Những câu hỏi liên quan
Quang Ngo
Xem chi tiết
A DUY
26 tháng 10 2023 lúc 21:25

Vào những đêm cuối năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, cái làng nhỏ bé nằm ven bờ con sông Đáy, Quang Dũng đã bồi hồi nhớ lại những kỷ niệm còn tươi nguyên. Năm ấy Quang Dũng là đội trưởng của đoàn quân Tây Tiến làm nhiệm vụ phối hợp với quân đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào, đánh địch trên những tuyến đường rừng núi Tây Bắc từ Lai Châu đến phía bắc Thanh Hóa. Những người lính trẻ của trung đoàn Tây Tiến sống vô cùng thiếu thốn và khổ cực, vì rừng thiêng nước độc, sốt rét hoành hành, thuốc men ít ỏi và vì dưới hành quân là trập trùng núi rừng hoang vu, lạnh lẽo, hiểm trở .

Những người lính Tây Tiến hầu hết là những anh thanh niên Hà Nội, phần đông là học sinh, tiểu tư sản trí thức, tuy phải chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ vẫn phơi phới tinh thần lãng mạn anh hùng lớn. Tác giả Quang Dũng viết bài thơ Tây Tiến năm 1918 trước đây đã lấy tên là “Nhớ Tây Tiến” để thể hiện nỗi nhớ và niềm yêu thương về một thời chiến đấu gian khổ mà hào hùng, dữ dội mà mê say quên mình.

 

Để khắc họa lên chân dung người lính, Quang Dũng đã sử dụng những chi tiết và hình ảnh thực của đoàn quân Tây Tiến nhưng những hình ảnh lại được diễn tả bằng bút pháp lãng mạn để tô đậm cái phi thường cái tài hoa, đem đến cho người đọc một vẻ đẹp rất độc đáo hiếm có của người lính trong một thời kì lịch sử oai hùng. Bài thơ đã được viết theo mạch cảm xúc nhớ thương nên nó có mở đầu bằng câu thơ biểu hiện nỗi nhớ ngày ấy.

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Hình ảnh con sông Mã anh hùng mở đầu bài thơ như hé mở cho người đọc có những câu chuyện oai hùng về binh đoàn Tây Tiến. Trên bước con đường ra trận, những người lính Tây Tiến có sông Mã đi cùng bởi vì vậy cũng thật tự nhiên mà ngay từ đầu bài thơ Quang Dũng gọi tên là “sông Mã”. Câu thơ cũng giống như một tiếng gọi tha thiết ám ảnh, về khoảng cách địa lý thì xa xôi vời vợi mà nỗi nhớ lại nơi luôn thường trực. Trong lòng câu thơ thứ hai này dùng hai chữ “nhớ”, lại được ngắt nhịp 4/3 để diễn tả tinh tế những thổn thức, mong mỏi và khao khát nhung nhớ của tác giả. Cái đặc sắc chính ở ba chữ “nhớ chơi vơi”, chữ “chơi vơi” làm cho người đọc có thể cảm nhận như lan tỏa vào không gian và thấm sâu vào lòng mỗi người, một chút chống chếnh, một chút hụt hẫng và một chút nao lòng. Nỗi nhớ Tây Tiến tưởng như xa nhưng lại hóa gần, tưởng dịu nhẹ mơn man nhưng lại có sức ám ảnh khôn xiết. Không những thế, người đọc còn như nghe đã được trong những chữ “nhớ chơi vơi” ấy âm hưởng sâu đậm của núi rừng, của sông suối Tây Tiến. Câu thơ reo vần “ơi” đã tạo ra được độ dịu nhẹ lâng lâng ở trong cảm xúc, ở đây cảm xúc nhớ thương giống như sợi tơ tình bện chặt lòng người. Và ngay sau đó nhà thơ đã cụ thể hóa nỗi nhớ của chính mình.

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Các địa danh Sài Khao và Mường Lát trong nỗi nhớ của Quang Dũng đã trở nên thân gần kỳ lạ, viết về hình ảnh đoàn quân mỏi là khi “Quang Dũng lại điểm thêm vào đó những hình ảnh “sương lấp”, “hoa về”, “đêm hơi”. Rõ ràng ở đây chất hiện thực đã đi liền với chất lãng mạn tạo nên những nét vẽ độc đáo về Tây Tiến.

Trong cảm xúc nhớ thương của nhà thơ là bức tranh Tây Tiến như được khoác sắc một màu huyền ảo, thơ mộng, giàu sắc thái lãng mạn khung cảnh rừng núi mà ở đoàn quân Tây Tiến đã bước chân qua vừa thơ mộng vừa hùng vĩ. Trong nỗi nhớ, những kỷ niệm còn tươi nguyên như thể sống dậy, nhà thơ nhớ đến hình ảnh thời gian khổ:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Hai câu thơ trên đã mang giá trị tạo hình cao diễn tả một cách cụ thể và sinh động nhất những gian khổ của những người lính Tây Tiến trên đường ra trận. Câu thơ thứ nhất dùng ngắt nhịp 4/3 và chủ yếu được gieo thanh trắc và đã gợi cho người đọc cảm nhận được về một sự trúc trắc gập ghềnh và đầy hiểm nguy. Những cái hay của câu thơ chính ở hai từ láy “khúc khuỷu, “thăm thẳm”, nó đã gợi cho người đọc những cảm nhận về một không gian được đã mở ra nhiều chiều; cao, rộng, sâu, xa và người đọc như sẻ chia được cùng với những người lính những vất vả, gian khó. Câu thơ thứ hai chữ “heo hút” đã được dùng rất đặc sắc, nó khác với hun hút và nếu “hun hút” gợi được độ sâu thì heo hút bản không giới hạn, từ heo hút không chỉ đã gợi ra độ sâu mà còn thêm cả một cảm giác hoang vắng, lạnh lẽo và hiu quạnh. Địa hình chiến đấu của những người lính Tây Tiến quả thực đầy gian khó nguy hiểm. Hơn thế nữa ba chữ “súng ngửi trời” đã được sử dụng thật độc đáo, nó cũng giống như hình ảnh “đầu súng trăng treo” của tác giả Chính Hữu bao trùm lên hình ảnh là một không gian tưởng tượng chừng lãng mạn, nhưng nó được bắt nguồn từ một cuộc sống hiện thực, từ con mắt tinh tế với ngòi bút đa tài của nhà thơ. Nhờ hình ảnh “súng ngửi trời”, câu thơ đã nói về những gian khổ vất vả nhưng lại làm ra sáng ngời lên khí phách ngạo nghễ và tư thế hiên rất ngang của con người, ngoài ra nó còn thể hiện được một chút dí dỏm tinh nghịch, một chút phong cách lính trẻ trung và lãng mạn. Giữa thiên nhiên hoang sơ vắng lạnh và hình ảnh con người không cảm thấy bé nhỏ và cô đơn mà lại khẳng định tư thế làm chủ, khẳng định bản lĩnh của chiến sĩ anh hùng và tinh thần lạc quan của nhiều con người. Không những thế, hình ảnh còn một thời gian khổ còn được biểu hiện qua những câu thơ:

 

Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Với hình ảnh “oai linh thác gầm thét”, “Mường Hịch cọp trêu người” là những người dẫn chứng sống động nhất về những gian khổ hiểm nguy mà người lính Tây Tiến đã đang phải trải qua khoảng thời gian “chiều chiều”, “đêm đêm” trở thành khoảng thời gian ước lệ, nó giống như một ám ảnh về Tây Tiến thời gian in sâu trong tiềm thức của chính tác giả ấy. Viết về những gian khổ của người lính quân đội, ngòi bút của Quang Dũng cũng ghi lại được những hình ảnh hết sức chân thực:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời

Bao nhiêu vất vả nhọc nhằn của những người lính được thể hiện qua hai chữ đó là “dãi dầu”. Tuy nhiên từ “dãi dầu” vẫn có thể giúp cho người đọc cảm nhận được chút phong trần của người lính trên con đường hành quân, phải chăng cũng vì thế hình ảnh của họ thấp thoáng bóng dáng của người chiến sĩ, chinh phu thuở nào. Qua chữ “bỏ quên đời” ta thấy khí phách bản lĩnh của người lính được ngời sáng từ chính những chuyển hiện thực tưởng chừng như gian khổ khốc liệt – một chút bất cần phó mặc nhưng cũng hơn hết là một trang trí nơi anh hùng, dẫu là mỏi mệt hay dầu là hy sinh thì họ vẫn sẽ coi những biểu hiện ấy rất đỗi nhẹ nhàng. Những người lính Tây Tiến khi chiến đấu hết mình thật anh dũng quả cảm nhưng những giây phút nghỉ ngơi của họ cũng đầy lãng mạn và mê say:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Họ đã bỏ lại sau lưng mình những hòn đạn, gạt bỏ những lo lắng và vất vả của cuộc chiến, giữa đời thường, người lính Tây Tiến đã hiện lên thật bình dị, gần gũi. Một buổi liên hoan bỗng chốc lại biến thành một ngày hội tưng bừng náo nhiệt qua những lăng kính lãng mạn của người chiến sĩ không gian của đêm hội đuốc hoa thật lãng mạn, rực rỡ, lung linh, câu thơ tràn đầy ánh sáng và màu sắc, trong thơ như có họa. Chữ “bừng” được dùng cũng rất hay, nó không chỉ là sự bùng lên của ánh sáng, của bó đuốc đêm hội mà chính là sự bùng lên của niềm vui và niềm say mê kiêu hãnh. Trong sự náo nức của đêm hội ấy những hình ảnh người em gái là hình ảnh trung tâm, bao nhiêu con mắt như đã đổ dồn về phía người em gái để mà kìa em xiêm áo đã tự bao giờ” — một cảm xúc ngạc nhiên đến sững sờ nhưng đã đi liền ngay sau đó là cảm xúc ngây ngất đắm đuối say mê. Từ Hán việt “xiêm áo” tạo ra một nét trang trọng, ở đây hình ảnh người em gái như đã được mỹ lệ hóa. Những chữ “tự bao giờ” như không giấu nổi được cảm xúc ngây ngất của những người lính Tây Tiến, họ ngỡ như là hình ảnh của đêm hội với người em gái ấy đã có từ rất lâu lắm để rồi bất chợt lại thấy được sự ngỡ ngàng. Bức tranh đêm hội đã được lung linh hóa, mỹ lệ hóa để rồi người đọc tưởng tượng ra người em gái ấy tựa như một nàng tiên bước ra từ cổ tích giữa hiện thực khốc liệt dữ dội người ta bắt gặp hình ảnh như là những huyền thoại, đây chính là sắc thái lãng mạn của bài thơ. Điểm thêm vào bức tranh đó là đêm hội ấy là hình ảnh của nhạc, của khèn và nhịp thơ đồng thời là nhịp của tiếng lòng náo nức mê say với tiếng nhạc của tâm hồn như lan đã tỏa ra từng câu chữ. Một thời mê say, lãng mạn của người lính Tây Tiến còn như được gọi nhắc qua hình ảnh rất đẹp đẽ:

 

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

Hình ảnh của những bữa cơm lên khói, hương vị của nếp xôi đã nồng nàn mà tha thiết như quyện chặt tâm hồn của người đi xa. Câu thơ đã chủ yếu gieo thanh bằng, tạo cảm xúc lâng lâng chơi vơi, một chút bâng khuâng và nhung nhớ, một chút da diết khắc khoải cũng làm nao lòng người khi nhớ về Tây Tiến. Viết về thời mê say ấy, tác giả Quang Dũng có những câu thơ rất đỗi tài hoa.

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Câu thơ thứ nhất được bẻ gãy làm đôi, gợi ra cái trập trùng và hiểm trở của núi rừng Tây Tiến. Còn câu thơ thứ hai giống một tiếng buông lơi thật dịu nhẹ chơi vơi. Câu thơ như đẩy tư duy người đọc về một hoài niệm nào đó đã quá xa vắng trong nỗi niềm của tác giả: tưởng là mơ hồ và không xác định, tưởng là vu vơ bất chợt nhưng lại cứ ám ảnh khắc khoải trong tâm trí tác giả, không những thế và câu thơ còn có tiết tấu giai điệu rất rõ thể hiện tính nhạc rất cao. Như vậy người chiến sĩ cũng chính là một người nghệ sĩ. Cuộc sống của thời kháng chiến không chỉ có gian khổ mất mát mà còn đẹp lung linh ở trong tâm hồn người lính. Chính cuộc sống này, cuộc sống đầy chất thơ mộng này, và đã xua tan đi những mỏi mệt gian lao trong đời sống chiến đấu của những người lính. Tiếp đó, mạch cảm xúc ấy đã có sự chuyển đổi: đang ở giọng náo nức giục giã và mê say chuyển sang giọng điệu trầm lắng, bâng khuâng pha một chút ít hoài niệm ngậm ngùi:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có thấy dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Hoài niệm ở đây của tác giả bắt đầu từ hình ảnh “chiều sương ấy”, không gian như thoáng phủ một nỗi buồn thật sự mênh mang. Chữ “ấy” có ý nghĩa định vị về mặt không gian như thể muốn đẩy những kỉ niệm lùi về một nơi rất xa, để nó giúp cho người đọc cảm nhận được khoảng cách vời vợi của nhớ và thương. Những câu thơ gợi đã nhiều hơn tả, các hình ảnh được gợi ra không phải là hình ảnh cụ thể chi tiết mà chi là dáng hình, rất khó định hình, khó nắm bắt. Nhà thơ ấy dường như không miêu tả cảnh mà còn chỉ gợi lại cái linh hồn của nó, hay là nói đúng hơn cảnh vật được nhìn qua lăng kính trong nhớ thương, không rõ nét, mờ ảo, hư hư thực thực. Không phải miêu tả lâu mà là những “hồn lau”, không phải miêu tả người mà mà cũng là “dáng người”, người đọc cảm nhận được một không gian hoang sơ vắng lặng đượm một nỗi buồn mênh mang. Đặc sắc nhất mà khổ thơ là việc sử dụng cấu trúc câu “có thấy” và “có nhớ”, Đây không chỉ câu hỏi má còn giống như một lời gợi nhắc, một lời nhắn nhủ vô cùng tha thiết ân tình. Phải chăng hồn lau, dáng người ấy đã trở thành những hình ảnh ám ảnh tâm hồn của tác giả, để rồi khi gợi nhắc về nó giống như một điểm nhấn xúc cảm. Đặc biệt, những sự biến đổi trong cách sử dụng các cụm từ “có thấy”, ”có nhớ” còn là sự thay đổi khác về giác quan, không chi là cái nhìn mà còn là những tâm hồn, trái tim được đánh thức. Câu thơ thứ tư khá độc đáo vì nó xuất hiện hình ảnh “nước lũ” đối lập với những hình ảnh “hoa đong đưa”: một bên là mạnh mẽ dữ dội, một bên là nhẹ nhàng thật khẽ thật êm. Có lẽ hình ảnh “hoa đong đưa” không còn là những hình ảnh tả thực mà đã trở thành hình ảnh diễn tả tâm trạng nỗi niềm tác giả. Từ láy “đong đưa” khác với “đu đưa”, nó không chỉ miêu tả dáng hình và sự chuyển động như là từ “đu đưa” mà đó còn là đầy tình ý, nó còn là sự đong đưa của ánh mắt hoài niệm mê say, đầy sắc thái lãng mạn và phong cách sáng tạo ra nghệ thuật độc đáo của Quang Dũng. Đọc Tây Tiến ta như sống lại một thời lửa cháy và cùng đoàn quân lừng tiếng đã đi vào lịch sử. Để khắc họa chân dung người lính nhà thơ ấy cũng đã sử dụng những chi tiết, hình ảnh thực của đoàn quân Tây Tiến những hình ảnh đó lại được diễn tả bằng bút pháp lãng mạn để tô đậm thêm cái phi thường, tài hoa, và đem đến cho người đọc một vẻ đẹp độc đáo hiếm có của người lính trong thời kỳ lịch sử:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Nhà thơ Quang Dũng đã gọi tên binh đoàn của mình bằng tên đó gọi khá thú vị “đoàn binh không mọc tóc”. Thật thú vị khi những con người ấy đã lấy chính hiện thực gian khổ khốc liệt để biến thành niềm kiêu hãnh, niềm tự tôn cho chính mình. Nhà thơ Phạm Tiến Duật cũng từng gọi tiểu đội của mình bằng cái tên bắt nguồn từ hiện thực cách thiếu thốn khắc nghiệt “tiểu đội xe không kính”, qua đó chúng ta thấy được tinh thần lạc quan với chất lính dí dỏm hài hước. Câu thơ thứ hai đã tạo ra hai vế đối lập: “quân xanh màu lá” và “dữ oai hùm”, một bên là cái thiếu thốn khó khăn gian khổ còn một bên là khí phách anh hùng của người lính Tây Tiến. Ba tiếng “dữ oai hùm” đã tạo nên một âm hưởng mạnh mẽ hùng tráng cho câu thơ, người đọc đã cảm nhận được khí thế của đoàn quân bước ra trận, câu thơ ngắt nhịp mạnh đã tô đậm nét hùng dũng. Những người lính Tây Tiến ấy cũng là những người lắm mộng nhiều mơ và những người giàu khát vọng hoài bão. Đến đây nhà thơ cũng đã tạo ra nét vẽ chân thực về hình ảnh của người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Hai câu thơ trên đã nhấn mạnh chữ “mộng”, “mơ”. Từ “trừng“được dùng khá đặc sắc, nó cho thấy biết bao nhiêu tâm nguyện, bao nhiêu khát vọng hoài bão tự đáy lòng đều đã dâng cả lên trên ánh mắt. “Mắt trừng” chỉ một hành động mạnh và nhưng không phải là trừng trị, dọa nạt mà là cái nhìn đau đáu và khôn nguôi thể hiện những nhung nhớ, ước ao khắc khoải. Chữ “mộng” đã khiến cho câu thơ như bị trùng xuống, ẩn chứa cảm xúc bâng khuâng. Câu thơ của tác giả Quang Dũng gợi nhắc người đọc tới một câu thơ của nhà thơ Nguyễn Đình Thi: “Những đêm dài hành quân nung nấu – Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu. Nỗi nhớ người yêu và nhớ “dáng kiều thơm” nào đó thật đời thường và bình dị nhưng cũng thật cao quý. Nó đã khiến cho hình ảnh người lính đã trở nên chân thực gần gũi hơn. Nỗi nhớ ấy trong hành trang của họ như được tiếp thêm sức mạnh nghị lực để chiến đấu và chiến thắng, và nó như một điểm tựa vững chắc cho những thanh niên học sinh chốn Hà Nội rời ghế nhà trường để tham gia chiến trận – những con người “lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa”.

Những người lính Tây Tiến đã sống anh hùng mà chết cùng anh hùng:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Cái độc đáo ở đây là nhà thơ viết về sự một sự ra đi của họ nhưng không tô đậm sự sầu thương bị lụy sự ai oán não nùng mà đã nhấn mạnh dũng khí hùng tráng, khí phách anh hùng. Sau những câu thơ rắn rỏi ấy, đẹp đẽ đến đây âm điệu câu thơ cũng chợt trầm và trùng xuống, nó cũng giống như một thước phim quay chậm.

Còn gì thiêng liêng hơn và cao cả hơn sự hi sinh, sự chấp nhận gian khổ của những người lính. Trên con đường hành quân người chiến sĩ Tây Tiến gặp biết bao mồ viễn xứ của một trong những kẻ chết xa quê. Những người chiến sĩ của chúng ta nhìn với ánh mắt bình thản bởi họ đã chấp nhận điều đó. Nếu câu thứ nhất tô đậm nên cái “Bi” thì câu thứ hai tô đậm nét “Tráng” và “Hùng”. Câu thơ thứ hai cũng giống như một cái hất đầu ngạo nghễ của anh lính trẻ Tây Tiến: bất chấp khó khăn, bỏ mặc chết chóc và hiểm nguy cận kề, những người lính Tây Tiến vẫn kiên định trong ý chí, vô cùng dũng cảm trong hành động, ngạo nghễ trong khí phách người anh hùng dân tộc. Tác giả đã mượn hình ảnh “áo bào” để gợi tả cái sự ra đi của những người lính. Đặc biệt nó còn gắn bó với hình ảnh thiêng liêng và tạo ra sắc thái trang trọng, và giảm bớt nỗi buồn thương bị lụy. Nó cũng tạo ra một hình ảnh hết sức cảm động, giống như sự sẻ chia đồng cảm của tác giả đối với những con người lính Tây Tiến. Câu thơ tiếp đã để lại xuất hiện hình ảnh sông Mã – chứng nhân lịch sử. Sông Mã tấu lên “khúc độc hành” – khúc ca đã đơn độc buồn thương. Chữ “gầm” – biện pháp nhân hóa, nồi nhớ thương của những lòng người như hóa thân vào một nỗi nhớ thương của dòng sông hay dòng sông ấy vẫn đang chở đi những khúc ca đã đau đớn của con người. “Anh về đất” là hóa thân cho dáng hình xứ sở và thực hiện xong nghĩa vụ quang vinh của chính mình. Tiếng gầm của dòng sông Mã về xuôi như loạt đại bác rền vang, vĩnh biệt người con yêu dấu của giống nòi. Cuối cùng, sau khi hồi tưởng lại bình ảnh đoàn binh Tây Tiến một đã thời mê say lãng mạn, tác giả Quang Dũng đã bộc lộ nỗi niềm mong ước gặp lại Tây Tiến:

Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi

Câu thơ trên đã trở về với mạch cảm xúc chung của bài thơ, cảm xúc thương nhớ và nhưng vẫn mang trong nó âm hưởng tráng trí vang ngất ngời. Câu thơ nói đã về biệt ly, về xa cách, có ngậm ngùi nuối tiếc nhưng vần đầy những dũng khí, quyết tâm. Khoảng cách càng xa thăm thẳm thì nỗi nhớ trở nên vời vợi bởi xa Tây Tiến không biết bao giờ mới được gặp lại. Người đọc đã cảm thấy nồi nhớ thương như là đang đầy cả câu thơ trên. Hai câu cuối, với giọng điệu và mạch cảm xúc có sự chuyển hướng: câu thơ cũng giống như một lời mời gọi, một lời nhắn nhủ và ước hẹn tha thiết ân tình. Phải chăng đây là lời hẹn gặp mà Tây Tiến vào mùa xuân – mùa xuân của hội ngộ, của chiến thắng oanh liệt. Điều đó chứng tỏ tác giả đã mong ngày gặp lại Tây Tiến và trở về Tây Tiến chính là ngày mà chiến thắng. Câu thơ kết vang lên kiêu hãnh như một lời thề, với lời hứa quyết tâm. Từ nồi nhớ về một đoàn binh, rồi về những con người cụ thể đã hóa thân thành một nỗi nhớ về một mảnh đất, một quê hương, Tây Tiến cũng đã trở thành nỗi nhớ, với niềm yêu tha thiết của Quang Dũng.

Nhà phê bình Phong Lan đã nhận định: “Tây Tiến là một tượng đài bất tử về người lính vô danh” – bất tử bởi chính vẻ đẹp hào hoa và hào hùng bi tráng. Vì vậy, người lính Tây Tiến Cũng qua bài thơ cùng tên của tác giả Quang Dũng sẽ sống mãi trong cõi vĩnh hằng, trong thế giới nhân sinh.

Bình luận (0)
nguyên công minh
Xem chi tiết
cong chua gia bang
21 tháng 10 2016 lúc 16:47

Vẻ đẹp của người lính trong đoạn ba bài Tây Tiến


Quang Dũng đã dựng bức tượng đài về người lính vô danh trong khổ thơ thứ ba của bài thơ Tây Tiến. Ta có thể xem khổ thơ thứ ba này là những nét bút cuối cùng hoàn thiện bức tượng đài về chân dung người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa. Chân dung người lính hiện lên ở khổ thơ thứ 3 có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp tâm hồn, lý tưởng chiến đấu và phẩm chất hy sinh anh dũng. Có thể nói cả bài thơ là một tượng đài đầy màu sắc bi tráng về một đoàn quân trên một nền cảnh khác thường.

Chân dung đoàn binh Tây Tiến được chạm khắc bằng nét bút vừa hiện thực vừa lãng mạn. Các chi tiết như lấy từ đời sống hiện thực và khúc xạ qua tâm hồn thơ Quang Dũng để rồi sau đó hiện lên trên trang thơ đầy sức hấp dẫn. Dọc theo hành trình, vẻ đẹp hào hùng kiêu dũng cứ lấp lánh dần lên, đến khi ng¬ười lính Tây Tiến đối mặt với dịch bệnh, đối mặt với cái chết thì nó thật chói người, nét nào cũng sắc sảo lạ lùng và đầy lãng mạn:
 Tây Tiến đoàn binh không mọc tócQuân xanh màu lá dữ oai hùm.
Chữ dùng của Quang Dũng ở đây thật lạ. Nếu mở đầu đoạn thơ tác giả dùng từ “Đoàn quân” thì ở đây tác giả dùng “Đoàn binh”. Cũng đoàn quân ấy thôi nhưng khi dùng “Đoàn binh” thì gợi hình ảnh đoàn chiến binh có vũ khí, có khí thế xung trận át đi vẻ ốm yếu của bệnh tật. Ba chữ “không mọc tóc” là đảo thế bị động thành chủ động. Không còn đoàn quân bị sốt rét rừng lâm tiều tuỵ đi rụng hết cả tóc. Giọng điệu của câu thơ cứ y như là họ cố tình không mọc tóc vậy. Nghe ngang tàng kiêu bạc và thấy rõ sự bốc tếu rất lính tráng.

Các chi tiết “không mọc tóc, quân xanh màu lá” diễn tả cái gian khổ khác thường của cuộc đời người lính trên một địa bàn hoạt động đặc biệt. Di chứng của những trận sốt rét rừng triền miên là “tóc không mọc” da xanh tái. Nhưng đối lập với ngoại hình tiều tụy ấy là sức mạnh phi thường tự bên trong phát ra từ tư thế “dữ oai hùm”. Với nghệ thuật tương phản chỉ 2 dòng thơ Quang Dũng làm nổi bật vẻ khác thường của đoàn quân Tây Tiến. Họ hiện lên như hình ảnh tráng sĩ trượng phu một thuở qua hai câu tiếp:

 Mắt trừng gửi mộng qua biên giớiĐêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
“Mắt trừng” biểu thị sự dồn nén căm uất đến cao độ như có khả năng thiêu đốt quân thù qua ánh sáng của đôi mắt. Hình ảnh thơ làm nổi bật ý chí của đoàn binh Tây Tiến. ở đây người lính Tây Tiến được đề cập đến với tất cả thực trạng mệt mỏi, vất vả qua các từ “không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”. Chính từ thực trạng này mà chân dung người lính sinh động chân thực. Thế nhưng vượt lên trên khó khăn thiếu thốn, tâm hồn người lính vẫn cất cánh “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Câu thơ ánh lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến. Ban ngày “Mắt trừng gửi mộng” giấc mộng chinh phu hướng về phía trận mạc như¬ng khi bom đạn yên rồi giấc mộng ấy lại hướng về phía sau cũng là hướng về phía trước, phía tương lai hẹn ước. Một ngày về trong chiến thắng để nối lại giấc mơ xưa. ý chí thì mãnh liệt, tình cảm thì say đắm. Hai nét đẹp hài hòa trong tính cách của những chàng trai Tây Tiến.
Quang Dũng đã dùng hình ảnh đối lập: một bên là nấm mồ, một bên là ý chí của những người chiến binh:

 Rải rác biên cương mồ viễn xứChiến trường đi chẳng tiếc đời xanháo bào thay chiếu anh về đấtSông Mã gần lên khúc độc hành.
“Mồ viễn xứ” là những nấm mồ ở những nơi xa vắng hoang lạnh. Những nấm mồ rải rác trên đường hành quân, nhưng không thể cản được ý chí quyết ra đi của người lính. Câu thơ sau chính là câu trả lời dứt khoát của những con người đứng cao hơn cái chết:
 Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Chính tình yêu quê hương đất nước sâu nặng đã giúp người lính coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Khi cần họ sẵn sàng hy sinh cho nghĩa lớn một cách thanh thản bình yên như giấc ngủ quên. Câu thơ vang lên như một lời thề đúng là cái chết của bậc trượng phu:
 “Áo bào thay chiếu anh về đất”
Nếu như người tráng sĩ phong kiến thuở trước coi da ngựa bọc thây là lí tưởng thì anh bộ đội cụ Hồ ngày nay chiến đấu hi sinh vì Tổ quốc một cách tự nhiên thầm lặng. Hình ảnh “áo bào” làm tăng không khí cổ kính trang trọng cho cái chết của người lính. Hai chữ “áo bào” lấy từ văn học cổ tái tạo vẻ đẹp của một tráng sĩ và nó làm mờ đi thực tại thiếu thốn gian khổ ở chiến trường. Nó cũng gợi được hào khí của chí trai “thời loạn sẵn sàng chết giữa sa trường lấy da ngựa bọc thây. Chữ “về” nói được thái độ nhẹ nhõm, ngạo nghễ của người tráng sĩ đi vào cái chết “Anh về đất” là hình ảnh đầy sức mạnh ngợi ca. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ thiêng liêng, người lính Tây Tiến trở về trong niềm chở che của đất mẹ quê hương, của đồng đội. Trở về với nơi đã sinh dưỡng ra mình. Trước những cái chết cao cả ở địa bàn xa xôi hẻo lánh sông Mã là nhân vật chứng kiến và tiễn đưa.

Mở đầu bài thơ ta gặp ngay hình ảnh sông Mã, con sông ấy gắn liền với lịch sử đoàn quân Tây Tiến. Sông Mã chứng kiến mọi gian khổ, mọi chiến công và giờ đây lại chứng kiến sự hy sinh của người lính. Đoạn thơ kết thúc bằng khúc ca bi tráng của sông Mã.

 “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Dòng sông Mã là chứng nhân của một thời kỳ hào hùng, chứng kiến cái chết của người tráng sĩ, nó gầm lên khúc độc hành bi phẫn, làm rung động cả một chốn hoang sơ. Câu thơ có cái không khí chiến trận của bản anh hùng ca thời cổ. Câu thơ đề cập đến mất mát đau thương mà vẫn hùng tráng.
Bốn câu kết:

Bốn câu thơ kết thúc được viết như những dòng chữ ghi vào mộ chí. Những dòng sông ấy cũng chính là lời thề của các chiến sĩ vệ quốc quân.

 “Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy”
“Mùa xuân” có thể được dùng nhiều nghĩa: thời điểm thành lập đoàn quân Tây Tiến (mùa xuân 1947), mùa xuân của đất nước, mùa xuân (tuổi thanh xuân) của đời các chiến sĩ.

Hình ảnh “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”, “chẳng về xuôi” bỏ mình trên đường hành quân “Hồn về Sầm Nứa”: chí nguyện của các chiến sĩ là sang nước bạn hợp đồng tác chiến với quân tình nguyện Lào chống thực dân Pháp, thực hiện lý tưởng đến cùng. Bởi vậy dù đã ngã xuống trên đường hành quân hồn (tinh thần của các anh) vẫn đi cùng với đồng đội, vẫn sống trong lòng đồng đội: Vang vọng âm hửơng văn tế của Nguyễn Đình Chiểu: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc”.
  
Bình luận (0)
Lưu Linh Nhiệm
Xem chi tiết
Đặng Hữu Thành Đạt
12 tháng 9 2021 lúc 10:21

vẻ đẹp tuyệt với 

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa
Đặng Hữu Thành Đạt
12 tháng 9 2021 lúc 10:22

anh vào mạng cha

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa
Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn Dĩnh
23 tháng 12 2017 lúc 16:00

1. Mở bài:

Tây Tiến là bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Quang Dũng. Bài thơ được Quang Dũng viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh khi ông đã xa đơn vị Tây Tiến một thời gian.

- Đoàn quân Tây Tiến được thành lập vào đầu năm 1947. Những người lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có cả học sinh, sinh viên.

- Đoạn thơ cần phân tích là đoạn thứ ba của bài thơ, trong đó Quang Dũng đã khắc họa hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến bằng bút pháp lãng mạn, thấm đẫm tinh thần bi tráng.

2. Thân bài:

a. Vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến:

   Hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn với khuynh hướng tô đậm những cái phi thường, sử dụng rộng rãi thủ pháp đối lập để tác động mạnh vào cảm quan người đọc, kích thích trí tưởng tượng phong phú của người đọc.

- Trong bài thơ, Quang Dũng đã tạo được một không khí, chuẩn bị cho sự xuất hiện trực tiếp của những người lính Tây Tiến ở đoạn thơ thứ ba này. Trên cái nền hoang vu hiểm trở vừa hùng vĩ vừa dữ dội khác thường của núi rừng (ở đoạn một), và duyên dáng, mĩ lệ, thơ mộng của Tây Bắc (ở đoạn hai), đến đoạn thơ thứ ba, hình ảnh những người lính Tây Tiến trực tiếp xuất hiện với một vẻ đẹp độc đáo và kì lạ:

Tây Tiến đoàn binh không mc tóc ....Đêm mơ Hà Ni dáng kiu thơm

- Quang Dũng đã chọn lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể đặng khái quát những gương mặt chung của cả đoàn quân. Qua ngòi bút của ông, những người lính Tây Tiến hiện ra đầy oai phong và dữ dội khác thường. Thực tế gian khổ thiếu thốn đã làm cho người lính da dẻ xanh xao, sốt rét làm họ trụi cả tóc. Quang Dũng không hề che giấu những sự thực tàn khốc đó. Song, cái nhìn lãng mạn của ông đã thấy họ ốm mà không yếu, đã nhìn thấy bên trong cái hình hài tiều tụy của họ chứa đựng một sức mạnh phi thường. Và ngòi bút lãng mạn của ông đã biến họ thành những bức chân dung lẫm liệt, oai hùng. Cái vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính, qua cái nhìn của ông, vẫn toát lên cái oai phong của những con hổ nơi rừng thiêng. Cái vẻ oai phong, lẫm liệt ấy còn được thể hiện quan ánh mắt giận dữ (mắt trừng gửi mộng) của họ ...

- Cái nhìn nhiều chiều của Quang Dũng đã giúp ông nhìn thấy xuyên qua cái vẻ oai hùng, dữ dằn bề ngoài của những người lính Tây Tiến là những tâm hồn còn rất trẻ, những trái tim rạo rực, khao khát yêu đương (Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm).

   Như vậy, trong bốn câu thơ trên, Quang Dũng đã tạc lên bức tượng đài tập thể những người lính Tây Tiến không chỉ bằng những đường nét khắc họa dáng vẻ bề ngoài mà con thể hiện được cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ.

b. Chất bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến:

- Khi viết về những người lính Tây Tiến, Quang Dũng đã nói tới cái chết, sự hi sinh nhưng không gây cảm giác bi lụy, tang thương. Cảm hứng lãng mạn đã khiến ngòi bút ông nói nhiều tới cái buồn, cái chết như là những chất liệu thẩm mỉ tạo nên cái đẹp mang chất bi hùng:

Ri rác biên cương m vin x ....Sông Mã gm lên khúc độc hành.

- Khi miêu tả những người lính Tây Tiến, ngòi bút của Quang Dũng không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi lụy. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của lí tưởng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến.

   Cái sự thật bi thảm những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả mảnh chiếu che thân, qua cái nhìn của nhà thơ, lại được bọc trong những tấm ào bào sang trọng. Và rồi, cái bi thương ấy bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã:

Áo bào thay chiếu anh v đấtSông Mã gm lên khúc độc hành.

   Cái chết, sự hi sinh của những người lính Tây Tiến được nhà thơ miêu tả thật trang trọng. Cái chết ấy đã tạo được sự cảm thương sâu sắc ở thiên nhiên. Và dòng sông Mã đã trân trọng đưa tiễn linh hồn người lính bằng cách tấu lên khúc nhạc trầm hùng.

- Tóm lại, hình ảnh những người lính Tây Tiến trong đoạn thơ này thấm đẫm tính chất bi tráng, chói ngời vẻ đẹp lí tưởng, mang dáng vẻ của những anh hùng kiểu chinh phu thuở xưa một đi không trở lại.

3. Kết bài:

Tây Tiến là sự kết tinh những sắc thái vừa độc đáo vừa đa dạng của ngòi bút Quang Dũng. Nhà thơ đã sáng tạo được hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến, miêu tả được vẻ đẹp tinh thần của những con người tiêu biểu cho một thời kì lịch sử một đi không trở lại.

- Thơ ca kháng chiến chống Pháp đã miêu tả thành công hình ảnh người lính. Và Quang Dũng, qua bài thơ Tây Tiến nổi tiếng của mình, đã góp vào viện bảo tàng hình ảnh những người lính đó bức chân dung người lính Tây Tiến rất độc đáo của mình.

Bình luận (0)
nguyên công minh
Xem chi tiết
Nhók Bướq Bỉnh
21 tháng 10 2016 lúc 12:50

Ra đời trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ. Tây Tiến là một hồi tưởng rất đẹp, những kỉ niệm đầy sống động về người chiến sĩ trong đoàn quân Tây Tiến. Hồi tưởng của một anh lính tài hoa có tinh thần xả thân vì nghĩa lớn - Quang Dũng. Cho nên, khác với vẻ đẹp của các bài thơ cùng thời, vẻ đẹp của y Tiến là vẻ đẹp hài hoà, hào hoa, bi tráng. Bài thơ mở đầu với một tiếng gọi dồn chứa tâm trạng, thoạt đầu đọc lên có vẻ lạ lùng:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.

Hai câu thơ xác định rõ hai khoảng không gian khác nhau. Không gian thực tại và không gian hồi tưởng. Tuy nhiên, chỉ có độc giả mới nhận ra rành rõ điều đó, còn đối với nhà thơ, khi ông nói xa rồi là khi những hình ảnh của một quá khứ chưa xa, nó đang ập tới; nhấc bổng ông khỏi mảnh đất thực tại, để hồn thơ lơ lửng, chơi vơi trong cõi nhớ cũng xa rồi chứ đâu chỉ “Sông Mã”.

Vậy là, chẳng cần đến sự dẫn dắt dềnh dàng nhằm chuyển vùng không gian cho người đọc, một thời Tây Tiến đã hiện lên tức khắc trước mắt ta. Trong kí ức nhà thơ, các ấn tượng hãy còn nóng hổi, tươi nguyên và cái nặng nhọc, vất vả ngày nào dường như còn chưa tan hẳn, ta thấy các địa danh được hiện lên, tất cả hãy còn đây rành rành trong tâm trí.

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỗi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi.

 

Sự hiện tại hóa quá khứ dưới tác động của một kí ức sâu mạnh đã vẽ nên một bức tranh đầy ấn tượng về thiên nhiên khắc nghiệt nhưng cũng tràn đầy thơ mộng. Thiên nhiên ấy thường vần thử thách các chiến sĩ, đôi khi muôn vùi lấp những sinh mạng bé nhỏ trong những khoảnh khắc của thung lũng sương mù. Nhưng cũng chính khung cảnh này, khiến tâm hồn của các chàng trai gốc Hà Nội được một phen bay bổng. Nếu “sương lấp” lạnh lùng, nặng nề đe dọa bao nhiêu thì “hoa về” lại nhẹ nhõm, tươi tắn, ấm áp bấy nhiêu. “Mường lát hoa về trong đêm hơi” - câu thơ nhiều thanh bằng diễn tả một trạng thái lâng lâng. Dĩ nhiên là cái lâng lâng vừa đến sau một chặng đường mỏi mệt. Khung cảnh rừng núi mà đoàn quân Tây Tiến đã bước chân qua, vừa thơ mộng lại vừa hùng vĩ. Một bức tranh làm xao động lòng ta như một bức tranh thủy mặc hiện đại: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Lại có những nét vẽ thật táo báo, câu thơ như bẻ gãy làm đôi: “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Có lúc, hình ảnh núi rừng rộn lên bởi tiếng hô gầm thét, lại có lúc hình ảnh nên thơ, duyên dáng về một cô gái cùng con thuyền độc mộc trên dòng sông chảy xiết.. Cám hứng lãng mạn của Quang Dũng không làm hạn hẹp đề tài, trái lại, qua cảm hứng này, tâm hồn ông rộng mở với toàn cảnh của núi rừng Tây Bắc, khiến tâm hồn ta đẹp một cách phóng khoáng.

Kết thúc đoạn thơ, đợt sóng cồn của kí ức bị đánh thức đột ngột hình như tan dần. Đợt sóng mới chưa được hình thành nên lúc này kí ức được kéo giãn ra. nhẹ nhàng lan tỏa để các hình ảnh tươi tắn hơn. Độc giả lại được dịp “nghỉ ngơi” để có thể nghiêng ngả theo điệu múa trong đêm liên hoan văn nghệ với Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa” và được thả hồn “đong đưa” theo cánh hoa tươi trên dòng nước lũ.

Thiên nhiên trong Tây Tiến bao giờ cũng là một nhân vật quan trọng, tràn đầy sinh lực và thấm đượm tình người. Hồn thơ tinh tế của tác giả “bắt” rất nhạy một làn sương chiều mỏng, một dáng hoa lau núi phất phơ đơn sơ bất chợt. Rồi nhà thơ thổi hồn mình vào đó và để lại mãi trong ta một niềm bâng khuâng, thương mến. Và một ánh thơ đẹp xuất hiện như mây chiều biên ải:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ.

Tây Tiến hiện lên khung cảnh thiên nhiên hoang sơ, kì vĩ với đủ cả núi cao, vực thẳm, dốc đứng, thác gầm cùng cồn mây heo hút, dòng lũ hoa trôi với khói lên, sương lấp, mưa xa khơi... Trên cái nền thiên nhiên kì vĩ, dữ dội ấy, nổi bật lên hình ảnh đoàn quân Tây Tiến “nhỏ bé” như bị ngập hút đi. Nhưng chính sự đối chọi, tương phản đó càng tăng thêm khí phách anh hùng của đoàn quân Cách mạng, mà kẻ thù, cũng như gian khổ không thế khuất phục nổi. Hình ảnh những người lính qua nét vẽ của Quang Dũng thật khác thường. Khác thường ở sự gian khổ cùng cực: ăn đói, mặc rét, bệnh tật, sốt rét đến xanh da, trụi tóc. Khác thường ở chỗ tác giả cố ý không miêu tả một gương mặt chiến sĩ riêng biệt với tên tuổi cụ thế nào, ông đã dồn các phẩm chất tốt đẹp cùa những tráng sĩ Tây Tiến thành gương mặt chung của cả một đoàn quân.

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh mau lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Ta có thể hiểu, đây là hình ánh khá chân thật về diện mạo bên ngoài người lính mũ cài lá ngụy trang, thân thể xanh xao vì sốt rét. Nhưng cảm hứng ở đây lại tràn đầy một nỗi niềm thân quen. Từ thân quen mà thấy cái anh hùng của họ. Câu thơ tạo nên hình ảnh đối lập, bề ngoài thì xanh như lá, thiếu sức sống, nhưng bên trong người chiến sĩ thế hiện một phong độ anh hùng, oai như hùm nơi “rừng thiêng nước độc". Câu thơ “Quân xanh màu lá dữ oai hùm” đã gợi được dũng khí cùa người chiến binh thuở ấy. Nó mang cái dáng dấp kiêu hùng của người coi thường gian khổ. hi sinh để giữ cái thế hiên ngang của đoàn quân Tây Tiến. Với bút pháp lãng mạn và cảm hứng say nồng, Quang Dũng đã dựng nên cái tương phản trong hình ảnh để rồi hòa hợp với tâm hồn làm cho ta thấu hiểu và cảm thông, tìm thấy ở đây một hình ảnh đẹp.

Người Hà Nội trở thành người chiến binh thì cái oai phong cũng rất Hà Nội. Quang Dũng đã viết đúng hình ảnh người lính Tây Tiến từ Hà Nội chiến tranh mà ra đi:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiểu thơm

Thực ra hai câu thơ ấy chỉ là nỗi lòng của nhà thơ muốn bộc lộ thật đậm, thật rõ chất lính của người thanh niên Hà Nội tài hoa lãng mạn. Lại có người nói: thời chiến chinh ác liệt nói về giấc mơ “dáng kiều thơm" là xa rời tinh thần chiến đấu. Thực ra cuộc đời con người vô cùng phong phú,tâm trạng cùa chàng trai Hà Nội lại càng có những nét hào hoa và tình cảm riêng. Cho nên nói người lính Tây Tiến “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”, chỉ tô đậm cái đẹp của những con người ấy mà thôi. Hơn nữa, vẻ đẹp chân thực không bao giờ làm cho con người giảm sút lòng chiến đấu. Phẩm chất người lính qua hồi tưởng của Quang Dũng đã hiện lên vừa hào hùng, hào hoa và cũng vừa bi tráng. Nhà thơ đã nhìn thẳng vào những tổn thất, hi sinh để viết những câu thơ :

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiên trường đi chẳng tiếc đời xanh

Câu thơ có cái gì xót xa gợi niềm cảm thương trong lòng người đọc. Miền đất biên ải xa xôi đã yên nghỉ bao cuộc đời người lính. Nơi đó có chút gì hoang vắng ghê rợn trước những nấm mồ viễn xứ. Nhưng rồi sau đó cảm hứng thơ lại bừng lên những suy nghĩ thật hào hùng “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, thể hiện một sự quên mình của lớp trẻ thanh niên đầy nghĩa khí. Phương châm sống của họ cao đẹp mà giản dị. Thời ấy không ít thơ viết về người chiến sĩ. nhưng chỉ có Tây Tiến của Quang Dũng mạnh dạn nói đến cái chết. Cái chết tạo nên vinh quang của tuổi xanh thầm lặng mà cao cả hiến mình cho dân tộc.

Nét đặc sắc của Quang Dũng trong Tây Tiến còn thể hiện ở một ngòi bút sắc sảo tinh tế. Viết về chiến tranh, nhưng cả bài thơ không có một chữ nào về trận đánh, về tiếng súng, về máu đổ hay về kẻ thù. Người đọc vẫn hình dung rất rõ gương mặt và không khí của chiến tranh. Điều lạ lùng là bài thơ có ba lần nói đến cái chết cùa người chiến sĩ trong các trường hợp khác nhau, nhưng không một lần nhà thơ nhắc tới từ “chết” hoặc “hi sinh”. Nhà thơ đã thay thế từ “chết” bàng các cụm từ giản dị “về đất”, “bỏ quên đời”, “hồn về”... Đến đoạn thơ cuối lí tướng cách mạng và tuổi trẻ đã truyền cho các chàng trai Tây Tiến chất anh hùng ngang tàng và cả chất men say lãng mạn đáng yêu. Ngay cả khi họ chết cũng phảng phất vẻ nghệ sĩ — tài tử, cái đẹp bi tráng chứ không bi lụy.

Để tiễn người lính Tây Tiến hi sinh, Quang Dũng không cần đến một lời ngợi ca sáo mòn nào, cũng không cần đến một giọt nước mắt... Ông chỉ để cho trời đất chứng giám, thu nhận thể xác và linh hồn người lính vào lòng: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành” tiếc thương đưa người lính Tây Tiến vào cõi bất tử. Bởi vì, kể từ đây khúc độc hành” tiếc thương đưa người lính Tây Tiến vào cõi bất tử. Bởi vì, kể từ đây hồn các anh đã hòa quyện vào cỏ cây, sông núi đế trở thành “hồn thiêng đất nước”.

Nhà phê bình Phong Lan nhận định: “Tây Tiến một tượng đài bất tử về người lính vô danh”. Bất tử bởi chính vẻ đẹp hào hùng, hào hoa, bi tráng náy. Và do vậy, người lính Tây Tiến qua bài thơ cùng tên của Quang Dũng sẽ sống mãi trong cõi vĩnh hằng và trong thế giới nhân sinh.

 

Bình luận (0)
20. Nguyễn Tô Bảo Ngân 8...
Xem chi tiết
20. Nguyễn Tô Bảo Ngân 8...
27 tháng 12 2021 lúc 22:22

Mn ơi em đang cần gấp, mn giúp em với đc kh ạ

Bình luận (0)
Uyên  Thy
27 tháng 12 2021 lúc 22:24

Bạn tham khảo nha!
Trong dòng chảy văn học của dân tộc, bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” của Phan Châu Trinh đã góp một phần nhỏ của mình khi thể hiện được tư thế hiên ngang của người chí sĩ cách mạng trước hoàn cảnh chốn lao tù vẫn lạc quan quyết không “sờn lòng đổi chí”.
Phan Châu Trinh từng bị chính quyền thực dân khép vào tội xúi giục nhân dân nổi loạn trong phong trào chống thuế ở Trung Kì và bị bắt đày ra Côn Đảo. Trong những năm tháng sống ở Côn Đảo, ông bị bắt phải lao động khổ sai với công việc khai thác đá. Chính trong hoàn cảnh đó mà bài thơ được ra đời.
Khi đọc bốn câu thơ đầu tiên, chắc hẳn người đọc sẽ cảm nhận được rõ rệt tư thế hiên ngang của người tù cách mạng:
“Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,
Lừng lẫy làm cho lở núi non.
Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hòn”
Ngay từ câu thơ mở đầu, nhà thơ đã miêu tả chân thực bối cảnh sống, làm việc của người tù cách mạng tại Côn Đảo (Côn Lôn). Đó là nơi họ bị giam cầm, bị tra tấn dã man và còn bị bắt lao động khổ sai. Nhưng khi đứng trước núi non rộng lớn, họ vẫn giữ vững được tư thế hiên ngang, lừng lẫy làm chủ đất trời rộng lớn. Phàm là phận nam nhi, dù có đứng trước hiểm nguy hay nhọc nhằn vẫn không mất đi dáng vẻ “đầu đội trời, chân đạp đất”. Câu thơ còn thể hiện quan điểm của nhà thơ về chí làm trai. Ông cha ta cũng từng có câu: “Làm trai cho đáng nên trai”. Nguyễn Công Trứ thì viết:
“Chí làm trai Nam, Bắc, Tây, Đông
Cho phí sức vẫy vùng trong bốn bể”
Trong câu thơ của Phan Châu Trinh chí làm trai thật lớn lao, mạnh mẽ. Nhân vật trữ tình hiện lên trong tư thế làm chủ, hiên ngang, đầu đội trời, chân đạp đất, vô cùng anh dũng, kiêu hùng. Đây cũng là nét mới trong cách thể hiện chí làm trai của ông. Những câu thơ tiếp theo, nhà thơ đi sâu vào miêu tả công việc khổ sai của người tù cách mạng. Đó là công việc đập đá - một công việc vất vả, nặng nhọc. Tác giả đã sử dụng hàng loạt động từ “làm cho”, “xách búa, “đánh tan”, “đập bể” kết hợp bút pháp cường điệu với các hình ảnh “núi non”, “năm bảy đống”, “mấy trăm hòn”. Từ đó, hình ảnh người chí sĩ cách mạng hiện lên với một tư thế thật đẹp đẽ cùng sức mạnh thật phi thường.
Không dừng lại ở đó, khi đọc bốn câu thơ tiếp, người đọc đã cảm nhận được hình ảnh người tù cách mạng hiện lên với sức khỏe dẻo dai cùng ý chí kiên cường, chiến đấu sắc son chống lại kẻ thù:
“Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng càng bền dạ sắt son.
Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian nan chi kể sự con con”
Nhà thơ đã xây dựng các hình ảnh đối lập “tháng ngày” - “mưa nắng” và “thân sành sỏi” - “dạ sắc son” để cho thấy sức chịu đựng bền bỉ, dẻo dai của người tù cách mạng. Dù công việc đập đá có thể kéo dài đằng đẵng hết ngày này qua ngày khác với những khổ cực. Thì người tù cách mạng vẫn không hề sờn lòng. Ngược lại, nó giống như một thứ sức mạnh to lớn giúp họ tôi luyện chính bản thân người tù. Thật đáng tự hào và ngưỡng mộ biết bao trước tinh thần kiên cường đó. Bài thơ khép lại như một lời tự ý thức sâu sắc về trách nhiệm của người tù cách mạng đối với sự nghiệp cứu nước. Hình ảnh “vá trời” gợi cho ta liên tưởng về sự tích “Nữ Oa vá trời” để từ đó khẳng định sức mạnh to lớn của người chiến sĩ cách mạng trong công cuộc bảo vệ đất nước. Chính họ hiểu được rằng đó là một công việc gian khổ, vất vả nhưng cũng đầy vinh quang, tự hào. Cùng với đó là thái độ coi thường những khổ cực đó - “gian nan chi kể sự con con”, khó khăn, vất vả nơi nhà tù chẳng thấm vào đâu.
Tóm lại, bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” là một bài thơ giàu ý nghĩa. Qua công việc rất cụ thể là đập đá của người chiến sĩ cách mạng, người đọc đã thấy được tư thế hiên ngang cùng với ý chí bền bỉ của họ.

Bình luận (8)
Uyên  Thy
28 tháng 12 2021 lúc 21:56

Bạn tham khảo nhé!
Có những người anh hùng dù bị gông tù giam cầm nhưng vẫn hiên ngang, ngẩng cao đầu hướng về tương lai. Có những người tù bị tra tấn dã man nhưng vẫn cất cao lời ca yêu nước, yêu dân. Bài “Đập đá ở Côn Lôn” của Phan Châu Trinh là một bài thơ tiêu biểu cho tinh thần như vậy, đồng thời khẳng định chí làm trai ở trên đời cần phải sống có lý tưởng, có mục tiêu.

Nhắc đến đảo Côn Lôn, chúng ta lại nhớ đến nhà tù Côn Đảo, nơi đã giam giữ biết bao nhiêu người con cách mạng. Nơi đó có máu, có nước mắt và có cả những khát khao được đập tung cánh cửa nhà tù, ra với thế giới bên ngoài để kháng chiến chống lại kẻ thù.Bài thơ là tiếng hát, tiếng lòng của người anh hùng cách mạng được cất lên giữa gông cùm Côn Đảo. Giọng thơ hào hùng, đanh thép tạo nên âm hưởng chủ đạo cho cả bài thơ.Hình ảnh một con người hiễn lên giữa nhà tù Côn Lôn thật hiên ngang, trong tư thế ngẩng cao đầu. Dù bị giam cầm, bị khổ sai nhưng vẫn “lừng lẫy”, công việc đập đá nặng nhọc, vất vả nhưng đối với người chiến sỹ cách mạng nó chỉ là việc “con con”. Người tù bỗng trở nên hùng vĩ, to lớn, mang tầm vóc vĩ đại.

Bình luận (0)
Sách Giáo Khoa
Xem chi tiết
Nguyễn Diệu Linh
15 tháng 6 2018 lúc 9:50
Ngoại hình: "không mọc tóc": có thể hiểu là sốt rét làm cho các chiến sĩ rụng hết tóc, cũng có thể hiểu là cắt tóc đi để tiện những trận đánh giáp lá cà. "xanh màu lá": có thể hiểu là quân thiếu thốn nên da xanh xao, hoặc người lính phải dùng lá cây để ngụy trang tránh kẻ địch phát hiện. “dữ oai hùm”: có thể hiểu là quân thiếu thốn nên da xanh xao, tuy nhiên vẫn có sức khỏe như hổ báo, cũng có thể hiểu là ngụy trang lá cây xanh đeo trên người của người lính Mắt trừng mắt tức giận căm thù quân giặc, hoặc là mắt không thể ngủ được "dáng kiều thơm": đây là hình ảnh những người con gái Hà Thành xinh đẹo. Ngày chiến đấu ngoan cường, tối về, người chiến sĩ vẫn một lòng hướng về hậu phương.

==> Nhà thơ khái quát nét ngoại hình người lính tuy ốm nhưng không yếu, vẫn giữ được vẻ đẹp của người lính .

Lí tưởng khát vọng và sự hi sinh: lý tưởng của người lính là đi lên chiến trường là xác định không trở về cho nên đi không tiệc đời còn xanh, còn trẻ. mồ chiến sĩ Tây Tiến rải rác khắp biên cương, nằm yên nghỉ ở xứ người. hi sinh vì thiếu thốn không có cả manh chiếu che thân. Nhà thơ đã thị vị hóa, trang trọng hóa sự hi sinh của người lính bằng các từ Hán vVệt “áo bào”, “biên cương”… con sông Mã gầm lên khúc độc hành: biện pháp nhân hóa, thể hiện nỗi đau xót, như lời tiễn biệt các anh trở về với đất Mẹ.

==> Diễn tả sự hi sinh vô cùng oanh liệt và dũng cảm của những người lính trong chiến đấu.

https://onthivan.com

Bình luận (0)
Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn Dĩnh
8 tháng 2 2019 lúc 13:19

Bút pháp tác giả sử dụng trong bài là bút pháp lãng mạn là chủ yếu:

   + Thủ pháp phóng đại, cường điệu, đối lập để tô đậm cái phi thường, gây ấn tượng mạnh và sâu đậm về những cái dữ dội, thơ mộng, tuyệt mĩ

- So sánh với bài thơ Đồng Chí của Chính Hữu:

   + Đồng chí sử dụng bút pháp tả thực làm nổi bật vẻ đẹp giản dị, chân chất của những anh lính xuất phát từ vùng quê nghèo

   + Các chi tiết miêu tả chân dung người lính đều chân thật, giống thực tế, họ luôn cùng lí tưởng chiến đấu nên chia sẻ cùng nhau những gian khổ đời lính

   + Tây Tiến của quang Dũng miêu tả, tái hiện hình ảnh Tây Bắc dữ dội, hoang sơ nhưng lại hết sức mơ mộng

   + Tác giả chú trọng nét độc đáo, khác thường làm nổi bật vẻ hào hoa, kiêu hùng của người lính chiến

Bình luận (0)
Buddy
Xem chi tiết