2022 lúc 20:10

câu cuối là vua Lý Cao Tông (1173-1210)

ĐẶNG NGỌC KHÁNH THY
17 tháng 12 2022 lúc 20:23

Tôi là Liana. Tôi đã chết trong một vụ tai nạn năm tôi 6 tuổi. Bạn phải đọc hết tin nhắn này nếu không bạn sẽ gặp xui xẻo cả đời. Hiện tại thì tôi có thể đang ở rất gần bạn và tôi yêu cầu bạn phải chia sẻ tin nhắn này cho 20 người nữa. Nếu không làm được, bạn sẽ chết. Ví dụ 1: Có một chàng trai tên là Meson, anh ấy đọc được tin nhắn này. Nhưng anh đã cười nhạo và không chia sẻ cho 20 người nên vào 2 giờ sáng, anh ấy đã chết do một vụ tai nạn. Một cái chết giống y hệt của tôi. Là tôi làm đấy! Ví dụ 2: Một có gái trẻ tên là Alisean. Cô cũng nhận được dòng tin nhắn này nhưng cô chỉ chia sẻ cho 10 người và cô đã gặp ác mộng suốt phần đời còn lại Thêm một ví dụ nữa: Có ba người bạn thân và họ tên là Tini Ly, Miin dukki và Anna An. Họ đang chơi đùa vui vẻ thì nhận được những dòng tin nhắn này và họ đã gửi ngay cho 20 người. Vậy là họ trở thành những con người may mắn. Họ được mọi người yêu quý, điểm số của họ cũng rất cao. Vậy bạn muốn giống ai? Hãy gửi tiếp cho 20 người để được may mắn hoặc không thì bạn sẽ xui xẻo hoặc chết. Trò chơi sẽ bắt đầu từ lúc bạn đọc những dòng tin nhắn này. CHÚC BẠN MAY MẮN

Huỳnh Anh
Xem chi tiết
Đặng Thị Cẩm Tú
15 tháng 11 2016 lúc 16:23

Có 9 vị vua thời Lý:

- Lý Thái Tổ

+ Niên hiệu: Thuận Thiên

-Lý Thái Tông:

+Niên hiệu:Thiên Thành, Thống Thụy, Càn Phù Hữu Đạo, Minh Đạo, Thiên Cảm Thánh Võ, Sùng Hưng Đại Bảo

-Lý Nhân Tông:

+Niên hiệu: Thái Ninh, Anh Võ Chiêu Thắng, Quảng Hữu, Hội Phong , Long Phù, Hội Tường Đại Khánh, Thiện Phù Duệ Võ, Thiên Phù Khánh Thọ

- Lý Thần Tông:

+ Niên hiệu: Thiên Thuận, Thiên Chương Bảo Tự.

-Lý Anh Tông: Thiệu Minh, Đại Đinh, Chính Long Bảo Ứng, Thiên Cảm Chí Bảo

-Lý Cao Tông:

+Niên hiệu: Trịnh Phù, Thiên Tư Gia Thụy, Thiên Gia Bảo Hựu, Trị Bình Long Ứng

- Lý Huệ Tông:

+Niên hiệu: Kiến Gia

- Lý Chiêu Hoàng:

+ Niên hiệu: Thiên Chương Hữu Đạo

Vị vua có công nhiều nhất là Lý Nhân Tông

Bữa sau môn nào ra môn nấy nha :)

Chúc bạn học tốt, mình đi học võ đây

 

thuy nguyen
Xem chi tiết
Nguyễn Lê Phước Thịnh
18 tháng 12 2021 lúc 19:19

Câu 1: D

Cau 2: A

Trần Thị Minh Duyên
18 tháng 12 2021 lúc 22:19

Câu 3. B

Câu 4. A

Câu 5. B

Câu 6. Quốc triều hình luật

Câu 7. B

Câu 8. A

Câu 9. C

Công ty cổ phần BINGGROUP © 2014 - 2024
Liên hệ: Hà Đức Thọ - Hotline: 0986 557 525 - Email: a@olm.vn hoặc hdtho@hoc24.vn