Những câu hỏi liên quan
Van Phuong Thao
Xem chi tiết
Team Free Fire 💔 Tớ Đan...
20 tháng 2 2020 lúc 11:34

Là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước, Phạm Tiến Duật đem đến cho người đọc sự vui tươi, hồn nhiên, tinh nghịch trong thơ ông. Bài thơ về tiểu đội xe không kính có giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, dí dỏm làm nổi bật hình ảnh những anh chiến sĩ lái xe Trường Sơn ngang tàng, ung dung và lạc quan yêu đời.

Không như các nhà thơ khác, Phạm Tiến Duật đã thể hiện tính cách khác người của mình ngay ở hai câu thơ mở đầu. Không mĩ lệ hoá, không dùng hình ảnh thiên nhiên đẹp đẽ để so sánh, không trau chuốt, không bóng bẩy, hình ảnh chiếc xe trong thơ Phạm Tiến Duật rất trần trụi, bình dị, không nguyên vẹn:

Không có kính không phải vì xe không có kính.

Đơn giản là vì Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi nên xe không còn nguyên vẹn nữa. Thế nhưng, chiếc xe không kính ấy vẫn băng băng ra chiến trường.

Chiếc xe đầy tự tin, không hề lo sợ trước bom đạn khủng khiếp của giặc Mĩ. Khác với những gì trần trụi bên ngoài, đây là một chiếc xe dũng cảm, hiên ngang. Xe vẫn băng ra tiền tuyến trên những đoạn đường đầy hiểm nguy. Có khác chăng đó là hình tượng những anh chiến sĩ lái xe Trường Sơn. Vì xe không có kính nên các anh được tiếp xúc trực tiếp với thế giới bên ngoài. Gió, sao trời, cánh chim, và cả bầu trời rộng cũng ùa vào buồng lái, hoà cùng nhịp thở nhộn nhịp của các anh:

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.

Không có một sự ràng buộc hay rào cản nào ngăn cách các anh tiếp xúc với đất trời. Mà cả thiên nhiên cũng muốn hoà mình với khí thế ấy. Chính vì thế mà các anh có thể nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng một cách rất thoải mái, tự nhiên.

Không có kính thì điều kiện chiến đấu cũng thiếu thốn nhưng các anh vẫn yêu đời, vẫn tự tin vào chiến thắng. Các anh xem mọi trở ngại chỉ là dịp để thử thách bản thân:

Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già.
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau, mặt lấm, cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.

Điệp cấu trúc không có kính... ừ thì chưa cần thể hiện tính cách ngàng tàng, bất chấp tất cả khó khăn. Không có kính chắn bụi thì đương nhiên phải có bụi bám lên tóc, nhưng các anh vẫn không lo, cứ để vậy mà nhìn nhau, mặt lấm, cười ha ha. Không có kính che mưa thì dĩ nhiên phải ướt áo, dù áo ướt nhưng các anh cũng mặc kệ, cứ để vậy mà lái tiếp bởi mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi. Các anh vẫn giữ cái tư thế ấy, hiên ngang mà sao yêu đời quá đi thôi! Dù có thiếu thốn, cực khổ đến đâu, các anh vẫn yêu thương, chia sẻ cho nhau tình yêu thương:

Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.

Dường như trong chiến đấu gian khổ giúp chiến sĩ tôi rèn ý chí và giúp cho tình đồng đội của các anh thêm gắn bó, keo sơn. Dù vào sinh ra tử nhưng người lính vẫn hồn nhiên, vô tư và lạc quan tin tưởng. Chỉ một cái bắt tay qua khung kính vỡ rồi những cũng đủ gieo vào nhau những tình cảm tốt đẹp, các anh động viên nhau tiến bước quân hành. Tình cảm ấy đã làm các anh cảm thấy đầm ấm khi cùng chung tiểu đội:

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.

Tiểu đội của các anh như một gia đình vui vẻ, hạnh phúc. Ở đó có vẻ đẹp của sự sum họp, chan hoà. Các anh có chung một điểm tựa, tâm hồn nên gia đình ở chiến trường của các anh đều cùng chung một nhiệm vụ thiêng liêng. Các anh luôn tin tưởng vào tương lai đang chờ đợi phía trước. Câu thơ lại đi, lại đi trời xanh thêm với năm thanh bằng và điệp ngữ lại đi đã tạo nên một âm điệu thanh thản, nhẹ nhàng.

Điều làm nên sự chiến thắng của các anh chính là lòng yêu nước, là ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà:

Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cản trong xe có một trái tim.

Ở các anh có sự tương phản rõ rệt giữa vật chất và tinh thần, giữa bên ngoài và bên trong, giữa cái không có và cái có. Bom đạn kẻ thù đã làm cho xe không có rất nhiều. Không kính, không đèn, không mui nên chiếc xe đã trở nên trần trụi đến kì lạ, xe không còn nguyên vẹn... Nhưng một thứ rất cần mà các anh đã có, đó là trái tim yêu nước. Trái tim đầy nhiệt thành cách mạng, sẽ chiến thắng những thiếu thốn về vật chất. Trái tim yêu nước đã điều khiển chiếc xe không nguyên vẹn ấy băng về phía trước, nơi miền Nam ruột thịt. Sức mạnh để xe băng mình ra trận chính là sức mạnh của trái tim người lính.

Với chất liệu hiện thực độc đáo, bài thơ thể hiện hình ảnh hào hùng của chiếc xe không kính, qua đó khắc hoạ nổi bật hình ảnh cao quí của người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứa nước.

Qua bài thơ, ta càng thấy rõ phẩm chất của người lính Trường Sơn: mộc mạc, giản dị và vĩ đại. Chúng ta càng biết ơn các anh. Thế hệ trẻ Việt Nam nguyện tiếp bước các anh gìn giữ Tổ quốc Việt Nam mãi mãi trường tồn

Khách vãng lai đã xóa
Lưu Linh Nhiệm
Xem chi tiết
Đặng Hữu Thành Đạt
12 tháng 9 2021 lúc 10:21

vẻ đẹp tuyệt với 

Khách vãng lai đã xóa
Đặng Hữu Thành Đạt
12 tháng 9 2021 lúc 10:22

anh vào mạng cha

Khách vãng lai đã xóa
Quang Ngo
Xem chi tiết
A DUY
26 tháng 10 2023 lúc 21:25

Vào những đêm cuối năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, cái làng nhỏ bé nằm ven bờ con sông Đáy, Quang Dũng đã bồi hồi nhớ lại những kỷ niệm còn tươi nguyên. Năm ấy Quang Dũng là đội trưởng của đoàn quân Tây Tiến làm nhiệm vụ phối hợp với quân đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào, đánh địch trên những tuyến đường rừng núi Tây Bắc từ Lai Châu đến phía bắc Thanh Hóa. Những người lính trẻ của trung đoàn Tây Tiến sống vô cùng thiếu thốn và khổ cực, vì rừng thiêng nước độc, sốt rét hoành hành, thuốc men ít ỏi và vì dưới hành quân là trập trùng núi rừng hoang vu, lạnh lẽo, hiểm trở .

Những người lính Tây Tiến hầu hết là những anh thanh niên Hà Nội, phần đông là học sinh, tiểu tư sản trí thức, tuy phải chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ vẫn phơi phới tinh thần lãng mạn anh hùng lớn. Tác giả Quang Dũng viết bài thơ Tây Tiến năm 1918 trước đây đã lấy tên là “Nhớ Tây Tiến” để thể hiện nỗi nhớ và niềm yêu thương về một thời chiến đấu gian khổ mà hào hùng, dữ dội mà mê say quên mình.

 

Để khắc họa lên chân dung người lính, Quang Dũng đã sử dụng những chi tiết và hình ảnh thực của đoàn quân Tây Tiến nhưng những hình ảnh lại được diễn tả bằng bút pháp lãng mạn để tô đậm cái phi thường cái tài hoa, đem đến cho người đọc một vẻ đẹp rất độc đáo hiếm có của người lính trong một thời kì lịch sử oai hùng. Bài thơ đã được viết theo mạch cảm xúc nhớ thương nên nó có mở đầu bằng câu thơ biểu hiện nỗi nhớ ngày ấy.

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Hình ảnh con sông Mã anh hùng mở đầu bài thơ như hé mở cho người đọc có những câu chuyện oai hùng về binh đoàn Tây Tiến. Trên bước con đường ra trận, những người lính Tây Tiến có sông Mã đi cùng bởi vì vậy cũng thật tự nhiên mà ngay từ đầu bài thơ Quang Dũng gọi tên là “sông Mã”. Câu thơ cũng giống như một tiếng gọi tha thiết ám ảnh, về khoảng cách địa lý thì xa xôi vời vợi mà nỗi nhớ lại nơi luôn thường trực. Trong lòng câu thơ thứ hai này dùng hai chữ “nhớ”, lại được ngắt nhịp 4/3 để diễn tả tinh tế những thổn thức, mong mỏi và khao khát nhung nhớ của tác giả. Cái đặc sắc chính ở ba chữ “nhớ chơi vơi”, chữ “chơi vơi” làm cho người đọc có thể cảm nhận như lan tỏa vào không gian và thấm sâu vào lòng mỗi người, một chút chống chếnh, một chút hụt hẫng và một chút nao lòng. Nỗi nhớ Tây Tiến tưởng như xa nhưng lại hóa gần, tưởng dịu nhẹ mơn man nhưng lại có sức ám ảnh khôn xiết. Không những thế, người đọc còn như nghe đã được trong những chữ “nhớ chơi vơi” ấy âm hưởng sâu đậm của núi rừng, của sông suối Tây Tiến. Câu thơ reo vần “ơi” đã tạo ra được độ dịu nhẹ lâng lâng ở trong cảm xúc, ở đây cảm xúc nhớ thương giống như sợi tơ tình bện chặt lòng người. Và ngay sau đó nhà thơ đã cụ thể hóa nỗi nhớ của chính mình.

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Các địa danh Sài Khao và Mường Lát trong nỗi nhớ của Quang Dũng đã trở nên thân gần kỳ lạ, viết về hình ảnh đoàn quân mỏi là khi “Quang Dũng lại điểm thêm vào đó những hình ảnh “sương lấp”, “hoa về”, “đêm hơi”. Rõ ràng ở đây chất hiện thực đã đi liền với chất lãng mạn tạo nên những nét vẽ độc đáo về Tây Tiến.

Trong cảm xúc nhớ thương của nhà thơ là bức tranh Tây Tiến như được khoác sắc một màu huyền ảo, thơ mộng, giàu sắc thái lãng mạn khung cảnh rừng núi mà ở đoàn quân Tây Tiến đã bước chân qua vừa thơ mộng vừa hùng vĩ. Trong nỗi nhớ, những kỷ niệm còn tươi nguyên như thể sống dậy, nhà thơ nhớ đến hình ảnh thời gian khổ:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Hai câu thơ trên đã mang giá trị tạo hình cao diễn tả một cách cụ thể và sinh động nhất những gian khổ của những người lính Tây Tiến trên đường ra trận. Câu thơ thứ nhất dùng ngắt nhịp 4/3 và chủ yếu được gieo thanh trắc và đã gợi cho người đọc cảm nhận được về một sự trúc trắc gập ghềnh và đầy hiểm nguy. Những cái hay của câu thơ chính ở hai từ láy “khúc khuỷu, “thăm thẳm”, nó đã gợi cho người đọc những cảm nhận về một không gian được đã mở ra nhiều chiều; cao, rộng, sâu, xa và người đọc như sẻ chia được cùng với những người lính những vất vả, gian khó. Câu thơ thứ hai chữ “heo hút” đã được dùng rất đặc sắc, nó khác với hun hút và nếu “hun hút” gợi được độ sâu thì heo hút bản không giới hạn, từ heo hút không chỉ đã gợi ra độ sâu mà còn thêm cả một cảm giác hoang vắng, lạnh lẽo và hiu quạnh. Địa hình chiến đấu của những người lính Tây Tiến quả thực đầy gian khó nguy hiểm. Hơn thế nữa ba chữ “súng ngửi trời” đã được sử dụng thật độc đáo, nó cũng giống như hình ảnh “đầu súng trăng treo” của tác giả Chính Hữu bao trùm lên hình ảnh là một không gian tưởng tượng chừng lãng mạn, nhưng nó được bắt nguồn từ một cuộc sống hiện thực, từ con mắt tinh tế với ngòi bút đa tài của nhà thơ. Nhờ hình ảnh “súng ngửi trời”, câu thơ đã nói về những gian khổ vất vả nhưng lại làm ra sáng ngời lên khí phách ngạo nghễ và tư thế hiên rất ngang của con người, ngoài ra nó còn thể hiện được một chút dí dỏm tinh nghịch, một chút phong cách lính trẻ trung và lãng mạn. Giữa thiên nhiên hoang sơ vắng lạnh và hình ảnh con người không cảm thấy bé nhỏ và cô đơn mà lại khẳng định tư thế làm chủ, khẳng định bản lĩnh của chiến sĩ anh hùng và tinh thần lạc quan của nhiều con người. Không những thế, hình ảnh còn một thời gian khổ còn được biểu hiện qua những câu thơ:

 

Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Với hình ảnh “oai linh thác gầm thét”, “Mường Hịch cọp trêu người” là những người dẫn chứng sống động nhất về những gian khổ hiểm nguy mà người lính Tây Tiến đã đang phải trải qua khoảng thời gian “chiều chiều”, “đêm đêm” trở thành khoảng thời gian ước lệ, nó giống như một ám ảnh về Tây Tiến thời gian in sâu trong tiềm thức của chính tác giả ấy. Viết về những gian khổ của người lính quân đội, ngòi bút của Quang Dũng cũng ghi lại được những hình ảnh hết sức chân thực:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời

Bao nhiêu vất vả nhọc nhằn của những người lính được thể hiện qua hai chữ đó là “dãi dầu”. Tuy nhiên từ “dãi dầu” vẫn có thể giúp cho người đọc cảm nhận được chút phong trần của người lính trên con đường hành quân, phải chăng cũng vì thế hình ảnh của họ thấp thoáng bóng dáng của người chiến sĩ, chinh phu thuở nào. Qua chữ “bỏ quên đời” ta thấy khí phách bản lĩnh của người lính được ngời sáng từ chính những chuyển hiện thực tưởng chừng như gian khổ khốc liệt – một chút bất cần phó mặc nhưng cũng hơn hết là một trang trí nơi anh hùng, dẫu là mỏi mệt hay dầu là hy sinh thì họ vẫn sẽ coi những biểu hiện ấy rất đỗi nhẹ nhàng. Những người lính Tây Tiến khi chiến đấu hết mình thật anh dũng quả cảm nhưng những giây phút nghỉ ngơi của họ cũng đầy lãng mạn và mê say:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Họ đã bỏ lại sau lưng mình những hòn đạn, gạt bỏ những lo lắng và vất vả của cuộc chiến, giữa đời thường, người lính Tây Tiến đã hiện lên thật bình dị, gần gũi. Một buổi liên hoan bỗng chốc lại biến thành một ngày hội tưng bừng náo nhiệt qua những lăng kính lãng mạn của người chiến sĩ không gian của đêm hội đuốc hoa thật lãng mạn, rực rỡ, lung linh, câu thơ tràn đầy ánh sáng và màu sắc, trong thơ như có họa. Chữ “bừng” được dùng cũng rất hay, nó không chỉ là sự bùng lên của ánh sáng, của bó đuốc đêm hội mà chính là sự bùng lên của niềm vui và niềm say mê kiêu hãnh. Trong sự náo nức của đêm hội ấy những hình ảnh người em gái là hình ảnh trung tâm, bao nhiêu con mắt như đã đổ dồn về phía người em gái để mà kìa em xiêm áo đã tự bao giờ” — một cảm xúc ngạc nhiên đến sững sờ nhưng đã đi liền ngay sau đó là cảm xúc ngây ngất đắm đuối say mê. Từ Hán việt “xiêm áo” tạo ra một nét trang trọng, ở đây hình ảnh người em gái như đã được mỹ lệ hóa. Những chữ “tự bao giờ” như không giấu nổi được cảm xúc ngây ngất của những người lính Tây Tiến, họ ngỡ như là hình ảnh của đêm hội với người em gái ấy đã có từ rất lâu lắm để rồi bất chợt lại thấy được sự ngỡ ngàng. Bức tranh đêm hội đã được lung linh hóa, mỹ lệ hóa để rồi người đọc tưởng tượng ra người em gái ấy tựa như một nàng tiên bước ra từ cổ tích giữa hiện thực khốc liệt dữ dội người ta bắt gặp hình ảnh như là những huyền thoại, đây chính là sắc thái lãng mạn của bài thơ. Điểm thêm vào bức tranh đó là đêm hội ấy là hình ảnh của nhạc, của khèn và nhịp thơ đồng thời là nhịp của tiếng lòng náo nức mê say với tiếng nhạc của tâm hồn như lan đã tỏa ra từng câu chữ. Một thời mê say, lãng mạn của người lính Tây Tiến còn như được gọi nhắc qua hình ảnh rất đẹp đẽ:

 

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

Hình ảnh của những bữa cơm lên khói, hương vị của nếp xôi đã nồng nàn mà tha thiết như quyện chặt tâm hồn của người đi xa. Câu thơ đã chủ yếu gieo thanh bằng, tạo cảm xúc lâng lâng chơi vơi, một chút bâng khuâng và nhung nhớ, một chút da diết khắc khoải cũng làm nao lòng người khi nhớ về Tây Tiến. Viết về thời mê say ấy, tác giả Quang Dũng có những câu thơ rất đỗi tài hoa.

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Câu thơ thứ nhất được bẻ gãy làm đôi, gợi ra cái trập trùng và hiểm trở của núi rừng Tây Tiến. Còn câu thơ thứ hai giống một tiếng buông lơi thật dịu nhẹ chơi vơi. Câu thơ như đẩy tư duy người đọc về một hoài niệm nào đó đã quá xa vắng trong nỗi niềm của tác giả: tưởng là mơ hồ và không xác định, tưởng là vu vơ bất chợt nhưng lại cứ ám ảnh khắc khoải trong tâm trí tác giả, không những thế và câu thơ còn có tiết tấu giai điệu rất rõ thể hiện tính nhạc rất cao. Như vậy người chiến sĩ cũng chính là một người nghệ sĩ. Cuộc sống của thời kháng chiến không chỉ có gian khổ mất mát mà còn đẹp lung linh ở trong tâm hồn người lính. Chính cuộc sống này, cuộc sống đầy chất thơ mộng này, và đã xua tan đi những mỏi mệt gian lao trong đời sống chiến đấu của những người lính. Tiếp đó, mạch cảm xúc ấy đã có sự chuyển đổi: đang ở giọng náo nức giục giã và mê say chuyển sang giọng điệu trầm lắng, bâng khuâng pha một chút ít hoài niệm ngậm ngùi:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có thấy dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Hoài niệm ở đây của tác giả bắt đầu từ hình ảnh “chiều sương ấy”, không gian như thoáng phủ một nỗi buồn thật sự mênh mang. Chữ “ấy” có ý nghĩa định vị về mặt không gian như thể muốn đẩy những kỉ niệm lùi về một nơi rất xa, để nó giúp cho người đọc cảm nhận được khoảng cách vời vợi của nhớ và thương. Những câu thơ gợi đã nhiều hơn tả, các hình ảnh được gợi ra không phải là hình ảnh cụ thể chi tiết mà chi là dáng hình, rất khó định hình, khó nắm bắt. Nhà thơ ấy dường như không miêu tả cảnh mà còn chỉ gợi lại cái linh hồn của nó, hay là nói đúng hơn cảnh vật được nhìn qua lăng kính trong nhớ thương, không rõ nét, mờ ảo, hư hư thực thực. Không phải miêu tả lâu mà là những “hồn lau”, không phải miêu tả người mà mà cũng là “dáng người”, người đọc cảm nhận được một không gian hoang sơ vắng lặng đượm một nỗi buồn mênh mang. Đặc sắc nhất mà khổ thơ là việc sử dụng cấu trúc câu “có thấy” và “có nhớ”, Đây không chỉ câu hỏi má còn giống như một lời gợi nhắc, một lời nhắn nhủ vô cùng tha thiết ân tình. Phải chăng hồn lau, dáng người ấy đã trở thành những hình ảnh ám ảnh tâm hồn của tác giả, để rồi khi gợi nhắc về nó giống như một điểm nhấn xúc cảm. Đặc biệt, những sự biến đổi trong cách sử dụng các cụm từ “có thấy”, ”có nhớ” còn là sự thay đổi khác về giác quan, không chi là cái nhìn mà còn là những tâm hồn, trái tim được đánh thức. Câu thơ thứ tư khá độc đáo vì nó xuất hiện hình ảnh “nước lũ” đối lập với những hình ảnh “hoa đong đưa”: một bên là mạnh mẽ dữ dội, một bên là nhẹ nhàng thật khẽ thật êm. Có lẽ hình ảnh “hoa đong đưa” không còn là những hình ảnh tả thực mà đã trở thành hình ảnh diễn tả tâm trạng nỗi niềm tác giả. Từ láy “đong đưa” khác với “đu đưa”, nó không chỉ miêu tả dáng hình và sự chuyển động như là từ “đu đưa” mà đó còn là đầy tình ý, nó còn là sự đong đưa của ánh mắt hoài niệm mê say, đầy sắc thái lãng mạn và phong cách sáng tạo ra nghệ thuật độc đáo của Quang Dũng. Đọc Tây Tiến ta như sống lại một thời lửa cháy và cùng đoàn quân lừng tiếng đã đi vào lịch sử. Để khắc họa chân dung người lính nhà thơ ấy cũng đã sử dụng những chi tiết, hình ảnh thực của đoàn quân Tây Tiến những hình ảnh đó lại được diễn tả bằng bút pháp lãng mạn để tô đậm thêm cái phi thường, tài hoa, và đem đến cho người đọc một vẻ đẹp độc đáo hiếm có của người lính trong thời kỳ lịch sử:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Nhà thơ Quang Dũng đã gọi tên binh đoàn của mình bằng tên đó gọi khá thú vị “đoàn binh không mọc tóc”. Thật thú vị khi những con người ấy đã lấy chính hiện thực gian khổ khốc liệt để biến thành niềm kiêu hãnh, niềm tự tôn cho chính mình. Nhà thơ Phạm Tiến Duật cũng từng gọi tiểu đội của mình bằng cái tên bắt nguồn từ hiện thực cách thiếu thốn khắc nghiệt “tiểu đội xe không kính”, qua đó chúng ta thấy được tinh thần lạc quan với chất lính dí dỏm hài hước. Câu thơ thứ hai đã tạo ra hai vế đối lập: “quân xanh màu lá” và “dữ oai hùm”, một bên là cái thiếu thốn khó khăn gian khổ còn một bên là khí phách anh hùng của người lính Tây Tiến. Ba tiếng “dữ oai hùm” đã tạo nên một âm hưởng mạnh mẽ hùng tráng cho câu thơ, người đọc đã cảm nhận được khí thế của đoàn quân bước ra trận, câu thơ ngắt nhịp mạnh đã tô đậm nét hùng dũng. Những người lính Tây Tiến ấy cũng là những người lắm mộng nhiều mơ và những người giàu khát vọng hoài bão. Đến đây nhà thơ cũng đã tạo ra nét vẽ chân thực về hình ảnh của người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Hai câu thơ trên đã nhấn mạnh chữ “mộng”, “mơ”. Từ “trừng“được dùng khá đặc sắc, nó cho thấy biết bao nhiêu tâm nguyện, bao nhiêu khát vọng hoài bão tự đáy lòng đều đã dâng cả lên trên ánh mắt. “Mắt trừng” chỉ một hành động mạnh và nhưng không phải là trừng trị, dọa nạt mà là cái nhìn đau đáu và khôn nguôi thể hiện những nhung nhớ, ước ao khắc khoải. Chữ “mộng” đã khiến cho câu thơ như bị trùng xuống, ẩn chứa cảm xúc bâng khuâng. Câu thơ của tác giả Quang Dũng gợi nhắc người đọc tới một câu thơ của nhà thơ Nguyễn Đình Thi: “Những đêm dài hành quân nung nấu – Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu. Nỗi nhớ người yêu và nhớ “dáng kiều thơm” nào đó thật đời thường và bình dị nhưng cũng thật cao quý. Nó đã khiến cho hình ảnh người lính đã trở nên chân thực gần gũi hơn. Nỗi nhớ ấy trong hành trang của họ như được tiếp thêm sức mạnh nghị lực để chiến đấu và chiến thắng, và nó như một điểm tựa vững chắc cho những thanh niên học sinh chốn Hà Nội rời ghế nhà trường để tham gia chiến trận – những con người “lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa”.

Những người lính Tây Tiến đã sống anh hùng mà chết cùng anh hùng:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Cái độc đáo ở đây là nhà thơ viết về sự một sự ra đi của họ nhưng không tô đậm sự sầu thương bị lụy sự ai oán não nùng mà đã nhấn mạnh dũng khí hùng tráng, khí phách anh hùng. Sau những câu thơ rắn rỏi ấy, đẹp đẽ đến đây âm điệu câu thơ cũng chợt trầm và trùng xuống, nó cũng giống như một thước phim quay chậm.

Còn gì thiêng liêng hơn và cao cả hơn sự hi sinh, sự chấp nhận gian khổ của những người lính. Trên con đường hành quân người chiến sĩ Tây Tiến gặp biết bao mồ viễn xứ của một trong những kẻ chết xa quê. Những người chiến sĩ của chúng ta nhìn với ánh mắt bình thản bởi họ đã chấp nhận điều đó. Nếu câu thứ nhất tô đậm nên cái “Bi” thì câu thứ hai tô đậm nét “Tráng” và “Hùng”. Câu thơ thứ hai cũng giống như một cái hất đầu ngạo nghễ của anh lính trẻ Tây Tiến: bất chấp khó khăn, bỏ mặc chết chóc và hiểm nguy cận kề, những người lính Tây Tiến vẫn kiên định trong ý chí, vô cùng dũng cảm trong hành động, ngạo nghễ trong khí phách người anh hùng dân tộc. Tác giả đã mượn hình ảnh “áo bào” để gợi tả cái sự ra đi của những người lính. Đặc biệt nó còn gắn bó với hình ảnh thiêng liêng và tạo ra sắc thái trang trọng, và giảm bớt nỗi buồn thương bị lụy. Nó cũng tạo ra một hình ảnh hết sức cảm động, giống như sự sẻ chia đồng cảm của tác giả đối với những con người lính Tây Tiến. Câu thơ tiếp đã để lại xuất hiện hình ảnh sông Mã – chứng nhân lịch sử. Sông Mã tấu lên “khúc độc hành” – khúc ca đã đơn độc buồn thương. Chữ “gầm” – biện pháp nhân hóa, nồi nhớ thương của những lòng người như hóa thân vào một nỗi nhớ thương của dòng sông hay dòng sông ấy vẫn đang chở đi những khúc ca đã đau đớn của con người. “Anh về đất” là hóa thân cho dáng hình xứ sở và thực hiện xong nghĩa vụ quang vinh của chính mình. Tiếng gầm của dòng sông Mã về xuôi như loạt đại bác rền vang, vĩnh biệt người con yêu dấu của giống nòi. Cuối cùng, sau khi hồi tưởng lại bình ảnh đoàn binh Tây Tiến một đã thời mê say lãng mạn, tác giả Quang Dũng đã bộc lộ nỗi niềm mong ước gặp lại Tây Tiến:

Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi

Câu thơ trên đã trở về với mạch cảm xúc chung của bài thơ, cảm xúc thương nhớ và nhưng vẫn mang trong nó âm hưởng tráng trí vang ngất ngời. Câu thơ nói đã về biệt ly, về xa cách, có ngậm ngùi nuối tiếc nhưng vần đầy những dũng khí, quyết tâm. Khoảng cách càng xa thăm thẳm thì nỗi nhớ trở nên vời vợi bởi xa Tây Tiến không biết bao giờ mới được gặp lại. Người đọc đã cảm thấy nồi nhớ thương như là đang đầy cả câu thơ trên. Hai câu cuối, với giọng điệu và mạch cảm xúc có sự chuyển hướng: câu thơ cũng giống như một lời mời gọi, một lời nhắn nhủ và ước hẹn tha thiết ân tình. Phải chăng đây là lời hẹn gặp mà Tây Tiến vào mùa xuân – mùa xuân của hội ngộ, của chiến thắng oanh liệt. Điều đó chứng tỏ tác giả đã mong ngày gặp lại Tây Tiến và trở về Tây Tiến chính là ngày mà chiến thắng. Câu thơ kết vang lên kiêu hãnh như một lời thề, với lời hứa quyết tâm. Từ nồi nhớ về một đoàn binh, rồi về những con người cụ thể đã hóa thân thành một nỗi nhớ về một mảnh đất, một quê hương, Tây Tiến cũng đã trở thành nỗi nhớ, với niềm yêu tha thiết của Quang Dũng.

Nhà phê bình Phong Lan đã nhận định: “Tây Tiến là một tượng đài bất tử về người lính vô danh” – bất tử bởi chính vẻ đẹp hào hoa và hào hùng bi tráng. Vì vậy, người lính Tây Tiến Cũng qua bài thơ cùng tên của tác giả Quang Dũng sẽ sống mãi trong cõi vĩnh hằng, trong thế giới nhân sinh.

Nguyễn Khánh Linh
Xem chi tiết
Phùng Kim Thanh
12 tháng 10 2021 lúc 17:21

thế là viết cụ thể về cái j đó bạn

PTTD
Xem chi tiết
phong duat
27 tháng 10 2021 lúc 21:28
Thế hệ trẻ thời kháng chiến chống Mĩ qua hình ảnh người lính trong bài thơ là những con người hiên ngang dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm, luôn tiến lên phía trước vì mục đích và lý tưởng cao đẹp. Đồng thời những người chiến sĩ ấy còn là những con người trẻ trung tinh nghịch, hóm hỉnh, yêu đời, dù đứng trước nhiều hiểm nguy, khó khăn. Họ đã để lại cho chúng ta ấn tượng đẹp về anh bộ đội cụ Hồ.So sánh với hình ảnh người lính trong bài thơ Đồng chí, ta thấy họ đều toát lên vẻ đẹp của những người lính. Khi Tổ quốc cần, họ sẵn sàng ra trận chiến đấu. Ở họ là lòng dũng cảm, gạn dạ, tình yêu quê hương, đất nước, tình đồng chí đồng đội gắn bó.Điểm khác nhau là trong bài thơ Tiểu đội xe không kính, ta thấy được sự vui tươi, hóm hỉnh, sôi nổi của những người lính trẻ. Một tinh thần lạc quan cách mạng của người lính thời đại kháng chiến chống Mĩ.
Cao Đoàn
Xem chi tiết
05-9TC Lê Trùng Dương
Xem chi tiết
Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn Dĩnh
23 tháng 12 2017 lúc 16:00

1. Mở bài:

Tây Tiến là bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Quang Dũng. Bài thơ được Quang Dũng viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh khi ông đã xa đơn vị Tây Tiến một thời gian.

- Đoàn quân Tây Tiến được thành lập vào đầu năm 1947. Những người lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có cả học sinh, sinh viên.

- Đoạn thơ cần phân tích là đoạn thứ ba của bài thơ, trong đó Quang Dũng đã khắc họa hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến bằng bút pháp lãng mạn, thấm đẫm tinh thần bi tráng.

2. Thân bài:

a. Vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến:

   Hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn với khuynh hướng tô đậm những cái phi thường, sử dụng rộng rãi thủ pháp đối lập để tác động mạnh vào cảm quan người đọc, kích thích trí tưởng tượng phong phú của người đọc.

- Trong bài thơ, Quang Dũng đã tạo được một không khí, chuẩn bị cho sự xuất hiện trực tiếp của những người lính Tây Tiến ở đoạn thơ thứ ba này. Trên cái nền hoang vu hiểm trở vừa hùng vĩ vừa dữ dội khác thường của núi rừng (ở đoạn một), và duyên dáng, mĩ lệ, thơ mộng của Tây Bắc (ở đoạn hai), đến đoạn thơ thứ ba, hình ảnh những người lính Tây Tiến trực tiếp xuất hiện với một vẻ đẹp độc đáo và kì lạ:

Tây Tiến đoàn binh không mc tóc ....Đêm mơ Hà Ni dáng kiu thơm

- Quang Dũng đã chọn lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể đặng khái quát những gương mặt chung của cả đoàn quân. Qua ngòi bút của ông, những người lính Tây Tiến hiện ra đầy oai phong và dữ dội khác thường. Thực tế gian khổ thiếu thốn đã làm cho người lính da dẻ xanh xao, sốt rét làm họ trụi cả tóc. Quang Dũng không hề che giấu những sự thực tàn khốc đó. Song, cái nhìn lãng mạn của ông đã thấy họ ốm mà không yếu, đã nhìn thấy bên trong cái hình hài tiều tụy của họ chứa đựng một sức mạnh phi thường. Và ngòi bút lãng mạn của ông đã biến họ thành những bức chân dung lẫm liệt, oai hùng. Cái vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính, qua cái nhìn của ông, vẫn toát lên cái oai phong của những con hổ nơi rừng thiêng. Cái vẻ oai phong, lẫm liệt ấy còn được thể hiện quan ánh mắt giận dữ (mắt trừng gửi mộng) của họ ...

- Cái nhìn nhiều chiều của Quang Dũng đã giúp ông nhìn thấy xuyên qua cái vẻ oai hùng, dữ dằn bề ngoài của những người lính Tây Tiến là những tâm hồn còn rất trẻ, những trái tim rạo rực, khao khát yêu đương (Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm).

   Như vậy, trong bốn câu thơ trên, Quang Dũng đã tạc lên bức tượng đài tập thể những người lính Tây Tiến không chỉ bằng những đường nét khắc họa dáng vẻ bề ngoài mà con thể hiện được cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ.

b. Chất bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến:

- Khi viết về những người lính Tây Tiến, Quang Dũng đã nói tới cái chết, sự hi sinh nhưng không gây cảm giác bi lụy, tang thương. Cảm hứng lãng mạn đã khiến ngòi bút ông nói nhiều tới cái buồn, cái chết như là những chất liệu thẩm mỉ tạo nên cái đẹp mang chất bi hùng:

Ri rác biên cương m vin x ....Sông Mã gm lên khúc độc hành.

- Khi miêu tả những người lính Tây Tiến, ngòi bút của Quang Dũng không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi lụy. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của lí tưởng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến.

   Cái sự thật bi thảm những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả mảnh chiếu che thân, qua cái nhìn của nhà thơ, lại được bọc trong những tấm ào bào sang trọng. Và rồi, cái bi thương ấy bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã:

Áo bào thay chiếu anh v đấtSông Mã gm lên khúc độc hành.

   Cái chết, sự hi sinh của những người lính Tây Tiến được nhà thơ miêu tả thật trang trọng. Cái chết ấy đã tạo được sự cảm thương sâu sắc ở thiên nhiên. Và dòng sông Mã đã trân trọng đưa tiễn linh hồn người lính bằng cách tấu lên khúc nhạc trầm hùng.

- Tóm lại, hình ảnh những người lính Tây Tiến trong đoạn thơ này thấm đẫm tính chất bi tráng, chói ngời vẻ đẹp lí tưởng, mang dáng vẻ của những anh hùng kiểu chinh phu thuở xưa một đi không trở lại.

3. Kết bài:

Tây Tiến là sự kết tinh những sắc thái vừa độc đáo vừa đa dạng của ngòi bút Quang Dũng. Nhà thơ đã sáng tạo được hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến, miêu tả được vẻ đẹp tinh thần của những con người tiêu biểu cho một thời kì lịch sử một đi không trở lại.

- Thơ ca kháng chiến chống Pháp đã miêu tả thành công hình ảnh người lính. Và Quang Dũng, qua bài thơ Tây Tiến nổi tiếng của mình, đã góp vào viện bảo tàng hình ảnh những người lính đó bức chân dung người lính Tây Tiến rất độc đáo của mình.

Phan Như Ý
Xem chi tiết
Kậu...chủ...nhỏ...!!!
29 tháng 11 2021 lúc 12:22

tham khảo:

Là những nhà thơ quân đội trưởng thành trong cuộc chiến tranh để bảo vệ Tổ quốc, Chính Hữu và Phạm Tiến Duật đã từng trải và thấu hiểu những nỗi gian khổ, vất vả của người lính. Bàn tay các anh đã từng cầm súng chiến đấu và cũng đã từng viết nhiều bài thơ về họ - những người lính can trường, dũng cảm và có tình đồng đội cao. Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật đã khắc hoạ hình ảnh người lính có tinh thần và tâm hồn đẹp như thế đấy.

      Năm 1948, bài thơ Đồng chí ra đời và nhanh chóng được nhiều người yêu thích. Trong những năm bom đạn hiểm nguy nơi chiến trường, hình ảnh về người lính là biểu tượng đẹp nhất của cuộc sống và đã đi vào thơ của Chính Hữu một cách tự nhiên và đẹp đẽ. Không hẹn mà nên, những người lính gặp nhau tại một điểm: lòng yêu nước. Theo tiếng gọi cứu quốc thiêng liêng, họ tạm xa con trâu, cái cày, cầm súng đứng lên bảo vệ Tổ quốc. Không hề quen nhau, nhưng ánh sáng lí tưởng của cách mạng đã soi vào trái tim họ, để họ trở nên thân nhau hơn và có ý chí chiến đấu cao hơn. Cũng giống như những anh lính trong bài Nhớ của Hồng Nguyên:

                          Lột sắt đường tàu

                          Rèn thêm dao kiếm

                          Áo vải chân không

                          Đi lùng giặc đánh

      Trong điều kiện chiến đấu vô cùng gian khổ, thiếu thốn thì tinh thần chiến đấu của những người lính lại bùng lên mạnh mẽ, sục sôi khí thế. Họ không nề nguy hiểm, khó khăn, vẫn vững lòng cầm chắc tay súng để bảo vệ quê hương, đất nước. Họ sát cánh bên nhau cùng chiến đấu dũng cảm:

                          Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.

      Có khác gì đâu cái tinh thần đồng đội thiêng liêng ấy trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật:

                          Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi

      Không kể thiếu thốn, khó khăn, họ vẫn chấp nhận, vẫn vui vẻ lạc quan, yêu đời hơn. Cái bắt tay ấy là cả một tình đồng đội thiêng liêng, họ truyền cho nhau niềm tin chiến thắng, tình yêu và lòng dũng cảm ấy. Sống và chết, dường như trong tim mỗi người lính chiến đấu không hề có khái niệm ấy. Họ cầm súng, họ nhảy lên chiếc xe chuẩn bị lên đường và họ biết trước mắt họ là muôn vàn khó khăn nguy hiểm, vậy mà đâu đây vẫn có cái giọng điệu lạc quan, yêu đời, bất chấp mọi khó khăn nguy hiểm:

                          Ung dung buồng lái ta ngồi,

                          Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

      Họ vẫn có cái chí của người lính, họ không hề nguy hiểm, mặc những khó khăn của thời tiết của cuộc chiến, vẫn hướng trái tim về Tổ quốc:

                          Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

                          Chỉ cần trong xe có một trái tim.

      Nếu trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu, những người lính hiện lên với một tinh thần chiến đấu dũng cảm, tình đồng đội thiêng liêng, cao quý; thì ở trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật, ý thức giác ngộ cách mạng của những người lính cao hơn. Họ lạc quan yêu đời hơn. Hình ảnh những người lính hiện lên thật trẻ trung, sôi nổi, yêu đời hơn.

      Qua hai bài thơ, chúng ta càng hiểu rõ hơn về những người lính. Hình ảnh của họ hiện lên thật đẹp đẽ, họ chính là biểu tượng, là niềm tin, khát vọng của những người dân gửi gắm nơi họ. Với các anh, người đọc nhận thấy một ánh sáng lí tưởng cao đẹp và thiêng liêng vô cùng.

lạc lạc
29 tháng 11 2021 lúc 13:43

bn tham khaỏ

 

Dù đến từ những phương trời xa lạ nhưng họ gặp gỡ nhau ở điểm chung về trái tim yêu nước và lí tưởng chiến đấu, bảo vệ dân tộc. Nếu như hình ảnh “Súng bên súng” gợi lên sự tương đồng về lí tưởng, nhiệm vụ chiến đấu thì cách nói hoán dụ “đầu sát bên đầu” mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc diễn tả ý chí quyết tâm đánh đuổi thực dân Pháp của những người nông dân mặc áo lính. Đó là những điểm tựa tinh thần nâng đỡ tinh thần đồng đội, bồi đắp tình cảm “tri kỉ” của người lính trong những  năm tháng mưa bom bão đạnBức chân dung người lính còn được phác họa trong sự quyện hòa giữa chất hiện thực và cảm hứng lãng mạn thông qua hình ảnh “Đầu súng trăng treo” độc đáo. Giữa những đêm hành quân trong không gian “rừng hoang sương muối”, những người lính cầm chắc tay súng với tư thế chủ động, hiên ngang, vầng trăng như hạ thấp treo trên đầu mũi súng. Nếu như “súng” là biểu tượng cho sự tàn khốc của chiến tranh thì “trăng” là hình ảnh tượng trưng của hòa bình và chất lãng mạn. Bởi vậy, “đầu súng trăng treo” đã tạo nên những cảm nhận độc đáo về chiến tranh và hòa bình, chất hiện thực quyện hòa chất lãng mạn, góp phần làm nổi bật vẻ đẹp thi sĩ trong tâm hồn những người lính. Như vậy, qua bài thơ “Đồng chí”, tác giả Chính Hữu đã ngợi ca tình cảm đồng chí, đồng đội gắn bó thiêng liêng cao đẹp giữa những người lính cách mạng, tạo nên bức chân dung giản dị, chân thực về hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ.

Nếu “Đồng chí” được sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Pháp thì “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” ra đời vào năm 1969- thời điểm công cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta đang diễn ra vô cùng ác liệt. Trong tác phẩm, vẻ đẹp của người chiến sĩ được tác giả Phạm Tiến Duật tái hiện thông qua sự song hành, sóng đôi giữa hình ảnh những chiếc xe không kính và người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Bằng giọng điệu tự nhiên, tinh nghịch và ngôn ngữ đậm chất đời thường, nhà thơ đã đưa vào diễn đàn văn học Việt Nam hình ảnh những chiếc xe không kính độc đáo:

“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”

Qua việc sử dụng điệp từ “không” và lối nói khẩu ngữ, tác giả đã tái hiện một cách chân thực hình ảnh những chiếc xe không kính - biểu tượng cho sự tàn phá khốc liệt của bom đạn kẻ thù, đồng thời gợi nên sự gian truân, hiểm nguy trên đường ra mặt trận. Trong bối cảnh đó, hình ảnh người lính xuất hiện với tư thế hiên ngang:

“Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”

Tác giả đã vận dụng biện pháp đảo ngữ, đưa từ “ung dung” lên đầu câu thơ để nhấn mạnh phong thái điềm tĩnh trước những lửa đạn bom rơi. Điệp từ “nhìn” được nhắc lại ba lần gợi lên âm điệu ngân vang, diễn tả cái nhìn đầy khoáng đạt trước thiên nhiên, đất trời bao la của người lính lái xe. Qua khung cửa xe, họ ung dung đối diện với sự khắc nghiệt, tàn khốc của cuộc chiến:“gió vào xoa mắt đắng”, “sao trời”, “cánh chim” đột ngột như “sa”, “ùa” vào buồng lái. Họ chấp nhận những gian khổ bằng tinh thần coi thường, bất chấp mọi hiểm nguy:

“Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.

Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.”

Điệp cấu trúc câu “Không có… ừ thì” kết hợp với việc sử dụng kết cấu phủ định “Chưa có” đã làm nổi bật tinh thần lạc quan, sự ngang tàn, dũng cảm của người lính trước mọi khó khăn, gian khổ. Đồng thời, bài thơ còn khắc họa vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội của những người lính lái xe: “Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới - Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”. Hình ảnh chân thực đã gợi ra sự đồng cảm, sẻ chia sâu sắc giữa những người lính. Tình cảm gắn bó giữa họ được tạo nên bởi điểm chung về lí tưởng, mục đích chiến đấu:

“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim”

Cách nói hình ảnh “vì miền Nam phía trước” đã thể hiện niềm tin, tinh thần lạc quan của người lính về sự chiến thắng của nhân dân ta trong công cuộc giải phóng  miền Nam, thống nhất đất nước. Đồng thời, hình ảnh hoán dụ “một trái tim” đã làm nổi bật “trái tim cầm lái” luôn rực cháy ngọn lửa yêu nước và tinh thần chiến đấu bất khuất, kiên cường của người lính.

Như vậy, qua hai tác phẩm, chúng ta có thể thấy được vẻ đẹp chung của những người lính về lí tưởng chiến đấu, ý chí quyết tâm giải phóng dân tộc cùng tinh thần dũng cảm, yêu nước mãnh liệt, đồng thời, họ đều sử dụng sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội để vượt qua những năm tháng chiến tranh khốc liệt.Tuy nhiên, trong mỗi một thi phẩm, vẻ đẹp người lính lại được khám phá ở một phương diện riêng. Ở bài thơ “Đồng chí”, tác giả Chính Hữu khắc họa vẻ đẹp của người nông dân mặc áo lính thông qua sự mộc mạc, chân chất và sự quyện hòa giữa chất hiện thực - lãng mạn; còn trong tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, Phạm Tiến Duật đem đến bức chân dung người chiến sĩ lái xe trẻ trung, sôi nổi, ngang tàn qua cái nhìn đậm chất hiện thực về cuộc chiến tranh kháng chiến chống Mĩ của dân tộc.

Qua những gì đã phân tích, chúng ta có thể khẳng định rằng “Đồng chí” và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” đều khám phá, tái hiện và xây dựng thành công bức chân dung của những người lính với những vẻ đẹp, phẩm chất đáng quý, đáng trân trọng.