Quỳnhh-34- 6.5 Phạm như
Xem chi tiết
Nguyễn Yến
Xem chi tiết
qqqq
Xem chi tiết
nguyễn đặng tuấn minh
Xem chi tiết
Đỗ Thị Minh Ngọc
21 tháng 4 2022 lúc 19:47

Tham khảo:

Diễn biến:

- Đêm 30 tết, quân ta vượt sông Gián Khẩu tiêu diệt gọn quân địch ở đồn tiền tiêu.

- Đêm mùng 3 tết, bao vây tiêu diệt đồn Hà Hồi.

- Đêm mùng 5 tết, quân ta tấn công và hạ đồn Ngọc Hồi.

- Cùng lúc đạo quân của đô đốc Long tấn công, tiêu diệt đồn Đống Đa.

Ý nghĩa lịch sử:

 + Nhờ ý chí đấu tranh chống áp bức bóc lột, tinh thần yêu nước, đoàn kết và hi sinh cao cả của nhân dân ta.

 + Sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của vua Quang Trung và bộ chỉ huy nghĩa quân.

 

Bình luận (2)
bé mèo
Xem chi tiết
Aaron Lycan
7 tháng 4 2021 lúc 5:28

 Thành quả của phong trào Tây Sơn là:

-Lật đổ chính quyền phong kiến thối nát Lê – Trịnh, Nguyễn, xoá bỏ ranh giới chia cắt đất nước, đặt nền tảng thống nhất quốc gia.

-Đánh tan các cuộc xâm lược của Xiêm, Thanh bảo vệ nền độc lập và lãnh thổ của Tổ quốc.

-Thể hiện lòng quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và tự do của đất nước đến cùng.

Bình luận (0)
Aaron Lycan
7 tháng 4 2021 lúc 5:33

- Tháng 9/1773, nghĩa quân Tây Sơn hạ thành Quy Nhơn.

- Năm 1774, nghĩa quân mở rộng vùng kiểm soát từ Quảng Nam đến Bình Thuận.

- Biết tin quân Tây Sơn nổi dậy, chúa Trịnh phái quân đánh vào Phú Xuân, chúa Nguyễn không chống nổi, phải vượt biển vào Gia định.

P/s:Cô giáo mk cho ghi vậy

Bình luận (0)
Sách Giáo Khoa
Xem chi tiết
Nguyễn Bảo Trung
4 tháng 4 2017 lúc 19:44

*) Cuộc tiến quân của vua Quang Trung vào tất kỷ Dậu 1789.

- Năm 1788 Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế lập tức tiến quân ra Bắc.

- Đến Nghệ An tuyển thêm quân, mở cuộc duyệt binh lớn.

- Tới Thanh Hoá làm lễ tuyên thề.

- Ra đến Tam Điệp Quang Trung mở tiệc khao quân.

- Từ Tam Điệp Quang Trung chia quân làm 5 đạo tiến ra Thăng Long.

- Đêm 30 Tết quân ta vượt sông Gián khẩu tiêu diệt đồn tiền tiêu.

- Đêm mồng 3 Tết quân ta vây đồn Hà Hồi – quân địch hạ khí giới.

- Mờ sáng ngày mồng 5 Tết quân ta đánh đồn Ngọc Hồi “Quân Thanh chống không nổi, bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết....thây ngổn ngang đầy đồng, máu chảy thành suối. Quân Thanh đại bại....”

- Cùng lúc đó đạo quân của đô đốc Long tấn công đồn Đống Đa, ta giáp chiến . Tướng giặc là Sầm Nghi Đống thắt cổ tự tử

- Nghe tin đại bại Tôn Sĩ Nghị bàng hoàng mất vía, vượt sông Nhị sang Gia Lâm.

- Trưa mồng 5 Tết kỉ Dậu vua Quang Trung trong bộ chiến bào xạm đen, cùng đoàn quân chiến thắng tiến vào Thăng Long.

Bình luận (1)
Võ Đông Anh Tuấn
4 tháng 4 2017 lúc 11:06

Trình bày cuộc tiến quân của vua Quang Trung đại phá quân Thanh... Sử dụng SGK và lược đồ H.59 để trình bày diễn biến trận đại phá quân Thanh của vua Quang Trung. Cần thấy được tính thần tốc trong cuộc tiến công này để chớp thời cơ tiêu diệt quân Thanh trong dịp Tết Kỉ Dậu (1789).

Bình luận (0)
Bình Trần Thị
4 tháng 4 2017 lúc 19:09

Quang Trung đại phá Quân Thanh 1789 ( từ 25-12- 1788 à 30-1- 1789 ( từ 30 Tết Mậu Thânà mùng 5 Tết Kỷ Dậu ).

* Vua Quang Trung chuẩn bị đại phá quân Thanh :

- 1788 Nguyễn Huệ lên ngôi hòang đế , lấy hiệu là Quang Trung , rồi tiến quân ra Bắc ,mộ thêm quân ở Nghệ An .

- Tới Thanh Hóa tuyển thêm quân , làm Lễ Thệ Sư và đọc bài Hiểu dụ tướng sĩ .

- Đến Tam Điệp(Ninh Bình), cho binh sĩ ăn tết trước rồi đánh quân Thanh trong tết Kỷ Dậu, với tinh thần quyết đánh tan quân giặc .

* Chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa :

Từ Tam Điệp quân Tây Sơn chia làm 5 đạo tiến ra Bắc:

+Đạo chủ lực do Quang Trung trực tiếp chỉ huy thẳng hướng Thăng Long .

+Đạo thứ hai và ba đánh vào Tây NamThăng Long và yểm trợ cho đạo chủ lực .

+ Đạo thứ tư ra phía Hải Dương và thứ năm tiến lên Lạng Giang chặn đường rút lui của địch .

-Đêm 30 tết ta vượt sông Gián Khẩu, đồn ngụy bị tiêu diệt.

-Đêm mồng 3 tết ta vây đồn Hạ Hồi, địch hạ khí giới .

-Mờ sáng mồng 5 tết ta vây đồn Ngọc Hồi.

-Cũng mồng 5 tết quân ta tấn công chiếm đồn Đống Đa, Sầm Nghi Đống tự tử.

-Trưa mồng 5 tết Quang Trung và Đô đốc Long tiến vào Thăng Long. Tôn sĩ Nghị và bè lũ rút chạy, bị quân ta chặn đánh tại Phượng Nhãn. Đất nước hòan tòan giải phóng.

Bình luận (0)
VŨ THANH DƯƠNG
Xem chi tiết
Chu Minh Hùng
4 tháng 4 2020 lúc 10:05

đánh giặc ngu như bò

Bình luận (1)
 Khách vãng lai đã xóa
Đỗ Trung Hiếu
4 tháng 4 2020 lúc 16:07
trungdaonguyenthanh

Trong thế kỷ 18, nước Đại Việt nằm dưới quyền cai trị tượng trưng của vua Lê, có danh mà không có quyền hành chính trị. Quyền lực thực sự nằm trong tay hai gia đình phong kiến, các chúa Trịnh ở phía Bắc, kiểm soát nhà vua và điều khiển triều đình ở Thăng Long và các chúa Nguyễn ở phía Nam, đóng đô tại thành Phú Xuân. Hai bên từng đánh lẫn nhau để giành quyền kiểm soát toàn bộ đất nước trong suốt 45 năm và đều tuyên bố trung thành với nhà Lê để củng cố quyền lực cho mình.

Giống như Trung Quốc ở thời điểm đó, đời sống nông dân rất thấp kém. Đa số ruộng đất theo thời gian rơi vào tay số ít người. Quan lại thường áp bức và tham nhũng; các vị chúa cai trị sống hoang phí trong những cung điện lớn.[cần dẫn nguồn]

Cuộc chiến Trịnh Nguyễn phân tranh kết thúc năm 1672 và cuộc sống của những người nông dân ở phía Bắc của các chúa Trịnh khá yên bình. Trong khi đó ở phía Nam, các chúa Nguyễn dần dần sáp nhập vương quốc Chiêm Thành và ảnh hưởng chính trị, quân sự lên vương quốc Chân Lạp. Các chúa Nguyễn thường hỗ trợ quân sự cho Chân Lạp để Chân Lạp đánh lại một nước mạnh kế cạnh là Xiêm. Từ đó, các Chúa Nguyễn nhận các vùng đất từ Chân Lạp như món quà đền ơn, mở mang thêm lãnh thổ Đàng Trong về phía Nam.

Từ giữa thế kỷ 18, người nông dân bị bần cùng và họ đã đứng lên khởi nghĩa cả ở Đàng Ngoài lẫn Đàng Trong. So với Đàng Trong, phong trào nông dân Đàng Ngoài mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên, các cuộc khởi nghĩa quận He (Nguyễn Hữu Cầu), quận Hẻo (Nguyễn Danh Phương), chàng Lía, Hoàng Công Chất... ở Đàng Ngoài và Đàng Trong nhìn chung đều chưa đủ quy mô, sức mạnh và sự liên kết cần thiết để đánh đổ chính quyền cai trị. Mặt khác, những người cầm quyền lúc đó như Trịnh Doanh ở Đàng Ngoài và Nguyễn Phúc Khoát ở Đàng Trong có đủ tài năng, uy tín để huy động lực lượng trấn áp các cuộc khởi nghĩa.

Cuối đời chúa Nguyễn Phúc Khoát, ông trở nên lười nhác, ham hưởng lạc mà bỏ bê triều chính. Các quan lại cấp dưới cũng học theo thói xa xỉ đó, nạn tham ô, hối lộ cũng vì thế mà ngày càng nghiêm trọng. Lê Quý Đôn trong Phủ biên tạp lục có nhận xét về thời kỳ cuối chúa Nguyễn là: “… từ quan to đến quan nhỏ, nhà cửa chạm trổ, tường xây bằng gạch đá, trướng vóc màn the, đồ dùng toàn bằng đồng, bằng sứ, bàn ghế bằng gỗ đàn, gỗ trắc, ấm chén bằng sứ, yên ngựa – dây cương đều nạm vàng, nạm bạc, quần áo là lược, nệm hoa, chiếu mây, lấy phú quý phong lưu để khoe khoang lẫn nhau… Họ coi vàng bạc như cát, thóc gạo như bùn, hoang phí vô cùng…”.[3] Triều đình ngày càng suy yếu, lòng dân chán ghét, các cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra báo hiệu sự cai trị của chúa Nguyễn đã sắp đến hồi kết.

Phân tích[sửa | sửa mã nguồn]Tượng Tây Sơn Tam Kiệt ở Bảo tàng Quang Trung, Tây Sơn, Bình Định.

Ba anh em Tây Sơn, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ, được gọi là "Tây Sơn tam kiệt". Các nguồn tài liệu về thân thế Nguyễn Huệ và anh em Tây Sơn chưa hoàn toàn thống nhất.

Các sách Đại Việt sử ký tục biênĐại Nam thực lục tiền biênĐại Nam chính biên liệt truyệnKhâm định Việt sử Thông giám cương mục đều ghi các thủ lĩnh Tây Sơn là họ Nguyễn, nhưng không nói tổ tiên là họ gì.

Quê gốc của 3 anh em nhà Tây Sơn ở làng Thái Lão huyện Hưng Nguyên, đến năm 1986 được nâng lên thành Thị trấn Thái Lão, đến năm 1998, thị trấn Thái Lão hợp nhất với xã Hưng Thái thành thị trấn Hưng Nguyên ngày nay.

Từ năm 1558, Nguyễn Hoàng chạy vào Thuận Hóa đến năm 1672, chúa Nguyễn đàng Trong và chúa Trịnh đàng Ngoài đánh nhau cả thảy 7 lần. Trong lần thứ 5 (1655–1656), quân Nguyễn tràn qua Hưng Nguyên lùa bắt dân cùng với tù binh đưa vào Nam (để khai thác vùng Thuận – Quảng đất rộng người thưa) trong đó có ông tổ 4 đời của anh em nhà Tây Sơn là Hồ Phi Long...

Tổ tiên nhà Tây Sơn vốn họ Hồ ở làng Hương Cái, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Họ theo chân chúa Nguyễn vào lập nghiệp miền Nam khi chúa Nguyễn vượt Lũy Thầy đánh ra đất Lê - Trịnh tới Nghệ An (1655). Ông cố của ba anh em Tây Sơn tên là Hồ Phi Long vào giúp việc cho nhà họ Đinh (ở thôn Bằng Chân, huyện Tuy Viễn, tức An Nhơn), cưới vợ họ Đinh và sinh được một trai tên là Hồ Phi Tiễn. Hồ Phi Tiễn không theo việc nông mà bỏ đi buôn trầu ở ấp Tây Sơn, cưới vợ và định cư tại đó. Vợ của Hồ Phi Tiễn là Nguyễn Thị Đồng, con gái duy nhất của một phú thương đất Phú Lạc, do đó họ đổi họ của con cái mình từ họ Hồ sang họ Nguyễn của mẹ. Người con là Nguyễn Phi Phúc cũng chuyên nghề buôn trầu và làm ăn phát đạt. Cũng có tài liệu cho rằng họ Hồ đã đổi theo họ chúa Nguyễn ngay từ khi mới vào Nam.[4][5][6].

Nguyễn Phi Phúc có tám người con, trong đó có ba người con trai: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ. Về thứ tự của Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ trong các anh em, các nguồn tài liệu ghi không thống nhất:[7]

Các sách Đại Nam thực lục chính biênĐại Nam chính biên liệt truyệnTây Sơn thủy mạt khảo đều thống nhất ngôi thứ trong ba anh em Tây Sơn và khẳng định rằng: "Con trưởng là Nhạc, kế là Lữ, kế nữa là Huệ".Theo thư từ của các giáo sĩ phương Tây hoạt động ở Đại Việt khi đó như Labartette, Eyet và Varen thì Nguyễn Huệ là em của Nguyễn Lữ. Nguyễn Lữ được gọi là Đức Ông Bảy[8] còn Nguyễn Huệ là Đức Ông Tám.Lê Trọng Hàm trong sách Minh đô sử lại cho rằng Hồ Phi Phúc sinh "Nhạc, Lữ đến hai cô con gái rồi đến Huệ".Dân phủ Quy Nhơn xưa truyền lại rằng: Nguyễn Nhạc thuở đi buôn trầu nên gọi là anh Hai Trầu; Nguyễn Huệ còn có tên là Thơm nên gọi là chú Ba Thơm; Nguyễn Lữ gọi là thầy Tư Lữ vì có thuở đi tu theo đạo Hồi Bani (Islam Bani), một hệ tôn giáo của người Chăm cổ.Theo đại sứ nước Anh John Crawfurd, người đến Việt Nam năm 1822, ba anh em nhà Tây Sơn có xuất thân là dân thường. Người anh cả [Nhạc] và người em út [Huệ] là những kẻ dũng mãnh nhất. Người anh cả (hay được ghi là Ignack), Crawfurd tin chắc, làm nghề thợ rèn; hai người em làm nông nghiệp.[9]

Theo một tài liệu mới công bố tại Hội thảo về Tây Sơn, gia đình Nguyễn Nhạc có ít nhất 4 anh em trai, anh đầu là Nguyễn Quang Hoa. Quang Hoa có thể do bị chết sớm hoặc vì lý do nào đó không tham gia lãnh đạo phong trào Tây Sơn, nên không được sử sách ghi lại.[10]

Lớn lên, ba anh em được đưa đến thụ giáo cả văn lẫn võ với thầy Trương Văn Hiến. Chính người thầy này đã phát hiện được khả năng khác thường của Nguyễn Huệ và khuyên ba anh em khởi nghĩa để xây dựng đại nghiệp. Giáo Hiến cho là có sấm truyền: "Tây khởi nghĩa Bắc thụ công" - "Phụ nguyên phục thống". Rồi nói với anh em Nguyễn Huệ: "Các con là người của đất Tây Sơn, Tây Sơn khởi nghĩa sẽ lập nên sự nghiệp lớn ở miền Bắc và hết lòng giúp chúa Nguyễn để phục hồi nền nhất thống… Các con nên đổi thành họ Nguyễn để có danh nghĩa lập công". Do vậy, anh em Tây Sơn từ họ Hồ đổi thành họ Nguyễn.[11]

Trong những năm đầu tiên, Nguyễn Nhạc đóng vai trò quan trọng nhất. Tương truyền trước khi nổi dậy ông từng đi buôn trầu nên được gọi là Hai Trầu. Sử nhà Nguyễn chép rằng ông được chúa Nguyễn giao cho việc thu thuế trong vùng nhưng mang tiền thu thuế đánh bạc mất hết, cùng quẫn phải nổi dậy. Theo ý kiến của PGS Nguyễn Phan Quang trong sách Phong trào nông dân Tây Sơn (2003), tình tiết này thực chất là dụng ý nói xấu người "phản loạn" của nhà Nguyễn sau khi họ đã thắng trận.[12]

Ban đầu, quân Tây Sơn nổi dậy và dần đánh chiếm được nhiều lãnh thổ ở Đàng Trong. Lúc này, quân Trịnh nhân lúc chúa Nguyễn suy yếu cũng kéo vào Nam, chiếm được Phú Xuân và đánh 1 trận với quân Tây Sơn ở Quảng Nam. Để làm hòa, Tây Sơn đồng ý nghị hòa với quân Trịnh, sau đó sẽ mang quân vào đánh chúa Nguyễn. Chúa Trịnh đồng ý, phong tước cho Tây Sơn và không đánh nữa. Quân Tây Sơn tiếp tục đánh chúa Nguyễn và dần dần chiếm được đất đai và lớn mạnh, bắt đầu có sự tự chủ. Sau khi chiếm được phần lớn Đàng Trong, quân Tây Sơn đánh ra Đàng Ngoài, lật đổ chúa Trịnh, kết thúc cục diện chia cắt Đại Việt dài 200 năm giữa các chúa Trịnh và chúa Nguyễn.

Lật đổ chúa Nguyễn[sửa | sửa mã nguồn]Bài chi tiết: Chiến tranh Tây Sơn-Chúa Nguyễn, 1771-1785Tình hình Đàng Trong cuối thời chúa Nguyễn[sửa | sửa mã nguồn]

Ở Đàng Trong, trong những năm cuối đời, Chúa Nguyễn Phúc Khoát đâm ra say mê tửu sắc, không còn quan tâm việc nước nữa, giao hết mọi việc cho quyền thần Trương Phúc Loan. Theo thông tin trên trang Nguyễn Phước tộc, thì:

Để dễ dàng trong việc tiếm quyền, chính Trương Phúc Loan đã khuyến dụ Chúa Võ đi vào con đường nữ sắc. Một cung phi rất được ngài sủng ái là Công nữ Nguyễn Phúc Ngọc Cầu, con của Dận quốc công Nguyễn Phúc Điền. Đây chính là mầm mống gây cảnh suy tàn của triều đại sau này.[cần dẫn nguồn]

Chính sự của họ Nguyễn ngay từ thời Vũ vương Nguyễn Phúc Khoát đã gây ra những ảnh hưởng tiêu cực cho dân chúng. Hệ thống thuế khóa phức tạp, cồng kềnh, nặng nề, quan dưới lạm thu khiến dân phải nộp nhiều hơn quy định.[13] Thuế thổ sản có tới hàng ngàn thứ, tính cả những sản vật nhỏ nhặt.[14] Năm 1741, Phúc Khoát ra lệnh truy thu thuế của cả những người bỏ trốn. Tới năm 1765 lại có lệnh truy thu thuế còn thiếu của 10 năm trước.[15]

Năm 1765, Vũ vương Nguyễn Phúc Khoát qua đời, chính quyền chúa Nguyễn rơi vào tay quyền thần Trương Phúc Loan. Loan thao túng triều chính, tự xưng là "Quốc phó", giết Nguyễn Phúc Luân (cha của Nguyễn Phúc Ánh) và lập Nguyễn Phúc Thuần, lúc đó mới 12 tuổi lên ngôi, tức là Định vương. Trương Phúc Loan trở thành quyền thần lấn lướt trong triều đình, mọi quyền hành đều bị thao túng. Loan nắm giữ Bộ Hộ, quản cơ Trung tượng kiêm Tàu vụ, thâu tóm mọi quyền lực về chính trị và kinh tế. Loan nổi tiếng là tham lam, thường vơ vét của công, mua quỵt của các thương nhân nước ngoài. Thuế sản vật các mỏ vàng Thu Bồn, Đồng Hương, Trà Sơn, Trà Vân... đều rơi vào tay Loan, hàng năm Loan chỉ nộp vào ngân sách quốc gia 1-2 phần mười số thuế thu được. Có đợt sau trận lụt, nhà Loan bày vàng ra phơi "sáng chóe" cả sân.[16] Cả nhà họ Trương chia nhau nắm giữ mọi chức vụ chủ chốt. Người bấy giờ gọi là Trương Tần Cối.

Cùng lúc đó, Lại bộ Thượng thư Nguyễn Cư Trinh, trụ cột của triều Nguyễn qua đời (tháng 5 năm 1767). Họ Trương không còn ai ngăn trở, càng ra sức lộng hành: bán quan tước, ăn tiền tha tội, hình phạt phiền nhiễu, thuế má nặng nề, nhân dân cực khổ. Những người có tài như Tôn Thất Dục bị Loan tìm cách hãm hại. Tài chính vô cùng kiệt quệ. Cơ nghiệp Chúa Nguyễn đến đây là suy vong, nhiều cuộc nổi dậy của nông dân bắt đầu diễn ra.

Năm 1769, vị vua mới của nước Xiêm là Taksin tung ra một cuộc chiến nhằm tìm cách lấy lại quyền kiểm soát nước Chân Lạp (Campuchia) vốn chịu nhiều ảnh hưởng của chúa Nguyễn. Quân của Chúa Nguyễn buộc phải lùi bước khỏi những vùng đất mới chiếm.

Thất bại trước những cuộc đụng độ với Xiêm La cộng với sưu thuế nặng nề cùng tình trạng tham nhũng tại địa phương khiến cho chính quyền chúa Nguyễn đã yếu càng yếu thêm. Nhiều nông dân lâm vào nghèo khổ, mâu thuẫn xã hội Đàng Trong trở nên gay gắt, lòng dân trở nên chán ghét chúa Nguyễn. Đó chính là thời cơ để ba anh em Tây Sơn bắt đầu khởi nghĩa chống lại chúa Nguyễn.

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa
phan thi hong nhung
Xem chi tiết
Nguyễn Công Tỉnh
23 tháng 4 2018 lúc 15:30

-năm 1788,NGUYỄN HUỆ lên ngôi hoàng đế,lấy niên hiệu là quang trung và lập tức tiến quân ra bắc.trên dường đi quang trung tuyển thêm quân.từ tam hiệp điệp quang trung chia làm 5 đạo tiến vào thăng long.

-đêm 30 tết quân ta vượt sông gián khẩu tiêu diệt toàn bộ địch ở đồn tiền tiêu.mồng 3 tết quân ta vây đồn hà hồi,quân giặc hạ khí giới đầu hàng.mờ sáng mồng 5 tết,quân ta đánh dồn ngọc hồi,quân thanh chống cự không nổi bỏ chạy toáng loạn.cùng lúc đó đạo quân của dô đốc long đánh đồn đống đa.

-tướng giặc sầm nghi dống khiếp sợ thắt cổ tự tử

-tôn sĩ nghị và vài võ quan vượt sông nhị sang gia lâm.

-trưa mồng 5 tết,quang trung và đoàn quân tây sơn chiến thắng tiến vào thăng long

Bình luận (0)
休 宁 凯
23 tháng 4 2018 lúc 15:31

1.cuộc tiến công của vua Quang Trung đại phá quân Thanh năm 1789:

-năm 1788,NGUYỄN HUỆ lên ngôi hoàng đế,lấy niên hiệu là quang trung và lập tức tiến quân ra bắc.trên dường đi quang trung tuyển thêm quân.từ tam hiệp điệp quang trung chia làm 5 đạo tiến vào thăng long.

-đêm 30 tết quân ta vượt sông gián khẩu tiêu diệt toàn bộ địch ở đồn tiền tiêu.mồng 3 tết quân ta vây đồn hà hồi,quân giặc hạ khí giới đầu hàng.mờ sáng mồng 5 tết,quân ta đánh dồn ngọc hồi,quân thanh chống cự không nổi bỏ chạy toáng loạn.cùng lúc đó đạo quân của dô đốc long đánh đồn đống đa.

-tướng giặc sầm nghi dống khiếp sợ thắt cổ tự tử

-tôn sĩ nghị và vài võ quan vượt sông nhị sang gia lâm.

-trưa mồng 5 tết,quang trung và đoàn quân tây sơn chiến thắng tiến vào thăng long

2.quang trung chọn tấn công quân Thanh dịp tết Kỉ Dậu vì:

-Lợi dụng sự chủ quan,kiêu ngạo của địch,khi chúng chiếm được Thăng Long một cách dễ dàng. 
-Đánh đòn bất ngờ lớn đối với quân địch khi đang vào dịp Tết Kỷ Dậu,chúng đang vui vẻ đón Tết. Quang Trung cũng phán đoán : quân Thanh sẽ nghĩ quân ta cũng phải ăn Tết nên cứ thanh thản không phòng thủ .Từ đó mà quân thừa cơ ra đòn chớp nhoáng tấn công toàn diện vào dịp Tết Kỉ Dậu. 

Chúc bạn học tốt!

Bình luận (0)
休 宁 凯
23 tháng 4 2018 lúc 15:32

Đến Tam Điệp (Ninh Bình ) chia quân làm 5 đạo , đánh ra Thăng Long tiêu
diệt quân Thanh .
+Đạo quân thứ nhất : Quang Trung chỉ huy đánh thẳng vào Thăng Long.
+Đạo quân thứ hai và thứ ba đánh vào Tây Nam Thăng Long yểm trợ cho đạo
quân chủ lực.
+ Đạo quân thứ tư tiến ra Hải Dương .
+ Đạo quân thứ năm tiến lên Lạng Giang chặn đường rút lui của địch.
- Đêm 30 Tết Quân ta vượt sông Gián Khẩu ( sông Đáy) , diệt đồn tiền tiêu của
địch.
- Đêm mùng 3 Tết Quân ta hạ đồn Hà Hồi ( Hà Nội), giặc phải bỏ khí giới đầu
hàng.
- Sáng mùng 5 Tết Quân ta tấn công đồn Ngọc Hồi và Đống Đa ( Hà Nội) .
- Trưa mùng 5 Tết Kỷ Dậu Vua Quang Trung cùng đoàn quân chiến thắng vào
Thăng Long. 

Bình luận (0)
Bích Phượng
Xem chi tiết
Cihce
15 tháng 10 2021 lúc 10:26

Tham khảo :

Ngày 30 tháng tháng chạp , vua Quang Trung hạ lệnh tiến quân . Binh linh đều nghiêm chỉnh đội ngũ mà đi . Khi đến núi Tam Điệp , Sở và Lân ra đón xin chịu tội . Vua Quang Trung phân xử xong thì cho mở tiệc khao quân , hẹn đến ngày mồng 7 sẽ vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng chiến thắng . Vua Quang Trung cho chia quân thành 5 đạo, đúng ngày gióng trống khua chiêng lên đường ra Bắc . Khi quân ra đến sông Gián , nghĩa binh trấn thủ ở đó tan vỡ chạy trước . Khi đến sông Thanh Quyết , quân Thanh do thám đi từ xa thấy bóng cũng chạy nốt , vua cho người đuổi theo đến Phú Xuyên thì bắt sống được hết không để tên nào chạy thoát nên quân Thanh ở Hà Hồi và Ngọc Hồi vẫn không hay biết gì . Nửa đêm ngày mồng 3 tháng Giêng năm Kỉ Dậu ( 1789 ) , vua Quang Trung tiến đánh đồn Hà Hồi . Ông cho quân vây kín bốn xung quanh rồi bắc loa truyền gọi . Tiếng quân lính luân phiên dạ ran vang vọng khắp không gian khiến quân số của ta như có thêm hàng vạn người . Khí thế quân Tây Sơn mạnh hơn bội phần khiến cho địch rụng rời sợ hãi , liền xin ra hàng , vũ khí bị quân ta lấy hết . Vua Quang Trung chiếm được thành Hà Hồi mà không cần phải khởi dụng binh đao . Tiến vào trận Ngọc Hồi , vua Quang Trung sai người lấy sáu chục tấm ván , ghép liền ba tấm làm một bức , bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín , tất thảy được hai mươi bức rồi chọn những người lính khỏe mạnh nhất , cứ mười người khênh một bức , lưng giắt dao ngắn , hai mươi người khác cầm binh khí theo sát phía sau , dàn trận thành chữ nhất . Vua cưỡi voi đốc thúc sát phía sau , đến mồng 5 tháng giêng thì đến sát thành Ngọc Hồi . Quân ta khí thế ngút trời , ai nấy đều quyết tâm cao độ tiến vào trận chiến sống mái với kẻ thù . Cuộc chiến ngay từ mở đầu đã vô cùng căng thẳng . Quân Thanh từ trong thành Thăng Long cho nổ súng bắn ra , nhằm vào đội quân nhưng không trúng người nào . Nhân có gió bắc , quân Thanh đã dùng ống phun khói lửa ra , khói tỏa mù trời , cách trong gang tấc không nhìn thấy gì hòng làm quân ta rối loạn , mất tinh thần . Nhưng đúng lúc ấy , trời lại nổi gió nam , thánh ra quân Thanh lại lãnh đủ , tự làm hại mình . Quân Tây Sơn dưới sự lãnh đạo của vua Quang Trung , gấp rút tiến quân , vừa che chắn , vừa xông thẳng lên phía trước . Khi hai bên đã chạm nhau thì quăng ván xuống đất , cầm dao ngắn xông lên chém bừa , những bính linh theo sát phía sau cũng nhất tề xông tới mà đánh . Tiếng gươm giáo va nhau , tiếng người vang đội , tiếng hò hét vang trời . Vua Quang Trung sừng sững ngồi trên voi chỉ huy trận đánh , tiếng vua vang rền như tiếng sấm khiến cho quân ta càng thêm vững vàng , xông tới mà đánh . Quân Thanh không chống đỡ nổi , bỏ chạy tán loạn , giày xéo lên nhau mà chết . Tên thái thú lúc bấy giờ là Sầm Nghi Đống tự thắt cổ mà chết . Quân Tây Sơn được thế chém giết lung tung , thây nằm đầy đống , mái chảy thành suối , quân Thanh đại bại . Giữa trưa hôm ấy , vua Quang Trung tiến binh đến Thăng Long rồi kéo quân vào thành . Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật , ngựa không kịp đóng yên , người không kịp mặc áo giáp , dẫn bọn lính kị mã của mình chuồn trước qua cầu phao , rồi nhằm hướng bắc mà chạy . Vua tôi Lê Chiêu Thống cũng hốt hoảng chạy trốn .

Bình luận (0)
Vân Bùi
Xem chi tiết
Bùi Thị Minh Phương
30 tháng 9 2016 lúc 19:38
Sau khi vua Lê Chiêu Thống cử người sang cầu viện triều đình Mãn Thanh, Tôn Sĩ Nghị kéo quân ồ ạt vào nước ta với ý đồ xâm lược rõ ràng. Từ cửa ải phía Bắc, chúng tiến thẳng xuống Thăng Long mà không gặp một trở ngại nào nên sinh ra kiêu căng, tự mãn. Điều đó làm cho vua tôi Lê Chiêu Thống vốn biết rõ tài cầm quân của Nguyễn Huệ, rất lo lắng. Tướng Ngô Văn Sở lúc đó được giao nhiệm vụ trấn giữ Tam Điệp, ranh giới giữa Ninh Bình và Thanh Hoá vội cho các đạo quân Tây Sơn rút lui sau đó tức tốc sai Nguyễn Văn Tuyết phi ngựa trạm vào Nam cấp báo tình hình. Ngày 24 tháng 11, Tuyết đã vào đốn thành Phú Xuân. Bắc Bình Vương (tức Nguyễn Huệ) tiếp được tin báo, giận lắm, định thân chinh cầm quân đi ngay nhưng một số người khuyên ông hãy lên ngôi vua, ra lệnh ân xá khắp trong ngoài để thu phục nhân tâm rồi sau đó hãy cầm quân ra Bắc đánh dẹp kẻ thù cũng chưa muộn. 

Nguyễn Huệ cho là phải, bèn lập đàn trên núi Bân, tế cáo trời đất, chế ra áo côn, mũ miện rồi tuyên bố lên ngôi vua, lấy hiệu Quang Trung. Hôm ấy, nhằm ngày 25 tháng Chạp năm Mậu Thân (1788).Vua Quang Trung trực tiếp đốc xuất đại binh, cả đường thủy lẫn đường bộ cùng ra đi. Ngày 29, ra đến Nghệ An, ông sai tướng Hám Hổ Hầu đi tuyển mộ lính mới, cứ ba tráng đinh chọn một. Trong vài ngày, được hơn vạn quân. Nhà vua cho tổ chức một cuộc duyệt binh lớn rồi cưỡi voi ra an ủi và động viên tướng sĩ. Tuân lệnh vua, mấy vạn quân lính lập tức nhằm thẳng phương Bắc, lên đường.

 

 

 Đến 30 tháng Chạp, (tức 30 Tết) vua Quang Trung cho binh sĩ ăn Tết sớm rồi chia quân ra làm năm đạo. Nhà vua bàn kín với các tướng rằng đến tối sẽ tiếp tục tiến ra Thăng Long và tuyên bố ngày mồng 7 năm mới sẽ vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Đại binh Tây Sơn hành quân ròng rã suốt mấy ngày đêm. Khi đến sông Gián, nghĩa binh của triều đình nhà Lê trấn giữ đồn ở đó hoảng hốt bỏ chạy. Toán do thám của quân Thanh bị đuổi bắt và giết sạch nên lũ tướng giặc ở Thăng Long không hay biết tin tức gì cả. Nửa đêm ngày mồng 3 tháng Giêng năm Kỉ Dậu (1789), đạo quân của vua Quang Trung đã tới làng Hà Hồi. Nhà vua cho quân lặng lẽ bao vây kín rồi bắc loa truyền gọi. Tiếng quân lính dạ ran làm cho lũ giặc Thanh đóng trong đồn khiếp vía, vội vã ra hàng. Tất cả lương thực, khí giới đều bị quân ta lấy mất.
Quang Trung sáng suốt nghĩ ra mưu kế dùng ván bọc rơm ướt làm thành hai mươi tấm chắn lớn. Cứ mười người khênh một bức, áp sát đồn giặc. Quân Thanh nổ súng bắn ra nhưng chẳng trúng một ai. Nhân có gió bắc chúng dùng ống phun khói lửa ra, khói tỏa mù trời hòng làm cho quân Nam rối loạn. Chẳng may gió bất chợt đổi chiều, thành ra quân Thanh lại tự hại mình. Đích thân vua Quang Trung đốc thúc quân sĩ tiến lên. Khi hai bên đã giáp nhau thì quăng tấm chắn xuống, nhất tề xông vào dùng đoản đao mà chém giết kẻ thù. Trước khí thế dung mãnh của quân ta, lũ giặc cướp nước kinh hoàng, giày xéo lên nhau mà chạy. Tên Thái thú Sầm Nghi Đống nhục nhã thắt cổ tự vẫn. Quân Tây Sơn thừa thắng truy đuổi. Xác giặc nằm ngổn ngang đầy đồng, máu chảy thành suối. Cũng trưa hôm ấy, vua Quang Trung, tiến binh đến Thăng Long. Tướng giặc là Tôn Sĩ Nghị và vua Lê Chiêu Thống vì không hề hay biết gì nên trong mấy ngày Tết chỉ lo yến tiệc, vui chơi. Nghe tin cấp báo, Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, vội dẫn đoàn kị mã tuỳ tùng chuồn trước qua cầu phao, nhằm hướng bắc mà phi thục mạng. Quân lính các đồn nghe tin cũng sợ mất mật, cuống cuồng tháo chạy đến nỗi cầu phao đứt, chúng bị ngã xuống sông nhiều không biết bao nhiêu mà kể. Sông Nhị Hà tắc nghẽn cả một đoạn dài. Số sống sót cắm đầu cắm cồ chạy về nước, chẳng dám nghỉ ngơi. Quân Thanh đại bại. Như vậy là đạo binh của vua Quang Trung sau cuộc hành quân thần tốc 5 ngày đã quét sạch mấy chục vạn quân Thanh ra khỏi bờ cõi, sớm hơn dự định được hai ngày. Với tài năng quân sự kiệt xuất, Nguyễn Huệ xứng đáng là vị anh hùng mà tên tuổi đời đời sống mãi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Từ đó đến nay, mồng 5 Tết được coi là ngày giỗ trận, kỉ niệm trận đánh oanh liệt năm xưa. Gò Đống Đa, đền thờ vua Quang Trung luôn khơi dậy trong mỗi người dân Việt Nam niềm tự hào to lớn về chiến công hiển hách của người anh hùng đất Tây Sơn. Đúng như lời thơ của công chúa Ngọc Hân đã ca ngợi: Mà nay áo vải cờ đào,Giúp dân dựng nước, xiết bao công trình! 
Bình luận (2)
Linh Phương
30 tháng 9 2016 lúc 21:14

+Quang Trung 1 vị tướng tài ba với tài cầm quân đầy mưu lược đc thế hiện rõ nét qua trận đánh thần tốc đại phá 

|+quân thanh từ tối 30 tết -> mồng 3 tháng giêng năm kỉ dậu . Tối đêm 30 đó vua "mở tiệc khao quân " chia 

+thành 5 đạo chỉ huy tác chiến rồi "lập tức lên đường " .Quang Trug cho vây bắt bọn báo tin "ko để tên 

+nào trốn thoát " nửa đêm ngày 3 tháng giêng năm kỉ dậu , vua cho quân lặng lẽ vây kín Hà Hồi bắt và cướp hết 

+lương thực khí giới . Cùng với sự sắc sảo và nhạy bén , Quang Trung đã cho bày binh bố trận hình chữ " nhất" 

+đánh ấp địch . Với trí thông minh biết nhìn xa trông rộng , Nguyễn huệ đã làm quân thanh rối loạn " tự làm hại mình "

+và quân ta thừa thắng xôg lên , quân Thanh khó lòng trốn thoát " bỏ chạy toán loạn " , giày xéo lên nhau mà chết "

+.Nhờ uy dùng tài năng và quyết đoán , vua Quang Trung đã dẹp tan giặc thang đem lại hoà bình yên ổn cho 

muôn dân và đất nước ! 

Dựa vào đây em hãy viết thành 1 bài văn ngắn miêu tả lại chiến công thần tốc đại phá quân thanh nhé!. Chúc em học tốt!hihi

Bình luận (0)
Minh Thu
2 tháng 10 2016 lúc 18:34
Sau khi vua Lê Chiêu Thống cử người sang cầu viện triều đình Mãn Thanh, Tôn Sĩ Nghị kéo quân ồ ạt vào nước ta với ý đồ xâm lược rõ ràng. Từ cửa ải phía Bắc, chúng tiến thẳng xuống Thăng Long mà không gặp một trở ngại nào nên sinh ra kiêu căng, tự mãn. Điều đó làm cho vua tôi Lê Chiêu Thống vốn biết rõ tài cầm quân của Nguyễn Huệ, rất lo lắng. Tướng Ngô Văn Sở lúc đó được giao nhiệm vụ trấn giữ Tam Điệp, ranh giới giữa Ninh Bình và Thanh Hoá vội cho các đạo quân Tây Sơn rút lui sau đó tức tốc sai Nguyễn Văn Tuyết phi ngựa trạm vào Nam cấp báo tình hình. Ngày 24 tháng 11, Tuyết đã vào đốn thành Phú Xuân. Bắc Bình Vương (tức Nguyễn Huệ) tiếp được tin báo, giận lắm, định thân chinh cầm quân đi ngay nhưng một số người khuyên ông hãy lên ngôi vua, ra lệnh ân xá khắp trong ngoài để thu phục nhân tâm rồi sau đó hãy cầm quân ra Bắc đánh dẹp kẻ thù cũng chưa muộn. 

Nguyễn Huệ cho là phải, bèn lập đàn trên núi Bân, tế cáo trời đất, chế ra áo côn, mũ miện rồi tuyên bố lên ngôi vua, lấy hiệu Quang Trung. Hôm ấy, nhằm ngày 25 tháng Chạp năm Mậu Thân (1788).

Vua Quang Trung trực tiếp đốc xuất đại binh, cả đường thủy lẫn đường bộ cùng ra đi. Ngày 29, ra đến Nghệ An, ông sai tướng Hám Hổ Hầu đi tuyển mộ lính mới, cứ ba tráng đinh chọn một. Trong vài ngày, được hơn vạn quân. Nhà vua cho tổ chức một cuộc duyệt binh lớn rồi cưỡi voi ra an ủi và động viên tướng sĩ. Tuân lệnh vua, mấy vạn quân lính lập tức nhằm thẳng phương Bắc, lên đường.

Bình luận (0)