Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài

Những câu hỏi liên quan
Phạm Băng Băng
Xem chi tiết
Nguyễn Minh Huyền
25 tháng 12 2018 lúc 19:29

Được sống lại với những ký ức tươi đẹp ở chốn núi rừng hùng vĩ, hổ chợt nhận ra sự tầm thừơng giả dối của những khung cảnh nơi nó đang sống. Trong cái nhìn ngạo nghễ của hổ là những cảnh “không đời nào thay đổi”, những cảnh đơn điệu nhàm chán do con ngưới sửa sang và cố đòi “bắt chước”. Chúa tể rừng xanh đã tỏ thái độ khinh miệt, chán chường trước những cảnh vật nhỏ bé thấp kém của những sự giả dối nhân tạo. Đó không phải là nơi xứng đáng để sống của một đấng thống lĩnh. Dẫu có cố gắng sửa sang thì đó cũng chỉ là những “dải nước đen giả suối chẳng thông dòng” len dưới những “mô gò thấp kém”, là những “hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng” không có gì là “bí hiểm” “hoang vu”. Những cảnh sống ngụy tạo ấy khiến cho hổ càng tiếc nhớ chốn “ngàn năm cao cả âm u”.

Chán ghét cuộc sống thực tại, ôm niềm uất hận không nguôi, hổ khát khao một cuộc sống tự do mãnh liệt. Tất cả tâm tư tình cảm của hổ đều thuộc về nơi rừng thẳm ngàn năm âm u. Cũng qua đó, chúa sơn lâm đã gởi một lời nhắn tha thiết của mình về núi rừng. Dẫu là đang bị sa cơ nhưng hổ đã không giấu được niềm tự hào khi nói đến chốn “nước non hùng vĩ”. Giang sơn ấy là nơi hổ đã có những ngày tháng tươi đẹp, thoả chí vùng vẫy trong không gian riêng biệt thênh thang. Cho dù bây giờ sẽ chẳng bao giờ được sống lại ở những nơi xưa ấy nhưng hổ vẫn không bao giờ thôi nghĩ về “giấc mộng ngàn to lớn”. Vị chúa mất ngôi đã khẩn cầu để được mãi sống trong những ký ức, những hoài niệm của những vẻ đẹp một đi không trở lại:

Để hồn ta phảng phất được gần ngươi
Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi

Nỗi lòng của hổ là tâm sự của chàng thanh niên Thế Lữ.: mơ về cuộc sống tươi đẹp đã qua trong quá khứ. Đó cũng là tinh thần chung của hầu hết các bài thơ của Thế Lữ cũng như trong phong trào Thơ Mới, mang theo khát khao của con người muốn được sống chính là mình.
Nhớ Rừng không thể thoát ra khỏi nỗi buồn, “tâm bệnh của thời đại” bấy giờ. Nhưng bài thơ đặc sắc chính bởi vì tạo nên điểm gặp gỡ giữa sự u uất của người dân mất nước và tâm trạng bất hoà bất lực trước thực tại của thế hệ thanh niên trí thức tiểu tư sản. Qua đó khơi lên niềm khát khao tự do chính đáng.

Giàu cảm hứng lãng mạn và cảm xúc mãnh liệt, Nhớ Rừng đã lan toả một hồn thơ hối thúc và nhiều hình ảnh thơ đầy ấn tượng miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ của núi rừng. Thành công của Thế Lữ là đã thể hiện một trí tuởng tượng phong phú khi mượn hình ảnh con hổ trong vườn bách thú để nói hộ cho những tâm sự kín đáo sâu sắc của mình. Qua đó diễn tả nỗi chán ghét cảnh sống tù túng, đồng thời khơi lên tình cảm yêu nước của người dân thuở ấy.

Nguồn: hocsinhgioi

Thời Sênh
25 tháng 12 2018 lúc 19:30

Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu.

Lại trở về nỗi buồn đau và nỗi nhớ "cảnh nước non hùng vĩ". Chỉ còn biết nhắn gửi thiết tha và bồn chồn:

"Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!"

"Nhớ rừng" là bài thơ tuyệt bút. Nó được xếp vào loại 10 bài thơ hay nhất của Thơ mới. Hình tượng tráng lệ, kì vĩ. Lối diễn tả và sử dụng ngôn ngữ biến hóa. Chất nhạc đa thanh và phức điệu tạo nên những vần thơ du dương. Thơ nên họa nên nhạc như cuốn hút và làm mê say hồn ta.

Hình tượng chúa sơn lâm với nỗi nhớ rừng được nói đến với bao "lớp lớp sóng dồi". Trong nỗi đau sa cơ, thất thế có niềm kiêu hãnh tự hào. Bài thơ như một lời nhắn gửi thiết tha về tình yêu thương đất nước. Tư tưởng lớn nhất của bài thơ là nói lên cái giá tự do và khát vọng tự do.



Nguyễn Thảo My
25 tháng 12 2018 lúc 19:41

Nhớ rừng là một trong những bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Thế Lữ và của phong trào Thơ mới (1932-1941). Bài thơ ra đời giữa lúc cuộc bút chiến giữa thơ mới và thơ cũ đang diễn ra hết sức gay gắt. Và sự xuất hiện của Nhớ rừng trên thi đàn đã làm cho cả hàng ngủ thơ xưa phải tan vỡ (Hoài Thanh).

Cái gì đã làm cho bài thơ Nhớ rừng có một uy lực và sức mạnh diệu kì đến như vậy? Phải chăng một phần là do sự độc đáo trong bút pháp nghệ thuật lãng mạn của thi nhân?

Trước hết, ta hãy cùng nhau đọc lại bài thơ, để cho ngôn ngữ, nhạc điệu của bài thơ vang lên bên tai ta, để cho cảm xúc thơ tràn ngập lòng ta, để cho hình ảnh thơ hiện diện trong tâm trí ta, để cho hồn thơ lắng lại trong ta:

Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,
………………………………
Hỡi cảnh rừng ghè gớm của ta ơi!

Bài thơ được khơi nguồn từ một cảm hứng: cảm hứng lãng mạn. Cảm hứng lãng mạn trong Nhớ rừng thật mãnh Hệt và trở thành nguồn cảm hứng chủ đạo của cả bài thơ. Với cảm hứng lãng mạn, Thế Lữ đã khắc họa một hình tượng mang ý nghĩa biểu tượng: hình tượng con hổ. Nó có một vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn: Tuy thân tù hãm nhưng hồn vẫn sục sôi khát vọng tự do; bất hòa sâu sắc với thực tại tầm thường tù túng, nhân vật trữ tình tìm cách thoát li vào mộng tưởng, tìm đến với cái thế giới rộng lớn, cao cả, phi thường.

Mạch cảm xúc thơ cuồn cuộn tuôn trào. Từ cảm xúc uất hận, chán ngán:

Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua

Chuyển thành nỗi nhớ tiếc khôn nguôi thời oanh liệt oai hùng đã qua:

Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa.
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già
Nỗi nhớ tiếc càng ngày càng trở nên đau đớn xót xa:
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng,
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật
Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?

Bốn câu hỏi tu từ vang lên liên tiếp khiến cho cảm xúc thơ càng thêm phần mãnh liệt, tác động mạnh mẽ tới cảm xúc của người đọc.
Từ cảm xúc nhớ tiếc da diết đến đau đớn, con hổ quay trở lại với tâm trạng chán ngán, u uất đến cao độ:

Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu

Càng uất hận, con hổ càng khát khao trở lại rừng thiêng:

Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,
Hỡi cảnh rừng ghế gớm của ta ơi!

Bài thơ đã khép lại mà mạch cảm xúc vẫn cuồn cuộn tuôn trào, chảy mãi trong lòng người đọc. Có thể nói, nguồn cảm xúc lãng mạn dồi dào, đã tạo nên sức hấp dẫn đầu tiên cho bài thơ.

Trong dòng cảm xúc lãng mạn của thi nhân, xuất hiện một hệ thống hình ảnh thơ mang một vẻ đẹp độc đáo, đầy ấn tượng. Đây là hình ảnh của cảnh sơn lâm hùng vĩ từ bóng cả cây giày đến tiếng gió gào ngàn, giọng nguồn hét núi…, cái gì cũng lớn lao, cũng phi thường. Giữa nền thiên nhiên hùng vĩ ấy, hình ảnh chúa sơn lâm hiện ra mang một vẻ đẹp kì vĩ, lẫm liệt:

Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc,
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.

Đặc biệt đoạn ba của bài thơ với những hình ảnh thể hiện sự sáng tạo nghệ thuật độc đáo, bất ngờ:

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn,
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng,
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt?

Đoạn thơ là một bộ tứ bình lộng lẫy. Đầu tiên là cảnh đêm trăng vàng bên bờ suối, con hổ say mồi đứng uống ánh trăng tan. Chao ôi, cảnh tượng thật lãng mạn và thơ mộng biết bao!

Nhân vật trữ tình đang thả hồn vào chốn thần tiên, say mê tận hưởng cái đẹp thanh cao của thiên nhiên. Trong tâm hồn nó, mọi nỗi ưu phiền dường như được rũ sạch. Bức tranh cuối cùng của bộ tứ bình vẫn lộng lẫy, nhưng không còn êm đềm thơ mộng nữa, mà trở nên dữ dội, bí hiểm với những mảng màu sắc rực rỡ, tạo ra những ấn tượng mạnh.

Hình ảnh thơ vừa tráng lệ, vừa giàu chất tạo hình, tạo nên nét đặc sắc trong bút pháp lãng mạn Thế Lữ .

Để diễn tả cảm xúc, tâm trạng của nhân vật trữ tình và khắc họa hình ảnh thơ, Thế Lữ rất chú ý tới chọn lựa ngôn ngữ. Những động từ gậm, gào, thét, quắc, ôm,… vừa giàu nhạc tính, vừa phù hợp với hình ảnh thơ, những tính từ: dõng dạc, đường hoàng, âm thầm, lênh láng,…vừa giàu chất tạo hình, vừa gợi cảm. Những điệp từ, điệp ngữ: Nào đâu, đâu, kết hợp với việc sử dụng liên tiếp các câu hỏi tu từ càng làm tăng thêm nỗi nhớ tiếc da diết khôn nguôi, nỗi đau xót đến tận cùng trong tâm trạng nhân vật trữ tình… Có thể nói, ngôn ngữ trong Nhớ rừng khá dồi dào và phong phú, thể hiện rất đát ý tưởng và cảm xúc thơ.

Bên cạnh việc lựa chọn ngôn ngữ, Thế Lữ cũng rất chú ý đến tiết tấu và nhịp điệu thơ. Tiết tấu và nhịp điệu thơ được sử dụng khá linh hoạt. Để diễn tả tâm trạng căm uất dằn vặt khi mới bị nhốt trong cũi sắt, tác giả sử dụng một câu thơ nhiều vần trắc: Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt, câu thứ hai chuyển sang nhiều thanh bằng, giọng trầm xuống, diễn tả nỗi buồn bã, chán ngán. Hoặc những câu thơ miêu tả hình ảnh con hổ đang tung hoành giữa thiên nhiên hùng vĩ, có những thanh bằng trắc xen kẽ nhau nhịp nhàng đã góp phần làm nổi bật lên hình tượng con hổ vừa uy nghi, dũng mãnh, vừa mềm mại, uyển chuyển. Những nhịp thơ dài, ngắn khác nhau rất phù hợp với sự thay đổi cảm xúc của con hổ. Tiết tấu và nhịp điệu ấy đã tạo nên những câu thơ rất giàu nhạc điệu.

Kết hợp với hình ảnh, ngôn ngữ , tiết tấu, nhạc điệu là giọng điệu của bài thơ. Giọng điệu thơ cũng khá phong phú, khi thì bực bội, dằn vặt, khi thì say sưa sảng khoái rất phù hợp với mạch cảm xúc trữ tình của bài thơ.

Tìm hiểu những nét đặc sắc nghệ thuật của bài thơ, ta thêm hiểu vì sao ngay sau khi Nhớ rừng vừa được đăng báo, nó đã được công chúng đón chào nồng nhiệt và được truyền bá rộng rãi.

Cíu iem
Xem chi tiết
Nguyễn Như Quỳnh
Xem chi tiết
Trần Khởi My
Xem chi tiết
Đào ngọc ánh
Xem chi tiết
Tuấn Nguyễn vinh
Xem chi tiết
Nguyễn Thị Phụng
Xem chi tiết
Thời Sênh
5 tháng 3 2019 lúc 20:18

Khổ thơ thứ ba là những cảm xúc của tác giả khi vào trong lăng, đứng trước di hài Bác. Bao tình cảm ấp ủ bấy lâu, nên khi bắt gặp bóng dáng thân yêu của Bác là trào dâng thổn thức. Hình ảnh Bác nằm trong lăng được diễn tả rất xúc động qua hai câu thơ:

Bác nằm trong lăng giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

Câu thơ gợi được sự yên tĩnh, trang nghiêm, ánh sáng dịu nhẹ trong lành và hình ảnh đẹp đẽ của Bác. Bằng tình cảm, nhà thơ thấy Bác như đang ngủ trong giấc ngủ bình yên giữa thiên nhiên đẹp và thơ mộng, Bác vẫn ở cùng ta, như nhà thơ Hải Như đã viết:

Suốt cuộc đời Bác có ngủ ngon đâu

Nay Bác ngủ chúng con canh giấc ngủ

(Chúng cháu canh giấc Bác ngủ, Bác Hồ ơi)

“Vầng trăng sáng dịu hiền” là ánh sáng của tình thương mến, nâng niu, vầng trăng ấy như ru Bác ngủ. Giấc ngủ của Bác là giấc ngủ trong tình thương yêu. Nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh cũng đã viết:

Trong lăng Bác vừa chợp nghỉ

Như sau mỗi việc làm.

Trăng ơi trăng biết thế

Nên trăng bước nhẹ nhàng.

(Trăng lên)

Hình ảnh vầng trăng dịu hiền cũng gợi nghĩ đến tâm hồn cao đẹp, sáng trong của Bác và những vần thơ tràn ngập ánh trăng của Người.

Đến đây, cảm xúc ngưỡng mộ như lắng xuống nhường chỗ cho nỗi xót đau không thể kìm nén:

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim!

“Trời xanh” cũng như “mặt trời”, “vầng trăng” là những hình ảnh của vũ trụ kì vĩ, vĩnh hằng, là ẩn dụ sâu xa gợi suy ngẫm về cái cao cả, vĩ đại, bất diệt, trường tồn ở Bác. Bác vẫn còn mãi với non sông đất nước, như trời xanh còn mãi (Bác sống như trời đất của ta Tố Hữu). Người đã hóa thân vào thiên nhiên, đất nước, dân tộc. Sự nghiệp của Người là bất tử. Dù vẫn tin như vậy, nhưng tình cảm xót thương không chấp nhận sự mất mát thực tế, trái tim vẫn đau nhói khi nghĩ rằng Bác không còn nữa. Nỗi đau xót được biểu hiện cụ thể, trực tiếp: "Mà sao nghe nhói ở trong tim”. Đó là nỗi đau vô hạn, là lòng thương xót rất thật, không lí do nào khuây khỏa được. Đó là tình cảm của đứa con về muộn bên di hài người



Blink
Xem chi tiết
︵✰Ah
20 tháng 1 2022 lúc 19:56

Tham Khảo

 Hổ vốn là loài vật được xem là chúa tể của muôn loài, nhưng nay vì sa cơ mà phải chịu sống cảnh “nhục nhằn” trong cũi sắt. Không gian cuộc sống của vị chúa tể rừng xanh đã bị thu hẹp và từ nay bị biến thành một “trò lạ mắt”, một “thứ đồ chơi” trong con mắt mọi người. Đối với nó, cuộc sống bây giờ đã trở nên vô vị nhạt nhẽo bởi đang phải sống nơi không tương xứng với tư cách của một vị chúa sơn lâm. 

Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt 

Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua 

     Hổ đã cảm thấy bất lực bởi chẳng có cách nào thoát khỏi cuộc sống tù túng nên cũng đành ngao ngán nhìn thời gian trôi qua một cách vô ích. Nhưng cho dù phải ở trong hoàn cảnh nào thì kẻ thuộc “giống hùm thiêng” cũng luôn biết thân phận thực sự của mình là một vị chúa. Ông ba – mươi đã tỏ thái độ khinh mạn, coi thường trước những sự thiếu hiểu biết về sức mạnh thật sự của thiên nhiên của những con người “ngạo mạn ngẩn ngơ” chỉ biết “giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm”. Chán nản làm sao cảnh phải chịu sống ngang bầy cùng với “bọn gấu dở hơi”, với “cặp báo chuồng bên vô tư lự”! Làm sao chịu được cảnh sống cam chịu chấp nhận số phận của những “người bạn” đồng cảnh ngộ. Đó là nỗi buồn, nỗi uất hận dồn nén để làm nên những hờn căm chất chứa trong lòng. Mệt mỏi, ngao ngán, bất lực! Trong hoàn cảnh đáng thương ấy, hổ đã nghĩ về cuộc sống quá khứ huy hoàng của mình: 

Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ 

Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa 

Nhớ cảnh sơn lâm bóng cả cây già 

Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi 

Với khi thét khúc trường ca dữ dội… 

     Con hổ đã tiếc nhớ về thuở “hống hách” nơi “bóng cả cây già”. Đó là nỗi nhớ đau đáu về nơi rừng thẳm. Nhớ rừng là tiếc nhớ tự do, nhớ về “thời oanh liệt”, là nhớ về cái cao cả, chân thực, tự nhiên . Ở chốn nước non hùng vĩ ấy, con hổ đang ngự trị một sức mạnh giữa cuộc đời. Bản lĩnh của một vị chúa sơn lâm luôn thể hiện xứng đáng quyền lực tối cao của mình với sức mạnh phi thường dữ dội. Những gì nó cần phải làm là khiến mọi vật đều phải nể sợ thuần phục.

Quoc Tran Anh Le
Xem chi tiết
Hà Quang Minh
27 tháng 12 2023 lúc 16:10

Những biện pháp tác giả đã sử dụng trong khổ thơ thứ hai và thứ tư:

- Biện pháp nhân hóa: Chim ơi, chim nói/ Chuyện chi, chuyện chi?/ Lòng vui bối rối; Lòng cho vui nhiều,...

- Biện pháp điệp từ: cao hoài - cao vợi

- Biện pháp so sánh: Tiếng hót long lanh như cành sương chói

- Biện pháp ẩn dụ: Tiếng ngọc trong veo/ Chim gieo từng chuỗi…

=> Chú chim cũng có cuộc sống, có tâm hồn, tình cảm như con người. Tiếng hót của chim chiền chiện gợi cảm giác về một cuộc sống yên bình, tự do, hạnh phúc; cuộc sống gần gũi với thiên nhiên và cũng là ước nguyện về một tương lai ấm no.