Những câu hỏi liên quan
Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn Dĩnh
29 tháng 12 2017 lúc 9:27

Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức của văn bản chặt chẽ, không tách rời. Nội dung phải được cụ thể hóa bằng hình thức cụ thể, gắn với nội dung nhất định

- Văn bản văn học cần có sự thống nhất giữa nội dung, tư tưởng cao đẹp, hình thức nghệ thuật hoàn mĩ → ý nghĩa quan trọng, tiêu chuẩn để đánh giá tác phẩm

- Trong quá trình phân tích, chú ý tới nội dung và hình thức, kết hợp cả hai yếu tố

Võ Thị Thùy Dung
Xem chi tiết
Võ Thị Hoài Linh
3 tháng 3 2016 lúc 15:10

1.Hoàn cảnh lịch sử Nguyễn Ái Quốc về nước triệu tập Hội nghị Trung ương đảng lần VIII

a.Thế giới:

-Sau khi chiếm phần lớn các nước Châu Âu, đức chuẩn bị tấn công Liên Xô.

-Nhật mở rộng xâm lược Trung Quốc và tiến sát biên giới Việt Trung *Tình hình thế giới có nhiều chuyển biến mới.Thế giới hình thành hai trân tuyến: Một bên là các lực lượng dân chủ do Liên Xô đứng đầu; một bên là khối phát xít do đức đứng đầu làm cho tính chất của cuộc chiến tranh thay đổi.

b.Trong nước:

-Nhân dân ta đều rên xiết dưới hai tầng áp bức bóc lột Pháp- Nhật. Mâu thuẩn giữa toàn thể dân tộc ta với đế quốc phát xít Pháp Nhật vô cùng sâu sắc.

-Nhân dân ta ngày càng được cách mạng hóa với nhiều cuộc đấu tranh như khởi nghĩa Bắc Sơn, khởi nghĩa Nam Kì…

*Trước tình hình thế giới và trong nước ngày càng khẩn trương, ngày 28/1/1941 Nguyễn Ái Quốc về nước triệu tập Hội nghị Trung ương đảng lầnVIII họp từ ngày 10 đến 19/5/1941 tại Pắc Bó (Cao Bằng)

2.Nội dung của Hội nghị Trung ương đảng lần VIII

a.Nhận định của Hội nghị:

Hội nghị nhận định mâu thuẫn giữa các dân tộc ta với đế quốc phát xít là mâu thuẫn chủ yếu nhất, vận mệnh dân tộc nguy vong không lúc nào bằng. Vì vậy, lúc này nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ bức thiết nhất.

b.Chủ trương.

-Xác định kẻ thù: Kẻ thù của nhân dân đông Dương lúc này là phát xit Nhật

-Nhiệm vụ: Nhiệm vụ bức thiết nhất là giải phóng cho được các dân tộc đông Dương khói ách Pháp - Nhật. (đây là chủ trương quan trọng nhất vì Nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của một bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được) .

 -Khẩu hiệu đấu tranh: Tiếp tục tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, chỉ đề ra tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc, Việt gian chia cho dân cày. -Hình thức tập hợp lực lượng: để phát huy sức mạnh dân tộc ở mỗi nước đông Dương, cần phải đặt vấn đề dân tộc trong phạm vi mỗi nước.Vì vậy Hội nghị chủ trương ở mỗi nước cần thành lập một mặt trận dân tộc thống nhất riêng. Ở Việt Nam thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt làViệt Minh), bao gồm các tổ chức quần chúng lấy tên là Hội cứu quốc….

-Hình thức đấu tranh: đề ra chủ trương khởi nghĩa vũ trang coi đó là nhiệm vụ của toàn đảng toàn quân và toàn dân ta. Chuẩn bị mọi điều kiện để tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Hội nghị còn vạch rõ: Khởi nghĩa vũ trang muốn thắng lợi thì phải được chuẩn bị chu đáo và nổ ra đúng thời cơ, phải đi từ khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa.

3.Ý nghĩa và tầm quan trọng của Hội nghị TW đảng lần thứ VIII

a.Ý nghĩa:

Hội nghị TW đảng lần VIII có ý nghĩa lịch sử to lớn

-Đã hoàn chỉnh việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng của đảng đã đề ra từ Hội nghị lần VI.

-Kiên nquyết gương cao hơn nữa ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và cấp thiết hơn bao giờ hết.

 -Giải quyết đúng đắn giữa hai nhiệm vụ chiến lược chống đế quốc và phong kiến.

 -Đề ra phương pháp cách mạng cụ thể

b. Tầm quan trọng của Hội nghị :

Hội nghị TW đảng lần thứ VIII có tác dụng quyết định đối với thắng lợi của cách mạng tháng tám.

e.đấu tranh trên lĩnh vực nghị trường . đảng lợi dụng khả năng hợp pháp để đưa người của đảng vào Hội đồng quản hạt Nam Kì, viện dân biểu Bắc Kì để đấu tranh Cuối năm 1938 chính phủ mặt trận nhân dân Pháp ngày càng thiên hữu, bọn phản động Pháp ở đông Dương ngóc đầu dậy phản công và đàn áp phong trào cách mạng nước ta làm cho phong trào cách mạng thu hẹp dần đến khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ thì chấm dứt.

 4.Ý nghĩa và tác dụng của phong trào 1936-1939

-Cuộc vân động dân chủ 1936-1939 là một phong trào dân tộc dân chủ rộng lớn.Qua đó đảng ta đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền giáo dục râu rộng tư tưởng Mác-Lê Nin, đường lối chính sách của đảng, tập hợp đông đảo quần chúng trong mặt trận dân tộc thống nhất xây dựng được đội quân chính trị đông đảo.

 -Qua phong trào uy tín và ảnh hưởng của đảng được mở rộng và ăn sâu trong quần chúng, trình độ chính trị và khả năng công tác của cán bộ được nâng lên, tổ chức đảng được củng cố và phát trển.

-Phong trào đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm như bài học về sử dụng các hình thức và khẩu hiệu đấu tranh, vận động tổ chức quần chúng đấu tranh, xây dựng Mặt trận nhân dân thống nhất. Với những ý nghĩa đó phong trào dân chủ 1936-1939 được xem là cuộc diễn tập lần thứ hai của nhân dân Việt Nam chuẩn bị cho sự thắng lợi của Cách mạng tháng Tám. 

nguyễn gia khánh
Xem chi tiết
Thong the DEV
24 tháng 12 2018 lúc 15:31

Trên Wiki:

Tục ngữ là thể loại văn học dân gian nhằm đúc kết kinh nghiệm, tri thức của nhân dân dưới hình thức những câu nói ngắn gọn, súc tích, có nhịp điệu, dễ nhớ, dễ truyền.

Nội dung tục ngữ thường phản ánh những kinh nghiệm về lao động sản xuất, ghi nhận các hiện tượng lịch sử xã hội, hoặc thể hiện triết lý dân gian của dân tộc.

Tục ngữ được hình thành từ cuộc sống thực tiễn, trong đời sống sản xuất và đấu tranh của nhân dân, do nhân dân trực tiếp sáng tác; được tách ra từ tác phẩm văn học dân gian hoặc ngược lại; được rút ra từ tác phẩm văn học bằng con đường dân gian hóa những lời hay ý đẹp hoặc từ sự vay mượn nước ngoài.

Giữa hình thức và nội dung, tục ngữ có sự gắn bó chặt chẽ, một câu tục ngữ thường có hai nghĩa: nghĩa đen và nghĩa bóng. Tục ngữ có tính chất đúc kết, khái quát hóa những nhận xét cụ thể thành những phương châm, chân lý. Hình tượng của tục ngữ là hình tượng ngữ ngôn được xây dựng từ những biện pháp so sánh, nhân hóa, ẩn dụ...

Đa số tục ngữ đều có vần, gồm hai loại: vần liền và vần cách. Các kiểu ngắt nhịp: trên yếu tố vần, trên cơ sở vế, trên cơ sở đối ý, theo tổ chức ngôn ngữ thơ ca... Sự hòa đối là yếu tố tạo sự cân đối, nhịp nhàng, kiến trúc vững chắc cho tục ngữ. Hình thức đối: đối thanh, đối ý. Tục ngữ có thể có 1 vế, chứa 1 phán đoán, nhưng cũng có thể có thể gồm nhiều vế, chứa nhiều phán đoán.

Các kiểu suy luận: liên hệ tương đồng, liên hệ không tương đồng, liên hệ tương phản, đối lập, liên hệ phụ thuộc hoặc liên hệ nhân quả.

Trong tập

Không tìm thấy

Các nguồn đáng tin cậy:

Tục ngữ là thể loại văn học dân gian nhằm đúc kết kinh nghiệm, tri thức của nhân dân dưới hình thức những câu nói ngắn gọn, súc tích, có nhịp điệu, dễ nhớ, dễ truyền. ... Hình tượng của tục ngữ là hình tượng ngữ ngôn được xây dựng từ những biện pháp so sánh, nhân hóa, ẩn dụ...Tục ngữ là thể loại văn học dân gian nhằm đúc kết kinh nghiệm, tri thức của nhân dân dưới hình thức những câu nói ngắn gọn, súc tích, có nhịp điệu, dễ nhớ, dễ truyềnTục ngữ ( thể loại văn học dân gian) là những câu nói dân gian ngắn gọn, ổn định, có nhịp điệu, hình ảnh, thể hiện những kinh nghiệm của nhân dân về mọi mặt( tự nhiên, lao động sản xuất, xã hội) được nhân dân vận dụng vào đời sống, suy nghĩ và lời ăn tiếng nói hàng ngày

Tục ngữ là thể loại văn học dân gian nhằm đúc kết kinh nghiệm, tri thức của nhân dân dưới hình thức những câu nói ngắn gọn, súc tích, có nhịp điệu, dễ nhớ, dễ truyền. ... Hình tượng của tục ngữ là hình tượng ngữ ngôn được xây dựng từ những biện pháp so sánh, nhân hóa, ẩn dụ...

Moon
Xem chi tiết
Vũ Trọng Phú
23 tháng 6 2018 lúc 13:37

Có bao giờ ta tự hỏi điều gì làm nên sức sống lâu bền của một tác phẩm văn học trước dòng chảy miên viễn của thời gian? Phải chăng chính nhờ vào sự độc đáo của các hình thức nghệ thuật mà người nghệ sĩ đã sang tạo ra? Hay nhờ vào ý nghĩa tôn vinh con người mà tác phẩm đó đem đến? Có lẽ, sức sống ấy có được là vì một tác phẩm văn học chân chính bao giờ cũng “ tôn vinh con người thông qua những hình thức nghệ thuật độc đáo”.

Một tác phẩm văn học chân chính luôn luôn chứa đựng trong nó những giá trị cơ bản như: giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo….được biểu hiện thông qua sự phản ánh, phát hiện, khám phá cuộc sống và con người của nhà văn. Bằng cách này, hay cách khác, ngòi bút của những người nghệ sĩ chân chính luôn hướng về con người với những phát hiện rất riêng về vẻ đẹp nhân phẩm của họ. Và suy cho cùng, đó chính là sự “tôn vinh con người” một cách rất chân thực và trân trọng của nhà văn.

Tuy nhiên, nghệ thuật không chỉ là cuộc đời, nghệ thuật còn là nghệ thuật nữa. Vì vậy một tác phẩm văn học chỉ thực sự hay, được bạn đọc đón nhận và có sức sống trong lòng bạn đọc khi nó biểu hiện giá trị nội dung thông qua “những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Hình thức ấy có được là nhờ vào biệt tài, cá tính sang tạo của người cầm bút. Và một tác phẩm văn học muốn được chú ý, trước hết cần có những giá trị nghệ thuật nổi bật. Bởi lẽ, văn học là lĩnh vực của sự sáng tạo, điều làm nên sự khác biệt của văn học so với các bộ môn khoa học khác chính là sự độc đáo của hình thức nghệ thuật. Sự độc đáo ấy gây chú ý đối với công chúng, để họ đón nhận tác phẩm ấy và từ đó mới khám phá ra những giá trị nội dung mà tác phẩm đó chứa đựng. Như vây, sức sống lâu bền mà một tác phẩm văn học có được chính là nhờ vào giá trị nội dung với ý nghĩa tôn vinh con người và giá trị nghệ thuật độc đáo mà nhà văn đã sáng tạo ra. Có thể thấy, hai phạm trù này có mối quan hệ gắn bó hữu cơ không thể tách rời, nếu thiếu một trong hai phạm trù đó thì sẽ không có được tác phẩm văn học đích thực.

Có một nhà lí luận phê bình đã từng nói rằng: “Văn học là nhân học”. Đó là một nhận định cho thấy được vai trò của một tác phẩm văn học đối với con người. Văn học luôn hướng tới con người và giúp con người hướng tới vẻ đẹp của CHÂN – THIỆN – MĨ và ý nghĩa hướng thiện ấy được biểu hiện nhờ vào hình thức nghệ thuật độc đáo. Từ cổ chí kim, văn học thế giới đã cho thấy biết rõ điều đó. Những nhà văn lớn trên thế giới bao giờ cũng mang trong mình tình yêu thương nhân loại vô cùng, luôn nhìn thấy vẻ đẹp tâm hồn con người và cũng luôn có niềm tin vào khả năng vươn dậy của nhân phẩm con người. Khi đến với truyện ngắn “Số phận con người” của nhà văn Nga Sô-lô-khốp là khi ta đến với một áng văn phản ánh rất chân thực lịch sử oai hùng của nước Nga Xô Viết với những trang viết đậm chất hiện thực và tinh thần nhân đạo cao cả. Bằng tài năng và tâm huyết của mình Sô-lô-khốp đã khắc hoạ rất thành công hình tượng nhân vật Xô-cô-lốp thông qua nghệ thuật trần thuật độc đáo. Để từ đó tôn vinh, ca ngợi vẻ đẹp tính cách Nga, con người Nga. Đó là vẻ đẹp của con người cách mạng phải chịu bao đau thương, mất mát vì chiến tranh mà vẫn sống đầy nghị lực và nhân ái vô cùng. Con người đó không bị quật ngã bởi hoàn cảnh mà luôn biết đứng lên, sống một cuộc đời có ý nghĩa, có niềm tin vào tương lai.

Trở lại với nền văn học Việt Nam chúng ta cũng tìm thấy rất nhiều tác phẩm mang ý nghĩa “tôn vinh con người thông qua những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Và “Vợ nhặt” của Kim lân chính là một tác phẩm như vậy.

Ai đã từng đến với “Vợ nhặt” chắc hẳn không thể quên được hình ảnh chết chóc tang thương trong một xóm ngụ cư nghèo khổ, không thể không bị ám ảnh trước hình ảnh một đám cưới nhỏ của Tràng lọt thỏm giữa một đám ma to của cả xóm ngụ cư. Nhưng cũng sẽ còn mãi trong tâm thức độc giả niềm xúc động trước tấm lòng của những con người bé mọn với nhau, trước khát vọng sống mãnh liệt của những số phận đang chấp chới giữa ranh giới mong manh của sự sống và cái chết. Bởi Kim Lân viết về cái đói nhưng là để nói đến “tình người trong cái đói”. Và nhà văn đã chọn cho mình một tình huống truyện độc đáo để làm nổi bật lên chủ đề của thiên truyện. So sánh với các tác phẩm cùng thời, ta có thể thấy được nét riêng của “Vợ nhặt”. Nam cao viết “Một bữa no” để độc giả thấy được sự khốn cùng đói khổ của nhân dân ta thông qua đó tố cáo xã hội đã đưa đẩy con người đến sự cùng cực của nghèo đói, tủi hổ. Còn Kim Lân cũng viết về cái đói nhưng ông lại tập trung làm nổi bật “tình người trong cái đói”.

Vợ nhặt là một truyện ngắn độc đáo từ nội dung đến nghệ thuật. Nhà văn đã chọn cho tác phẩm của mình một lối kết cấu rất mơí lạ: hiện tại –quá khứ - hiện tại – tương lai. Và một tình huống truyện éo le độc đáo. Tình huống ấy xuất hiện ngay từ nhan đề “Vợ nhặt”. Một nhan đề cho thấy được hiện thực tối tăm hoàn cảnh khốn khó đến mức số phận con người bị rẻ rúng như cây rơm ngọn cỏ. Bởi thế mới có sự kiện Tràng nhặt được vợ - nhặt vợ chứ không phải cưới vợ.

Chuyện Tràng có vợ là một bất ngờ lớn với hết thảy mọi người, với bà cụ Tứ, với chính bản thân Tràng và với mọi độc giả. Có ai ngờ một anh nông dân cục mịch, có phần dở hơi lại nghèo khổ như thế lại có vợ một cách dễ dàng đến vậy! Nhưng éo le thay, Tràng lại lấy vợ vào lúc người ta không thể sống qua ngày vì đói khát. Tràng lấy vợ mà không có lễ ăn hỏi, đón dâu. Tất cả những gì đọng lại trong lòng độc giả về đám cưới đó chỉ là hình ảnh đôi bạn trẻ đi bên nhau lặng lẽ trong một buổi hoàng hôn đầy không khí chết chóc. Éo le bởi chỉ trong hoàn cảnh đó Tràng mới có được vợ. Éo le bởi đó là một cuộc hôn nhân không xuất phát từ tình yêu mà được bắt nguồn từ bản năng sống, khát vọng được sống thôi thúc con người ta phải hướng tới nhau, bấu víu vào nhau. Tuy nhiên, cuộc hôn nhân đó cũng cho ta thấy được tình thương của con người với con người, thấy được tình yêu cuộc sống của những số phận nhỏ nhoi. “Đám cưới” ấy đã làm thay đổi những người trong gia đình Tràng và thay đổi chính Tràng. Sáng hôm sau, khi tỉnh dậy Tràng đã cảm nhận được tình yêu gia đình, sự gắn bó với các thành viên, niềm hạnh phúc giản dị mà lớn lao. Vậy đấy, trong nhiều điều mang tên Hạnh Phúc, có những điều thật bình dị nhưng đó là sự bình dị ấm áp. Không những thế, khi Tràng cho thị theo về, chấp nhận thị làm vợ tức là lúc anh đã biết dang rộng vòng tay yêu thương để đón lấy những kiếp đời khốn khổ hơn mình. Đó chẳng phải là một cách tôn vinh con người sao?

Còn thị - một nhận vật cũng có vai trò rất quan trọng đối với thiên truyện, cũng được Kim Lân khắc hoạ bằng những hình thức nghệ thuật rất độc đáo. Thị xuất hiện trong tư thế đang “vân vê tà áo rách như tổ đỉa” với một “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt và hình dạng gầy xọp vì đói khát”. Tính cách, số phận con người ấy dần được hé lộ thông qua cái nhìn của Tràng, bà cụ Tứ, những sự kiện diễn ra theo trình tự thời gian. Thị là một người phụ nữ vô danh, không tên tuổi, không quê hương bản quán, không gia đình…Hoàn cảnh éo le của cuộc sống đã đẩy thị đến bước đường cùng đói khát. Và vì tình yêu cuộc sống mãnh liệt, bản năng ham sống, thị cần tìm cho mình một chỗ dựa. Rồi thị đã bán rẻ cả chút sĩ diện của một con người để bấu víu vào Tràng, liều mình làm dâu nhà người chỉ với bốn bát bánh đúc rẻ mạt. Hôn nhân là chuyện hệ trọng của đời người, với một người con gái thì nó càng có ý nghĩa quan trọng hơn. Thế nhưng, thật trớ trêu thay, đám cưới của thị được cử hành với hai lần gặp gỡ, vài câu bông đùa…Có lẽ đằng sau vẻ “chao chát, chỏng lỏn” kia là bao nỗi niềm xót xa tủi phận mà thị đã xót xa giấu kín. Rồi khi về nhà Tràng, thấy gia cảnh anh cũng nghèo khổ, túng quẫn, thị bỗng “nén một tiếng thở dài”. Trong căn nhà Tràng (hay nói đúng hơn, chỉ là một túp lều tranh) không khí bỗng trở nên trùng xuống. Giống như một chuyện đùa, nhưng họ đã thực sự bước vào một cuộc hôn nhân nghiêm túc. Bây giờ, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng. Hẳn sẽ có niềm vui nhen nhóm nhưng không biết có sự nuối tiếc, ân hận nào chăng? Và thật bất ngờ sáng hôm sau, thị đã thay đổi hoàn toàn. Không còn vẻ “chao chát, chỏng lỏn” nữa thị trở về đúng nghĩa một người vợ hiền dâu thảo, thực hiện thiên chức của một người phụ nữ trong gia đình: thu vén việc nhà. Thị cũng chính là sợi dây gắn kết Tràng với bà cụ Tứ để tình cảm gia đình thêm gắn bó keo sơn. Là người nhóm lên trong hai mẹ con bà cụ Tứ niềm tin vào một tương lai tốt đẹp hơn khi nhắc chuyện “phá kho thóc Nhật ở mạn Thái Nguyên, Bắc Giang”. Có thể nói thị chưa thể là hình tương tiêu biểu cho người phụ nữViệt Nam, nhưng trong con người thị có thấp thoáng bóng dáng người phụ nữ Việt Nam. Kim Lân đã bộc lộ rât rõ ngòi bút nhân đạo của mình khi khám phá ra vẻ đẹp khuất lấp của tâm hồn con người, nâng niu, trân trọng nó,đặt niềm tin vào sự vươn dậy của ý thức nhân phẩm trong con người,Có lẽ,đó chính là một hình thức “tôn vinh con người” đơn giản,trung thực mà đáng trân trọng.

Nếu như tính cách,số phận của thị được bộc lộ thông qua tình huống truyện độc đáo và sự quan sát, đánh giá của Tràng, bà cụ Tứ; thì vẻ đẹp tâm hồn bà cụ Tứ lại hiện lên nhờ vào nghệ thuât miêu tả tâm lí sắc sảo của Kim Lân.Bà cụ Tứ xuất hiện khi đang trở về nhà với dáng đi lầm lũi âm thầm. Cái dáng đi như hằn in cả cuộc đời lam lũ tủi cực của một số phận bé mọn khi sống dưới đêm đen nô lệ. Người mẹ nghèo khổ ấy không thể đoán được có chuyện gì đang diễn ra trong nhà mà con trai hôm nay lại khác lạ thế. Rồi khi lật đật bước vào nhà, đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, cuối cùng bà cũng hiểu ra mọi chuyện. Khoảnh khắc ngắn ngủi ấy như kéo dài ra bởi những dông tố đang chất chứa trong lòng bà cụ, bởi sự đợichờ trong lo lắng, hồi hộp của đôi trẻ mới nên duyên mà chưa có sự đồng ý của người mẹ. Và khi “bà lão cúi đầu nín lặng” thì chính là lúc “lòng người mẹ nghèo khổ ấy hiểu ra biết bao nhiêu là cơ sự”. Cái “cúi đầu” xót thương cho cả cuộc đời đầy những đắng cay mặn mòi nước mắt của chính bà, xót xa cho số phận con trai và thương xót cho cả người con gái đang ngồi trước mặt bà nữa. Bởi hơn ai hết, bà hiểu gia cảnh nhà mình khốn cùng, cả cuộc đời bà là những mất mát, đau khổ. Bà hiểu chỉ trong hoàn cảnh đói khát như thế, người ta mới đến với con mình và con mình mới có được vợ. Cuối cùng, bà lão cũng lên tiếng: “ Ừ, thôi thì các con đã phải duyên, phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng”. “Ừ”, một sự xác nhận chính thức về mối quan hệ của đôi trẻ. “Thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng”, “U cũng mừng” chứ không phải “U mừng lắm” – một câu nói đủ thấy nỗi mặc cảm thân phận cũng như tấm lòng bao dung của người mẹ già ấy. Rồi bao nhiêu tình thương, sự lo lắng bà dồn cả vào câu nói: “ Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá!”…Bà lão đã khóc, những giọt nước mắt cay đắng, mừng tủi, vui buồn lẫn lộn. Có lẽ, trước khi độc giả rỏ giấu những giọt nước mắt đồng cảm với người mẹ giàu đức hi sinh ấy thì nhà văn cũng đã bao lần khóc cùng nhân vật, mừng tủi với niềm vui và nỗi buồn của nhân vật. Phải sống rất sâu trong thế giới nội tâm nhân vật thì Kim Lân mới có thể miêu tả một cách thành công đến thế diễn biến tâm trạng phức tạp của bà cụ Tứ. Là linh hồn của thiên truyện, bà cụ Tứ chính là biểu tượng tinh thần vững chắc cho đôi trẻ mới bước vào một cuộc hôn nhân, bắt đầu cuộc sống gia đình trong đói khát. Bởi thế mà sáng hôm sau bà nói toàn chuyện tương lai tốt đẹp, “tính chuyện làm ăn” bằng cách nuôi gà và động viên đôi vợ chồng trẻ “ ai giàu ba họ ai khó ba đời hả con”. Và cũng thật cảm động trước hình ảnh người mẹ bưng nồi cháo cám đon đả: “ Chè khoán đấy…ngon đáo để”. Bà lão cười mà sao ta lại thấy có gì đó xót xa quá. Bởi có lẽ, khi càng cố tỏ ra vui vẻ, cố quên đi thực tại đắng cay thì nó càng hiện về một cách rõ rệt hơn cả. Nhưng người mẹ ấy đã cố gắng hết sức để làm cho không khí gia đình trở nên ấm cúng hơn. Ta tìm thấy trong con người cụ bao đức hạnh tốt đẹp của người mẹ Việt Nam nhân ái giàu đức hi sinh âm thầm. Bà cụ Tứ chính là một đại diện tiêu biểu cho vẻ đẹp tâm hồn phụ nữ Việt Nam đôn hậu, chân thành, đáng trân trọng biết bao.

Vối hệ thống nhân vật không nhiều một tình huống truyện éo le, cách kết cấu mới lạ, Kim Lân đã làm sáng lên vẻ đẹp nhân phẩm con người. Bởi nhà văn đã cho ta thấy trong hoàn cảnh trớ trêu nhất, giữa một kiếp sống lay lắt mòn mỏi, con người vẫn không bị đánh gục bởi hoàn cảnh mà luôn khao khát vươn sống, hướng về nhau và hướng về tương lai. Trong không gian xóm ngụ cư nghèo khổ, tối tăm, câu chuyện cảm động về những con người sống dưới đáy cùng của xã hội nhưng quý trọng và tôn trọng nhau đã được bắt đầu. Câu chuyện ấy diễn ra ngày càng rõ nét cụ thể, sinh động trong căn nhà liêu xiêu của mẹ con Tràng. Không gian đã góp phần làm nổi lên hoàn cảnh để câu chuyện diễn ra một cách tự nhiên, chân thực. Và cũng không phải ngẫu nhiên mà nhà văn lại chọn thời gian bắt đầu câu chuyện là một chiều hoàng hôn, tiếp diễn trong đêm đen dày đặc và kết thúc vào một buổi bình minh rực rỡ. Phải chăng dụng ý của Kim Lân là muốn thể hiện niềm tin vào tương lai, những con người sống có hi vọng sẽ vượt qua nghịch cảnh để có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Ngoài ra, còn một chi tiết nghệ thuật nữa cũng đã góp phần thể hiện sâu sắc ngòi bút nhân đạo của nhà văn: lá cờ đỏ sao vàng tung bay trong mắt Tràng. Chi tiết nghệ thuật ấy, phải chăng, đã chỉ ra con đường giải phóng những cuộc đời bé mọn đang bị nhấn chìm trong đêm đen nô lệ? Chí Phèo muốn hoàn lương phải trả giá bằng mạng sống của mình. Chị Dậu bỏ chạy trong một “đêm đen tối như chính tiền đồ của chị” mà không thể tìm thấy lối thoát cho kiếp nô lệ bị chà đạp, đè nén đến tận cùng nỗi đau. Còn Tràng, anh được chỉ cho một lối đi là đấu tranh cách mạng để làm chủ cuộc đời mình. Kim Lân đã đi xa hơn những nhà văn trước đó trong điểm này. Chi tiết nghệ thuật ấy chính là một tín hiệu cho thấy sự phát triển của nền văn học sau Cách mạng tháng Tám 1945 so với trước đó.

Thời gian trôi đi và phủ một lớp bụi quên lãng lên vạn vật. Thế nhưng, đã gần nửa thế kỉ qua, “Vợ nhặt” và tên tuổi của “ nhà văn thuần hậu nguyên thuỷ đi về với nông thôn Việt Nam” – Kim Lân vẫn sống cùng tháng năm. Và có lẽ, mãi mai sau, người ta vẫn nhắc tên Kim Lân với “ đứa con tinh thần” của ông một cách trân trọng. Bởi nhà văn đã biết thông qua tác phẩm văn học để “tôn vinh con người bằng những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Ấy là phẩm chất sáng tạo nghệ thuật mà bất kì người nghệ sĩ nào cũng cần có.

 
Trịnh Thị Kim Chi
Xem chi tiết
Lê Thị Quyên
17 tháng 11 2017 lúc 5:29

Chọn đáp án B

Theo SGK Giáo dục công dân 12, Hợp đồng lao động là sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả công, điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động.

Trịnh Thị Kim Chi
Xem chi tiết
Lê Thị Quyên
27 tháng 8 2018 lúc 12:58

Chọn đáp án B

Theo SGK Giáo dục công dân 12, Hợp đồng lao động là sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả công, điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động.

Trịnh Thị Kim Chi
Xem chi tiết
Lê Thị Quyên
4 tháng 1 2019 lúc 10:12

Đáp án là A

Nguyễn Trần Thành Đạt
Xem chi tiết

Nội dung/ hình thức

Phần trước

Phần sau

Nội dung

Thuật lại theo hồi ức vẽ những ngày tháng cậu bé Pê-xcốp học tập tại ngôi vừa kiếm sống vừa tự học trong sách trường của nhà thờ. Ban đầy cậu bé bày ra bao nhiêu trò tinh quái, man rợ. Chỉ đến khi có Đức Giám mục xuất hiện cậu mới chăm chỉ, chí thú với việc học hành.

Thuật lại những tháng năm Pê xcốp vừa kiếm sống vừa tự học trong sách vở và trong cuộc đời. Trải qua biết bao dằn vặt, băn khoăn, cuối cùng nhờ có sách và những nỗ lực đọc, khám phá của bản thân, Pê -xcốp đã trưởng thành.

Hình thức nghệ thuật

Sử dụng nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, gây ấn tượng mạnh:

- Dùng nhiều mẩu chuyện, sự việc kịch tính, bất ngờ.

- Sử dụng đối thoại, thủ pháp đối lập.

- Tác giả vừa hoá thân vào nhân vật cậu bé mang điểm nhìn, giọng điệu của một cậu bé vừa giữ một khoảng cách, một thái độ tự phê phán, tự giễu mình.

Sử dụng nghệ thuật kể chuyện tổng hợp:

- Kết hợp kể chuyện với trữ tình biểu cảm, luận bình (về vai trò, tác dụng của sách, của trải nghiệm cuộc sống).

- Kết hợp độc thoại (tự nói với mình) và trò chuyện với độc giả (“chính các bạn cũng biết...”; “Có thể tôi sẽ không truyền đạt đủ rõ và đáng tin cậy để các bạn thấy...).

- Sử dụng nhiều ẩn dụ, tỉ dụ sâu sắc từ trải nghiệm đời sống, từ đọc sách mà có.

Chú ý: 

- Những khác biệt như vậy không làm mất đi sự thống nhất trong tính chỉnh thể của tác phẩm mà còn cho thấy sự đa dạng của môi trường, hoàn cảnh học tập; thấy rõ cuộc đấu tranh giữa phần “thú” và phần “người”; và cho thấy việc học tập để đạt được thành công, vươn tới mục đích cao đẹp của đời người quả là quá trình không dễ dàng, nhưng hoàn toàn là có thể.

bê trần
Xem chi tiết
Vy Truong
13 tháng 11 2016 lúc 16:35

Cần giúp ko vy pt này

BTS-Suga,Jungkook
23 tháng 10 2017 lúc 21:25

giúp mik vs Vy ơihum

mik tick chovui