Viết đoạn văn quy nạp nêu cảm nhận về thủ pháp nghệ thuật tương phản đối lập được sử dụng trong bài thơ " Ông đồ "
Viết đoạn văn quy nạp khoảng 10 câu nêu cảm nhận của em về khổ thơ 3 và 4 của bài thơ "Ông đồ" (thời suy tàn của ông đồ). Trong đoạn văn có sử dụng 1 câu ghép.
Giúp mình với ạ. Mình đang cần gấp!!
5. Viết đoạn văn theo cấu trúc quy nạp khoảng 12 câu nêu cảm nhận của em về khổ 4 bài thơ ông đồ. Trong đoạn văn có sử dụng một câu cầu khiến, một thán từ ( Chú thích rõ).
Viết 1 đoạn văn 12 câu theo cách quy nạp, nêu cảm nhận của em về khổ thơ thư 3,4 bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên. Trong đoạn văn có sử dụng 1 câu bị động, và 1 câu cảm thán. Gạch chân và chú thích rõ
Tham khảo
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu...
Khổ thơ là một sự hụt hẫng trong ánh mắt kiếm tìm: “Người thuê viết nay đâu?”, là nhịp thời gian khắc khoải đến đau lòng: “mỗi năm mỗi vắng”. Thật! Sự tàn lụi của nền văn hoá Nho học là một điều tất yếu, cái mới sẽ thay thế cái cũ, ánh hào quang nào trước sau cũng dần một tắt, bị lãng quên, thờ ơ trong dòng đời vất vả với những kế mưu sinh, nhưng hiện thực phũ phàng cũng khiến cho lớp hậu sinh như Vũ Đình Liên không khỏi ái ngại, tiếc thương khi trước mặt mình là một cảnh vật hoang vắng, đượm buồn. Trong sắc phai bẽ bàng của giấy, sự kết đọng lạnh lòng của mực tự thân nó đã dâng lên một nỗi buồn tủi. Là ngoại cảnh nhưng cũng là tâm cảnh, một nỗi buồn thắm thía, khiến cho những vật vô tri vô giác cũng nhuốm sầu như chủ nhân của chúng “một mình mình biết, một mình mình buồn”, “trĩu nặng những ưu tư, xót xa trước thời thế đổi thay”. Bài thơ Ông đồ như muốn nhắc nhở chúng ta đừng nên lãng quên quá khứ, hãy biết trân trọng và gìn giữ những giá trị đẹp đẽ của văn hóa, tinh thần để không phải hối tiếc, ân hận.
Cho câu thơ:
"Vân xem trang trọng khác vời"
Câu 1: Hãy chép tiếp 3 câu thơ tiếp theo.
Câu 2: Phân tích biện pháp nghệ thuật sử dụng trong câu thơ: "Hoa cười ngọc thốt đoan trang".
Câu 3: Viết đoạn văn theo phương thức quy nạp (10 câu) nêu cảm nhận về vẻ đẹp của Thúy Vân trong đoạn trích vừa chép thơ. Trong bài viết có sử dụng lời dẫn trực tiếp và phép nối.
Câu 1:
"Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da."
Tham khảo:
Câu 2:
Biện pháp ước lệ tượng trưng trong câu thơ “Hoa cười ngọc thốt đoan trang”. Vẻ đẹp của Vân được so sánh với những điều đẹp đẽ nhất của tự nhiên: hoa, ngọc. Thúy Vân hiện lên với vẻ đẹp nền nã, hiền dịu, quý phái.
Câu 3:
Sau khi miêu tả vẻ đẹp chung của 2 chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du hướng ngòi bút sang miêu tả vẻ đẹp riêng của Thúy Vân. Vẻ đẹp của Thúy Vân hiện ra trước mắt người đọc là một vẻ đẹp đoan trang quý phái, phúc hậu. “Vân xem …. màu da”, bức chân dung Thúy Vân được hiện lên cụ thể chân thực . Nguyễn Du đã vẽ thật chi tiết, cụ thể bằng việc liệt kê khuôn mặt, nét lông mày, nụ cười bằng biện pháp ước lệ tượng trưng những hình ảnh thiên nhiên đẹp nhất như: Trăng, mây, tuyết, hoa, ngọc . Khuôn mặt nàng đầy đặn tươi sáng đẹp rạng ngời như ánh trăng, miệng cười tươi như hoa , tiếng nói trong như ngọc, mái tóc óng ả, mềm mượt như mây , da trắng mịn màng như tuyết. Tác giả miêu tả kỹ lưỡng vẻ đẹp của nàng qua biện pháp so sánh, ẩn dụ. Dường như thiên nhiên có bao nhiêu cái đẹp thì Nguyễn Du hội tụ tất cả vẻ đẹp ấy để hoàn thiện bức chân dung Thuý Vân. Nguyễn Du đã tuyệt đối hóa vẻ đẹp của Thúy Vân. Nhưng cái tài của ông là thông qua hai từ “thua, nhường” , ông ngầm dự báo về tương lai số phận của nàng. Nàng đẹp hài hoà với thiên nhiên nên chắc hẳn cuộc đời sẽ bình yên, suôn sẻ, không sóng gió. Tóm lại, vẻ đẹp của Vân là vẻ đẹp đằm thắm, đoan trang và phúc hậu.
- Lời trực tiếp được đặt trong dấu ngoặc kép là: “Vân xem …. màu da”
- Phép nối: "Nhưng"
chỉ ra các biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong hai câu thơ đầu của bài văn Cảnh khuya viết một đoạn văn ngắn (khoảng 7) câu nêu cảm nhận của em về nghệ thuật và nội dung của hai câu thơ đầu cảnh bài Cảnh Khuya
viết đoạn văn khoảng 12-15 câu theo phương thức quy nạp nêu cảm nhận về khổ thơ cuối của bài thơ: "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" . Trong đoạn văn có sử dụng câu ghép
viết đoạn văn từ 10 đến 12 câu theo cách quy nạp nêu cảm nhận của em về khổ thơ 1 và khổ thơ 2 của bài thơ "Ông đồ"
Tham Khảo
Bài thơ Ông đồ là một bài thơ chứa đầy hàm súc, là sự tiếc nuối của tác giả về một nền văn học đã từng rất rực rỡ. Ở hai khổ thơ đầu, tác giả đã tái hiện lại không khí ngày tết xưa khi ông đồ còn được trọng dụng, Khi tết đến xuân về, hoa đào đua nhau khoe sắc thắm, phố phường đông vui, tấp nập và ông đồ xuất hiện bên hè phố bán đôi câu đối để mọi người trưng trong nhà như một văn hóa không thể thiếu ngày đầu năm mới. Những nét chữ thanh thoát như phượng múa rồng bay, gửi gắm cả tâm hồn và tấm lòng người viết. Thế nhưng, theo thời gian, phong tục treo câu đối ngày tết không còn được ưa chuộng. Từ “nhưng” như nốt trầm trong khúc ca ngày xuân, cho thấy sự thay đổi trong bước đi chầm chậm của thời gian. Người tri âm xưa nay đã là khách qua đường. Niềm vui nhỏ nhoi của ông đồ là được mang nét chữ của mình đem lại chút vui cho mọi người trong dịp tết đến xuân về nay đã không còn. Nỗi buồn của lòng người khiến những vật vô tri vô giác như giấy đỏ, bút nghiên cũng thấm thía nỗi xót xa. Hình ảnh ông đồ xưa vốn gắn với nét đẹp truyền thống về nền văn hóa nho học, nay dần bị lãng quên “Lá vàng bay trên giấy/Ngoài trời mưa bụi bay”. Ông vẫn ngồi đấy nhưng chẳng mấy ai còn để ý, lá vàng rơi giữa ngày xuân trên trang giấy nhạt phai như dấu chấm hết cho sự sinh sôi. Hạt mưa bụi nhạt nhòa bay trong cái se lạnh như khóc thương, tiễn biệt cho một thời đại đang dần trôi vào dĩ vãng. Ta như cảm nhận được qua tứ thơ là tâm trạng của thi nhân, phảng phất một nỗi xót thương, nỗi niềm hoài cổ nhớ tiếc của nhà thơ cho một thời đã qua. Và câu hỏi cuối bài thơ như lời tự vấn cũng là hỏi người, hỏi vọng về quá khứ với bao ngậm ngùi “Những người muôn năm cũ/Hồn ở đâu bây giờ?”. Ông đồ vắng bóng không chỉ khép lại một thời đại của quá khứ, đó còn là sự mai một truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Bài thơ đã chạm đến những rung cảm của lòng người, để lại những suy ngẫm sâu sắc với mỗi người.
: Chép lại khổ thơ thứ 3 trong bài thơ “Ông đồ” của tác giả Vũ Đình Liên. Trình bày cảm nhận của em về khổ thơ đó bằng một đoạn văn quy nạp khoảng 12 câu, trong đoạn văn có sử dụng câu cảm thán – gạch chân.
Tham khảo
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu...
Khổ thơ là một sự hụt hẫng trong ánh mắt kiếm tìm: “Người thuê viết nay đâu?”, là nhịp thời gian khắc khoải đến đau lòng: “mỗi năm mỗi vắng”. Thật! Sự tàn lụi của nền văn hoá Nho học là một điều tất yếu, cái mới sẽ thay thế cái cũ, ánh hào quang nào trước sau cũng dần một tắt, bị lãng quên, thờ ơ trong dòng đời vất vả với những kế mưu sinh, nhưng hiện thực phũ phàng cũng khiến cho lớp hậu sinh như Vũ Đình Liên không khỏi ái ngại, tiếc thương khi trước mặt mình là một cảnh vật hoang vắng, đượm buồn. Trong sắc phai bẽ bàng của giấy, sự kết đọng lạnh lòng của mực tự thân nó đã dâng lên một nỗi buồn tủi. Là ngoại cảnh nhưng cũng là tâm cảnh, một nỗi buồn thắm thía, khiến cho những vật vô tri vô giác cũng nhuốm sầu như chủ nhân của chúng “một mình mình biết, một mình mình buồn”, “trĩu nặng những ưu tư, xót xa trước thời thế đổi thay”. Bài thơ Ông đồ như muốn nhắc nhở chúng ta đừng nên lãng quên quá khứ, hãy biết trân trọng và gìn giữ những giá trị đẹp đẽ của văn hóa, tinh thần để không phải hối tiếc, ân hận.
viết đoạn văn quy nạp nêu cảm nhận của em về khổ thơ thứ 3 bài thơ ánh trăng; trong đó có sử dụng 1 câu hỏi tu từ; một thành phần biệt lập tình thái; một câu phủ định; một phép thế