Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài

Những câu hỏi liên quan
oanh truong
Xem chi tiết
Thanh
16 tháng 11 2021 lúc 20:37

10d

Thanh
16 tháng 11 2021 lúc 20:46

11a, 12b, 13a, 14c, 15c, 16c, 17a,18a, 20b, 21d, 22b, 23b, 24d, 25b, 26a, 27b, 28b, 29d, 30b, 31d
hihimik ko chắc là dúng hết u nhe

Nguyễn Hà Giang
16 tháng 11 2021 lúc 20:53

10: D

11: A

12:B

13:A

14:C

15:C

16:B

17:C

18:D

19: B

20:B

21: D

22: C

23:B

24:A

25:A

26:C

27:B

28:B

29:D

30:B

31:D

NT Hảo
Xem chi tiết
Bạch Dương Cô Nương
Xem chi tiết
Linh Trần Khánh
16 tháng 10 2018 lúc 21:21

Đỗ Phủ và Lí Bạch là hai nhà thơ lớn xuất sắc của Trung Quốc. Thơ của hai người tràn ngập tình yêu thiên nhiên, yêu con người, yêu cuộc sống...

Lý Bạch được mệnh danh là "Thi Tiên", nghĩa là tiên thơ.

Kill Myself
16 tháng 10 2018 lúc 20:54

Lý Bạch – Wikipedia tiếng Việt 

Đỗ Phủ – Wikipedia tiếng Việt

Bn vào 2  link đó sẽ rõ

Chưa học nên chưa bik

Hok tốt

# Smile #

❤️ buồn ❤️
16 tháng 10 2018 lúc 20:55

Thi tiên Lý Bạch

 Lý Bạch (701 – 762), tự Thái Bạch, tổ tiên vốn ở Long Tây Thanh Kỷ (nay là thành phố Thiên Thuỷ, tỉnh Cam Túc), trước thời mạt Tuỳ, ông ở vùng Trung Á, sinh ở Toái Hiệp (nay là Tokmok, Kyrgystan). 5 tuổi, theo cha về ở  huyện Chương Minh Cẩm Châu (nay là huyện Giang Khúc tỉnh Tứ Xuyên).

Năm 25 tuổi, “chỉ kiếm khứ quốc, từ thân viễn du, nam cùng Thương Ngô, đông lạc minh hải”. Sau đó ông ở lại An Lục. Khoảng 10 năm sau,  lại  phía bắc đi đến Thái Nguyên, tây đến Trường An, phía đông đến Lỗ Quận, kết giao với không ít nhân vật nổi tiếng, viết không ít thơ văn. Truyền thuyết nói khi đến Trường An, Hạ Tri Chương gặp ông, ngạc nhiên vì vẻ “thi tiên nhân”, gọi thơ ông là khốc quỷ thần, giới thiệu ông gia nhập  thi đàn ở kinh đô. Năm Thiên Bảo nguyên niên, được sự dẫn dắt của công chúa Ngọc Trân, ông được triệu vào cung làm ở Hàn Lâm cung phụng, được sự đối đãi rất tử tế của Huyền Tông Lý Long Cơ. Nhưng Hàn Lâm  chẳng qua chỉ là cái tên gọi mà không có thực quyền. Dưới con mắt của Lý Bạch, đây chỉ là một lồng chim cảnh, một người có chí phò tá thiên hạ như ông, ở đây tất không có cách nào để thực hiện hoài bão. Ở trong cung được hai năm, ông được “thưởng vàng rồi cho về”.

Sau khi rời Trường An, Lý Bạch sống cuộc đời lang thang trôi nổi trong một thời gian dài, dấu chân của ông từng đi qua Tống, Tề, Lỗ, U, Ký, ông muốn ở ẩn ở Lư sơn, nhưng rồi lại được Vĩnh  Vương mời tha thiết tham gia mạc  phủ. Ở đó 2 năm, Vĩnh Vương bị Túc Vương đánh bại, Lý Bạch phải rời Dạ Lang, đi đến Vu Sơn thì lại được tha. Năm 61 tuổi, Lý Quang Bật làm đông trấn ở Lâm Hoài, Lý Bạch nghe tin bèn ra mắt xin đi đánh giặc  hy vọng những năm tuổi già có thể trả thù cho nước, nhưng rồi bị bệnh trên đường nên phải trở về, năm sau ông bị bệnh chết ở nhà Lý Dương Băng một  nhà thư pháp nổi tiếng đời Đường ở huyện Đương Đồ.

Lý Bạch yêu tha thiết non sông đất nước, ông có tình cảm hào hùng, những vần thơ phóng khoáng ca ngợi vẻ đẹp của  giang sơn gấm vóc. Ông miêu tả con sông Hoàng Hà nước chảy cuồn cuộn,  đường vào Thục gập ghềnh hiểm trở, cảnh hùng vĩ của Cửu Thiên, khung cảnh bao la bát ngát chưa từng có, tái hiện hình tượng thiên nhiên hùng vĩ. Ông đã từng dựa vào tưởng tượng, miêu tả Thiên Lão sơn, một thế giới thần tiên  hùng vĩ tráng lệ, biểu hiện khát vọng và nhu cầu tự do phóng khoáng. Những sáng tác của Lý Bạch đã thể hiện quá trình học tập vô  cùng gian khổ  các nhà thơ đời trước. Trong các tác phẩm của ông còn giữ lại rất nhiều những thơ, phú bắt chước người xưa. Ông đề cao Phụng, Nhã, ca ngợi Kiến An, trong thơ ca của ông có thể tìm thấy các tác phẩm nổi tiếng của nhiều đời, đặc biệt nổi bật  là việc học tập dân ca Nhạc Phủ. Thơ ca của ông có nhiều nét đặc sắc  với giọng điệu hào hùng, phóng khoáng.

Từ đời viễn cổ,  ban đầu nhân dân đã sáng tác ra các thần thoại truyền thuyết, đó là những biểu hiện đầu tiên của chũ nghĩa lãng mạn trong văn học. Đến thời Chiến Quốc, Khuất Nguyên đã đạt được  những thành tựu về văn học và văn  hoá, trong thực tiễn đấu tranh đã sáng tác những tác phẩm thơ ca sáng chói, nội dung phong phú và cao đẹp, hình thức kỳ diệu, đạt đến đỉnh cao của chủ nghĩa lãng mạn. Ông đã tiếp thu những triết lý và tản văn của Trang Tử sáng tạo nên rất nhiều những ngụ ngôn với ý tưởng kỳ lạ, có những cống hiến đáng kể cho chủ nghĩa lãng mạn. Từ Lưỡng Hán đến Sơ Đường, các sáng tác dân gian  và sáng tác của các nhà văn, truyền thống của chủ nghĩa lãng mạn không ngừng phát triển. “Mạch Thượng tang”, “Mộc lan từ” trong Hán Nguỵ Lục triều và dân ca Nhạc phủ,  một số tác phẩm của Tào Thực, Nguyễn Tịch, Tả Tư, Đào Uyên Minh, Bào Chiếu, những truyền thuyết ưu tú của tiểu thuyết chí quái thời Lục triều đề thể hiện chủ nghĩa lãng mạn một cách phong phú. Đến đời Thịnh Đường đã xuất hiện những đỉnh cao của chủ nghĩa lãng mạn mà Lý Bạch là tiêu biểu.

Sự cách tân của Lý Bạch trong thơ ca đời Đường cũng có những cống hiến đặc biệt, ông tiếp thu chủ trương cách tân trong thơ ca của Trần Tử Ngang, qua lý luận và thực tiễn đã khiến cho thơ ca cách tân của ông  đạt được  những thành công, trong bài thứ nhất “Cổ phong” ông hồi tưởng lại toàn bộ lịch sử phát triển của thơ ca, đã chỉ ra “Tự tòng Kiến An lai, kỳ lệ bất túc  trân”. Với tinh thần tự hào, khẳng định những hạn chế của thơ Đường lúc đó       , khôi phục con đường chính xác của  Phong, Nhã truyền thống. Trong bài thứ 35 Cổ phong, lại phê phán phong cách thơ ca hình thức chủ nghĩa  đương thời  bắt chước trau chuốt coi thường nội dung tư tưởng “Nhất khúc phỉ nhiên tử, Điêu trùng tang thiên chân”. Trong thực tiễn sáng tác, ông và Trần Tử Ngang có nhiều nét giống nhau: viết nhiều cổ thể, ít thơ luật, nhưng ông đã học tập dân ca Nhạc phủ ra sức khai thác thơ 7 chữ, thành tựu của ông vượt xa Trần Tử Ngang. Những cố gắng này của ông trong việc cách tân thơ ca đã có những tác dụng vô cùng to lớn. Sau khi ông mất, Lý Dương Băng đã  đề trong “Thảo đường tập” của ông: “Đây là những đánh giá chính xác những đóng góp của ông trong việc cách tân thơ ca.”

Với đời sau, thơ ca của Lý Bạch cũng có ảnh hưởng vô cùng to lớn. Những bài thơ nổi tiếng đương thời đã được phổ biến, đến thời Trinh Nguyên, thơ ông chưa được in thành quyển nhưng “nhà nhà đều có”. Thời Trung Đường, Hàn Dũ, Mạnh Giao đã ra sức ca ngợi thơ  ông, lại từ việc tiếp thụ những kinh nghiệm của ông, sáng tạo nên những bài thơ có phong cách độc đáo. Những đặc điểm của phong cách lãng mạn chủ nghĩa trong thơ ông càng thể hiện và phát triển. Các nhà thơ đời Tống như Tô Thuấn Khâm,  Vương Lệnh, Tô Thức, Lục Du, các nhà thơ Minh Thanh như Cao Khải, Dương Thận, Hoàng Cảnh Nhân, Cung Tự Trân cũng  cũng được nuôi dưỡng bằng thơ ca của ông. Ngoài ra, Tô Thức, Tân Khí Tật với những bài từ hào phóng cũng chịu ảnh hưởng của ông. Một số câu chuyện truyền thuyết  được viết thành tiểu thuyết, lan truyền  trong dân gian cũng biểu hiện nhiệt tình  của nhân dân đối với ông.

Nét đặc sắc của chủ nghĩa lãng mạn mãnh liệt đã tạo nên đặc điểm nghệ thuật trong tác phẩm của  Lý Bạch. Sau Khuất Nguyên, ông là nhà thơ lãng mạn vĩ đại nhất của nước ta. Ông có trí tưởng tượng vô tận, vận dụng những câu chuyện ly kỳ của thần thoại, dùng tình cảm mãnh liệt của mình để miêu tả đối tượng với ngòi bút khiến mọi người phải kinh ngạc, ý tứ phóng túng đã miêu tả thế giới sắc sảo lạ kỳ. Thơ ca của  ông chứa đựng nội dung mãnh liệt và hình thức hấp dẫn là viên ngọc chói sáng trong tài sản tinh thần  của nhân dân ta.

 Thi thánh Đỗ Phủ

     Đỗ Phủ (712 – 770) tự là Tử Mỹ, khi làm thơ tự xưng là Thiếu Lăng Dã Lão, quê ở Tương Dương (nay  thuộc Hồ Bắc), sau đó dời về huyện Củng (nay thuộc Hà Nam), là cháu của Đỗ Thẩm Ngôn. Từ nhỏ  ông đã học giỏi, tri thức uyên bác, rất có chí lớn về chính trị. Cùng với Lý Bạch ông là một trong các nhà thơ nổi tiếng nhất đời Đường. Trong lịch sử văn học, người ta thường gọi chung là Lý Đỗ. Đỗ Phủ sinh trưởng trong một gia đình quan lại nhưng đã thất thế, từ nhỏ đã  khổ công đọc sách cũng đã từng đi du lịch ở những nơi núi cao rừng thẳm, viết được rất nhiều những tác phẩm xuất sắc. Khi ngoài ba mươi tuổi, ông gặp Lý Bạch ở Lạc Dương. Đỗ Phủ kém Lý Bạch tới 11 tuổi, hai người có tính cách không giống nhau nhưng do cùng chí hướng và tình cảm nên  họ đã trở thành những người bạn thân thiết. Sau đó, ông đến Trường An tham gia kỳ thi tiến sĩ, lúc này gian tướng Lý Lâm Phủ đang nắm quyền, Lý Lâm Phủ rất căm ghét những kẻ đọc sách, sợ những người này khi bước vào quan trường, sẽ bàn bạc về việc triều chính, không có lợi cho hắn, vì thế, hắn cấu kết với các quan chấm thi, lừa dối Huyền Tông, nói rằng  những người dự thi lần này rất kém, không có một ai đủ tư cách trúng tuyển. Đường Huyền Tông lấy làm lạ, Lý Lâm Phủ  lại dâng một bản tấu chương, nói là nhờ có sự anh minh của hoàng đế, bao nhiêu người có tài năng đều đã được tuyển dụng hết, trong dân gian không còn một ai là hiền tài nữa.

    Những kẻ đọc sách lúc ấy đều coi khoa cử  là con đường tiến thân, Đỗ Phủ sau lần vấp ngã này, trong lòng buồn bực không nói nên lời. Ông sống cuộc sống gian khổ thiếu thốn ở Trường An, tận mắt chứng kiến cuộc sống quyền quý xa xỉ của tầng lớp giàu có và  những tình cảnh đói rét thảm thương của bao người, trong lòng lại càng thêm tức giận, đã dùng thơ ca nói lên  nỗi bất bình trước những thảm cảnh này. “Chu môn tửu nhục  xú, lộ hữu đông tử cốt” (Cửa son rượu thịt thối, trong khi ngoài đường là xương của những người chết vì đói rét) chính là những câu thơ bất hủ của ông.

      Đỗ Phủ ở Trường An 10 năm, Đường Huyền Tông mới phong cho ông một chức quan thì loạn An Sử nổ ra. Trăm họ ở Trường An đua nhau bỏ chạy. Cả gia đình Đỗ Phủ cùng với bao nạn nhân khác, chịu  cảnh đói rét cơ hàn tìm về nơi thôn dã hy vọng tìm được cuộc sống bình yên. Đang lúc đó, ông nghe nói Đường Túc Tông đang dời về Linh Võ, ông xa gia đình tìm đến với Túc Tông nhưng đi được nửa đường thì gặp quân An Lộc, bị bắt đưa về Trường An.

    Trường An lúc ấy đã nằm trong tay quân nổi loạn, chúng tha hồ chém giết, cung điện và nhà cửa của dân cháy ngút trời. Các quan lại của triều Đường người thì đầu hàng có người bị bắt đưa đi Lạc Dương. Sau khi Đỗ Phủ bị bắt đưa về Trường An, bọn cầm đầu của loạn quân thấy ông không có vẻ gì là quan  lớn  nên lại thả ông ra.

    Năm sau, Đỗ Phủ chạy khỏi Trường An, nghe nói Đường Túc Tông đã tới Phụng Tường ( nay là Phụng Tường, Thiểm Tây) ông đã đến Phụng Tường gặp Túc Tông. Lúc ấy, mọi thứ quần áo của Đỗ Phủ đều không còn cái nào lành lặn, trên người mặc  chiếc áo đã rách cả khuỷu tay, chân đi một đôi giày  cũ. Đường Túc Tông thấy Đỗ Phủ về với triều đình, tỏ thái độ hoan nghênh, cử ông làm chức quan Tả thập.

    Tả thập là làm việc can vua. Đường Túc Tông tuy cho Đỗ Phủ làm chức quan này, nhưng  chưa có ý muốn trọng dụng ông. Đỗ Phủ thì lại chưa biết điều này, không lâu sau, khi Tể tướng Phòng Quản bị Túc Tông cách chức, Đỗ Phủ thấy ông là người rất có tài năng nên đã làm một bản tấu chương can gián Túc Tông. Lần này, ông đã đắc tội với Túc Tông, may mà có người nói giúp với Túc Tông ông mới thoát nạn  về nhà.

    Sau khi quân Đường lấy lại được Trường An, Đỗ Phủ cũng cùng với rất nhiều quan lại trở về kinh đô. Đường Túc Tông đã cử ông đến Hoa Châu (nay là huyện Hoa, Thiểm Tây) làm việc quản lý việc cúng lễ, một chức quan nhỏ trong trường học. Đỗ Phủ với tâm trạng không vừa ý đến huyện Hoa. Lúc ấy, mặc dù Trường An, Lạc Dương  đã được triều Đường giành lại nhưng quân An Lộc chưa bị tiêu diệt, chiến sự còn rất ác liệt. Quân Đường còn phải đến các nơi tuyển thêm quân lính đưa muôn dân vào trong vòng cơ cực. Có một hôm, Đỗ Phủ đi qua thôn Thạch Hào (nay thuộc đông nam huyện Thiểm, tỉnh Hà Nam), lúc ấy đã rất khuya. Ông đến một gia đình người nông dân nghèo ngủ nhờ, đón ông là hai vợ chồng một lão nông. Nửa đêm, , đang lúc ông ngủ say, bỗng có tiếng gọi cửa ầm ĩ. Đỗ Phủ ở trong nhà lắng nghe, chỉ  thấy tiếng  qua lại ngoài kia, bà lão ra mở cửa theo lời yêu cầu của người ngoài đường. Bước vào nhà là mấy người sai dịch, họ to tiếng hỏi  bà lão: “Nhà bà có mấy người đàn ông?”

    Bà lão vừa khóc vừa nói:  “Tôi có ba đứa con đều đi dánh trận ở Nghiệp Thành cả, hai hôm trước có một đưa nhắn tin về, nói hai anh em đều đã chết ở chiến trường. Trong nhà bây giờ chỉ còn  một đứa con dâu và  đứa cháu còn đang bú. Ông còn muốn hỏi gì?”

   Bà lão còn phải cầu xin rất nhiều, nhưng sai dịch vẫn chưa tin, bà lão đành phải đưa sai dịch đến nơi binh lính làm khổ dịch. Trời sáng, khi Đỗ Phủ lên đường, chỉ có lão ông đưa tiễn.

    Đỗ Phủ tận mắt chứng kiến tình cảnh thê thảm ấy, trong lòng rất xúc động, ông đem chuyện này viết thành thơ, gọi là “Thạch Hào sứ” . Khi  ở Hoa Châu ông đã lần lượt viết 6 bài thơ về đề tài này, gộp lại gọi là “Tam sứ tam biệt” (Thạch Hào sứ, Đồng Quan sứ, Tân An sứ, Tân hôn biệt, Thừa lão biệt, Vô gia biệt). Từ đó, phần lớn thơ ca của Đỗ Phủ viết về tình cảnh lầm than của muôn dân trong loạn An Sử, phản ánhquá trình từ hưng thịnh đến suy vong của triều Đường, cho nên mọi  người mới gọi thơ ông là “Thi sử” ( sử bằng thơ).

   Năm sau, ông từ chức quan ở Hoa Châu. Tiếp đó, ở Quan Trung trời làm đại hạn, cả nhà Đỗ Phủ không thể ở được bèn về Thành Đô, dựa vào sự giúp đỡ của bạn bè, ông ở bên suối Hoàn Hoa  ở ngoại thành phía tây của Thành Đô, làm được một ngôi nhà nhỏ và ở đó gần 4 năm. Về sau, vì bạn bè đều đã chết, ở Thành Đô không có ai nương tựa nên cả nhà lại phiêu bạt về phía đông. Năm 770, vì đói nghèo và bệnh tật, ông chết trên một con thuyền nhỏ ở Tương Giang.

   Sau khi ông chết, để kỷ niệm về một nhà thơ vĩ đại, mọi người lưu giữ lại căn nhà nhỏ bé của ông ở ngoại ô Thành Đô, dó chính là “Đỗ Phủ thảo đường” nổi tiếng.

Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn Dĩnh
21 tháng 5 2017 lúc 4:51

- Hai bài thơ đều nói về chí làm trai, thể hiện khẩu khí của những bậc anh hùng hào kiệt khi sa cơ, lỡ bước rơi vào vòng tù ngục.

- Họ là những người yêu nước sâu sắc, hi sinh tất cả vì sự nghiệp cứu nước. Hình tượng người chí sĩ hiện lên thật hào hùng, khí phách ngang tàng, lẫm liệt ngay cả trong thử thách, gian nan có thể đe dọa đến tính mạng. Coi thường những thử thách, gian nan trước mắt và lạc quan tin tưởng vào tương lai phía trước.

- Họ là những người yêu nước sâu sắc, hi sinh tất cả vì sự nghiệp cứu nước, không

- Có khí phách hiên ngang, lẫm liệt, có ý chí dời non lấp biển.

- Họ là những biểu tượng đẹp, là niềm tự hào của các thế hệ của dân tộc. Đó là sự kết tinh vẻ đẹp anh hùng và lãng mạn của các nhà nho đầu thế kỉ XX.

Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn Dĩnh
8 tháng 5 2017 lúc 10:47

Chọn A

Tú Linh
Xem chi tiết
Minh Thư
20 tháng 11 2016 lúc 10:41

Câu 1:

-Cảm hứng được khơi gợi từ sự việc : trên đường hành quân xa, khi dừng chân nghỉ ngơi bên xóm nhỏ, người chiến sĩ nghe thấy tiếng gà nhà ai nhảy ổ.

-Diễn biến mạch cảm xúc : khi nghe thấy tiếng gà trưa => tiếng gà trưa gợi cho người chiến sĩ những kỉ niệm tuổi thơ đẹp đẽ =>Nỗi nhớ thêm da diết với hình ảnh người bà tần tảo sớm hôm => Nỗi nhớ khắc sâu hình ảnh quê hương, trở thành động lực thôi thúc người chiến sĩ cầm súng lên đường.

Câu 2.

Những hình ảnh và kỉ niệm tuổi thơ :

-Hình ảnh những con gà mái mơ, mái vàng bên những ổ trứng hồng.

-Kỉ niệm một lần tò mò xem gà đẻ bị bà mắng.

-Hình ảnh người bà soi từng quả trứng cho gà ấp.

Tiếng gà trưa gợi nhớ những kỉ niệm dấu yêu thời thơ ấu.Những kỉ niệm đó không phai mờ trong tâm hồn người cháy, bởi đó là tình cảm gia đình, ruột thịt, tình cảm quê hương, cội nguồn không thể thiếu được trong mỗi con người.

Câu 3:

-Hình ảnh người bà :

+Tay bà khum soi trứng, chắt chiu từng quả cho con gà mái ấp.

+Mắng cháu khi xem trộm gà đẻ

+Bà lo lắng, mong sao thời tiết thuận lợi, để cuối năm bán được gà, mua cho cháu bộ quần áo mơi.

=>Bà là người chịu thương, chịu khó, chắt chiu từng niềm vui nho nhỏ trong cuộc sống còn nhiều vất vả, lo toan.

-Tình cảm bà cháu trong bài thơ thật sâu nặng, thắm thiết. Bà thương cháu, luôn chắt chiu, dành dụm cho cháu. Cháu luôn yêu thương, quý trọng và biết ơn bà. Khi xa quê, hình ảnh sâu đậm nhất trong tâm hồn cháu là hình ảnh bà.

Câu 4:

-Mỗi khổ trong bài thơ ngũ ngôn thường có 4 câu, trong bài này chỉ có khổ 3,5,6 là 4 câu, còn các khổ khác thường nhiều câu hơn ( 5 -6 câu, khổ 1 tới 7 câu).

-Cách gieo vần : phần lớn là vần cách, không nhất thiết gieo đúng vần mà chỉ cần đúng âm điệu. Câu cuối khổ trước cũng không vần với câu đầu khổ sau.

-Câu thơ “ tiếng gà trưa” được lặp lại nhiều lần, dùng để mở đầu khổ thơ thứ 2,3,4,7. =>Tác dụng :

+việc bắt đầu khổ thơ bằng câu thơ 3 tiếng góp phần tạo nên điểm nhấn cảm xúc.

+Sau tiếng gà trưa là kỉ niệm => câu thơ khiến cho mạch cảm xúc trong bài được liên mạch, kết nối các khổ thơ với nhau, mạch cảm xúc xuyên suốt cả bài thơ => Tình cảm chân thật, da diết, nồng nàn.

Bạn tham khảo nhé!

Phương Thảo
20 tháng 11 2016 lúc 13:43

1. Tràn ngập trong bài thơ Tiếng gà trưa là những kỉ niệm tuổi thơ. Trong đó, nổi bật là hình ảnh người bà, kí ức về tình bà cháu mộc mạc mà sâu nặng. Tất cả được gợi về từ một âm thanh quen thuộc, bình thường: tiếng gà mái cục tác trong nắng trưa.

Diễn biến mạch cảm xúc : khi nghe thấy tiếng gà trưa => tiếng gà trưa gợi cho người chiến sĩ những kỉ niệm tuổi thơ đẹp đẽ =>Nỗi nhớ thêm da diết với hình ảnh người bà tần tảo sớm hôm => Nỗi nhớ khắc sâu hình ảnh quê hương, trở thành động lực thôi thúc người chiến sĩ cầm súng lên đường.

2 .

Tiếng gà trưa đã gợi lại trong tâm trí của người chiến sĩ những hình ảnh và kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi thơ:- Hình ảnh những con gà mái mơ, mái vàng bên những ổ trứng hồng.- Kỉ niệm một lần tò mò xem gà đẻ bị bà mắng.- Hình ảnh người bà đầy lòng thương yêu, chắt chiu từng đàn gà, quả trứng để chăm lo cho cháu.- Kỉ niệm về niềm vui và mong ước của tuổi thơ: được một bộ quần áo mới từ tiền bán gà (tưởng tượng ra vẻ đẹp của bộ quần áo).Qua những dòng kỉ niệm được gợi lại, có thể nhận thấy, tác giả đã biểu lộ tâm hồn trong sáng, hồn nhiên của một người em nhỏ, cũng như biểu lộ tình cảm yêu quý, trân trọng người bà của đứa cháu.3.

- Hình ảnh người bà:

Tay bà khum soi trứng, chắt chiu từng quả cho con gà mái ấp.

Mắng cháu khi xem trộm gà đẻ.

Bà lo lắng, mong sao thời tiết thuận lợi, để cuối năm bán được gà, mua cho cháu bộ quần áo mơi.

=> Bà là người chịu thương, chịu khó, chắt chiu từng niềm vui nho nhỏ trong cuộc sống còn nhiều vất vả, lo toan.

- Tình cảm bà cháu trong bài thơ thật sâu nặng, thắm thiết. Bà thương cháu, luôn chắt chiu, dành dụm cho cháu. Cháu luôn yêu thương, quý trọng và biết ơn bà. Khi xa quê, hình ảnh sâu đậm nhất trong tâm hồn cháu là hình ảnh bà.

5.

Bài thơ này được viết theo thể ngũ ngôn (5 tiếng) nhưng rất sáng tạo và linh hoạt:- Thường mỗi khổ trong một bài ngũ ngôn có 4 câu nhưng bài này chỉ có ba khổ 4 câu, các khổ khác có đến 5 hoặc sáu câu, riêng khổ thứ nhất có đến 7 câu.- Cách gieo vần trong bài thơ cũng rất linh hoạt. Phần lớn vần trong bài thơ là vần cách, có khi không chú trọng đến việc đúng vần mà chỉ cần giữ âm điệu. Mực dù vậy, đọc bài thơ lên nghe vần thấy rất hài hoà trong mạch cảm xúc của tác giả.- Các câu thơ trong bài đều gồm 5 tiếng, riêng câu thơ Tiếng gà trưa (lặp lại mở đầu các khổ thứ hai, thứ ba, thứ tư và thứ bảy) là chỉ có 3 tiếng. Đây là một cách để Xuân Quỳnh tạo nên điểm nhấn về cảm xúc. Sau mỗi câu thơ Tiếng gà trưa là tác giả lại nhớ về một hình ảnh, một kỉ niệm quen thuộc. Các câu thơ này giữ cho mạch cảm xúc của bài thơ liền mạch, khiến cho những kỉ niệm và hình ảnh thơ luôn da diết, nồng nàn.
trần châu
20 tháng 11 2016 lúc 14:59
1. Tràn ngập trong bài thơ Tiếng gà trưa là những kỉ niệm tuổi thơ. Trong đó, nổi bật là hình ảnh người bà, kí ức về tình bà cháu mộc mạc mà sâu nặng. Tất cả được gợi về từ một âm thanh quen thuộc, bình thường: tiếng gà mái cục tác trong nắng trưa.2. Tiếng gà trưa đã gợi lại trong tâm trí của người chiến sĩ những hình ảnh và kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi thơ:- Hình ảnh những con gà mái mơ, mái vàng bên những ổ trứng hồng.- Kỉ niệm một lần tò mò xem gà đẻ bị bà mắng.- Hình ảnh người bà đầy lòng thương yêu, chắt chiu từng đàn gà, quả trứng để chăm lo cho cháu.- Kỉ niệm về niềm vui và mong ước của tuổi thơ: được một bộ quần áo mới từ tiền bán gà (tưởng tượng ra vẻ đẹp của bộ quần áo).Qua những dòng kỉ niệm được gợi lại, có thể nhận thấy, tác giả đã biểu lộ tâm hồn trong sáng, hồn nhiên của một người em nhỏ, cũng như biểu lộ tình cảm yêu quý, trân trọng người bà của đứa cháu.3. Qua bài thơ, có thể nhận thấy tình cảm của bà và cháu thật sâu nặng và thắm thiết. Bà tần tảo chắt chiu trong cảnh nghèo để cố dành dụm mua cho cháu bộ quần áo mới. Ngược lại, người cháu luôn thương yêu, quý trọng và biết ơn bà.4. Bài thơ này được viết theo thể ngũ ngôn (5 tiếng) nhưng rất sáng tạo và linh hoạt:- Thường mỗi khổ trong một bài ngũ ngôn có 4 câu nhưng bài này chỉ có ba khổ 4 câu, các khổ khác có đến 5 hoặc sáu câu, riêng khổ thứ nhất có đến 7 câu.- Cách gieo vần trong bài thơ cũng rất linh hoạt. Phần lớn vần trong bài thơ là vần cách, có khi không chú trọng đến việc đúng vần mà chỉ cần giữ âm điệu. Mực dù vậy, đọc bài thơ lên nghe vần thấy rất hài hoà trong mạch cảm xúc của tác giả.- Các câu thơ trong bài đều gồm 5 tiếng, riêng câu thơ Tiếng gà trưa (lặp lại mở đầu các khổ thứ hai, thứ ba, thứ tư và thứ bảy) là chỉ có 3 tiếng. Đây là một cách để Xuân Quỳnh tạo nên điểm nhấn về cảm xúc. Sau mỗi câu thơ Tiếng gà trưa là tác giả lại nhớ về một hình ảnh, một kỉ niệm quen thuộc. Các câu thơ này giữ cho mạch cảm xúc của bài thơ liền mạch, khiến cho những kỉ niệm và hình ảnh thơ luôn da diết, nồng nàn
Đinh Quỳnh Hương Giang
Xem chi tiết
Phương Thảo
16 tháng 11 2016 lúc 5:14

1.

- Cảm hứng của tác giả trong bài thơ được khơi gợi từ sự việc gì ? (được khêu gợi từ tiếng gà trưa, đó là “tiếng gà ai nhảy ổ, cục... cục tác cục ta”.)
- Mạch cảm xúc trong bài thơ diễn biến như thế nào ? (diễn biến từ nghe tiếng gà trưa mà cảm thấy xôn xao trong lòng, vui lên và quên đi n nỗi khủng khiếp của chiến tranh ).

2. Tiếng gà trưa đã gợi lại trong tâm trí của người chiến sĩ những hình ảnh và kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi thơ:

- Hình ảnh những con gà mái mơ, mái vàng bên những ổ trứng hồng.- Kỉ niệm một lần tò mò xem gà đẻ bị bà mắng.- Hình ảnh người bà đầy lòng thương yêu, chắt chiu từng đàn gà, quả trứng để chăm lo cho cháu.- Kỉ niệm về niềm vui và mong ước của tuổi thơ: được một bộ quần áo mới từ tiền bán gà (tưởng tượng ra vẻ đẹp của bộ quần áo).Qua những dòng kỉ niệm được gợi lại, có thể nhận thấy, tác giả đã biểu lộ tâm hồn trong sáng, hồn nhiên của một người em nhỏ, cũng như biểu lộ tình cảm yêu quý, trân trọng người bà của đứa cháu.3. Qua bài thơ, có thể nhận thấy tình cảm của bà và cháu thật sâu nặng và thắm thiết. Bà tần tảo chắt chiu trong cảnh nghèo để cố dành dụm mua cho cháu bộ quần áo mới. Ngược lại, người cháu luôn thương yêu, quý trọng và biết ơn bà.5. Bài thơ này được viết theo thể ngũ ngôn (5 tiếng) nhưng rất sáng tạo và linh hoạt:- Thường mỗi khổ trong một bài ngũ ngôn có 4 câu nhưng bài này chỉ có ba khổ 4 câu, các khổ khác có đến 5 hoặc sáu câu, riêng khổ thứ nhất có đến 7 câu.- Cách gieo vần trong bài thơ cũng rất linh hoạt. Phần lớn vần trong bài thơ là vần cách, có khi không chú trọng đến việc đúng vần mà chỉ cần giữ âm điệu. Mực dù vậy, đọc bài thơ lên nghe vần thấy rất hài hoà trong mạch cảm xúc của tác giả.- Các câu thơ trong bài đều gồm 5 tiếng, riêng câu thơ Tiếng gà trưa (lặp lại mở đầu các khổ thứ hai, thứ ba, thứ tư và thứ bảy) là chỉ có 3 tiếng. Đây là một cách để Xuân Quỳnh tạo nên điểm nhấn về cảm xúc. Sau mỗi câu thơ Tiếng gà trưa là tác giả lại nhớ về một hình ảnh, một kỉ niệm quen thuộc. Các câu thơ này giữ cho mạch cảm xúc của bài thơ liền mạch, khiến cho những kỉ niệm và hình ảnh thơ luôn da diết, nồng nàn.4. Em tán thành với cả 2 ý kiến Những tình cảm lớn lao được viết một cách thật dung dị và tự nhiên: yêu Tổ quốc, quê hương, từ tình yêu bà, yêu “Ổ trứng tuổi thơ”; chiến đấu vì quê hương, vì xóm làng, vì bà và cả “Ổ trứng tuổi thơ” đó. Chính cách nói đó khiến chúng ta tin tình cảm của người cháu trong bài thơ là rất chân thành, mãnh liệt. Người cháu trân trọng hiện tại và tương lai của dân tộc, đất nước.

 

 

Edogawa Conan
20 tháng 11 2016 lúc 16:36

Câu 1:

- Cảm hứng được khơi gợi từ sự việc : trên đường hành quân xa, khi dừng chân nghỉ ngơi bên xóm nhỏ, người chiến sĩ nghe thấy tiếng gà nhà ai nhảy ổ.

- Diễn biến mạch cảm xúc : khi nghe thấy tiếng gà trưa => tiếng gà trưa gợi cho người chiến sĩ những kỉ niệm tuổi thơ đẹp đẽ =>Nỗi nhớ thêm da diết với hình ảnh người bà tần tảo sớm hôm => Nỗi nhớ khắc sâu hình ảnh quê hương, trở thành động lực thôi thúc người chiến sĩ cầm súng lên đường.

Câu 2: Tiếng gà trưa đã gợi lại trong tâm trí của người chiến sĩ những hình ảnh và kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi thơ:

Hình ảnh những con gà mái mơ, mái vàng bên những ổ trứng hồng.

Kỉ niệm một lần tò mò xem gà đẻ bị bà mắng.

Hình ảnh người bà đầy lòng thương yêu, chắt chiu từng đàn gà, quả trứng để chăm lo cho cháu.

Kỉ niệm về niềm vui và mong ước của tuổi thơ: được một bộ quần áo mới từ tiền bán gà (tưởng tượng ra vẻ đẹp của bộ quần áo).

Qua những dòng kỉ niệm được gợi lại, có thể nhận thấy, tác giả đã biểu lộ tâm hồn trong sáng, hồn nhiên của một người em nhỏ, cũng như biểu lộ tình cảm yêu quý, trân trọng người bà của đứa cháu.

Câu 3:

- Hình ảnh người bà:

Tay bà khum soi trứng, chắt chiu từng quả cho con gà mái ấp.

Mắng cháu khi xem trộm gà đẻ.

Bà lo lắng, mong sao thời tiết thuận lợi, để cuối năm bán được gà, mua cho cháu bộ quần áo mơi.

=> Bà là người chịu thương, chịu khó, chắt chiu từng niềm vui nho nhỏ trong cuộc sống còn nhiều vất vả, lo toan.

- Tình cảm bà cháu trong bài thơ thật sâu nặng, thắm thiết. Bà thương cháu, luôn chắt chiu, dành dụm cho cháu. Cháu luôn yêu thương, quý trọng và biết ơn bà. Khi xa quê, hình ảnh sâu đậm nhất trong tâm hồn cháu là hình ảnh bà.

Câu 4: Bài thơ này được viết theo thể ngũ ngôn (5 tiếng) nhưng rất sáng tạo và linh hoạt:

Thường mỗi khổ trong một bài ngũ ngôn có 4 câu nhưng bài này chỉ có ba khổ 4 câu, các khổ khác có đến 5 hoặc sáu câu, riêng khổ thứ nhất có đến 7 câu.

Cách gieo vần trong bài thơ cũng rất linh hoạt. Phần lớn vần trong bài thơ là vần cách, có khi không chú trọng đến việc đúng vần mà chỉ cần giữ âm điệu. Mặc dù vậy, đọc bài thơ lên nghe vần thấy rất hài hoà trong mạch cảm xúc của tác giả.

Các câu thơ trong bài đều gồm 5 tiếng, riêng câu thơ Tiếng gà trưa (lặp lại mở đầu các khổ thứ hai, thứ ba, thứ tư và thứ bảy) là chỉ có 3 tiếng. Đây là một cách để Xuân Quỳnh tạo nên điểm nhấn về cảm xúc. Sau mỗi câu thơ Tiếng gà trưa là tác giả lại nhớ về một hình ảnh, một kỉ niệm quen thuộc. Các câu thơ này giữ cho mạch cảm xúc của bài thơ liền mạch, khiến cho những kỉ niệm và hình ảnh thơ luôn da diết, nồng nàn.

Lương Quang Trung
16 tháng 11 2018 lúc 19:14

1.

- Cảm hứng của tác giả trong bài thơ được khơi gợi từ sự việc gì ? (được khêu gợi từ tiếng gà trưa, đó là “tiếng gà ai nhảy ổ, cục... cục tác cục ta”.)
- Mạch cảm xúc trong bài thơ diễn biến như thế nào ? (diễn biến từ nghe tiếng gà trưa mà cảm thấy xôn xao trong lòng, vui lên và quên đi n nỗi khủng khiếp của chiến tranh ).

2. Tiếng gà trưa đã gợi lại trong tâm trí của người chiến sĩ những hình ảnh và kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi thơ:

- Hình ảnh những con gà mái mơ, mái vàng bên những ổ trứng hồng. - Kỉ niệm một lần tò mò xem gà đẻ bị bà mắng. - Hình ảnh người bà đầy lòng thương yêu, chắt chiu từng đàn gà, quả trứng để chăm lo cho cháu. - Kỉ niệm về niềm vui và mong ước của tuổi thơ: được một bộ quần áo mới từ tiền bán gà (tưởng tượng ra vẻ đẹp của bộ quần áo). Qua những dòng kỉ niệm được gợi lại, có thể nhận thấy, tác giả đã biểu lộ tâm hồn trong sáng, hồn nhiên của một người em nhỏ, cũng như biểu lộ tình cảm yêu quý, trân trọng người bà của đứa cháu. 3. Qua bài thơ, có thể nhận thấy tình cảm của bà và cháu thật sâu nặng và thắm thiết. Bà tần tảo chắt chiu trong cảnh nghèo để cố dành dụm mua cho cháu bộ quần áo mới. Ngược lại, người cháu luôn thương yêu, quý trọng và biết ơn bà. 5. Bài thơ này được viết theo thể ngũ ngôn (5 tiếng) nhưng rất sáng tạo và linh hoạt: - Thường mỗi khổ trong một bài ngũ ngôn có 4 câu nhưng bài này chỉ có ba khổ 4 câu, các khổ khác có đến 5 hoặc sáu câu, riêng khổ thứ nhất có đến 7 câu. - Cách gieo vần trong bài thơ cũng rất linh hoạt. Phần lớn vần trong bài thơ là vần cách, có khi không chú trọng đến việc đúng vần mà chỉ cần giữ âm điệu. Mực dù vậy, đọc bài thơ lên nghe vần thấy rất hài hoà trong mạch cảm xúc của tác giả. - Các câu thơ trong bài đều gồm 5 tiếng, riêng câu thơ Tiếng gà trưa (lặp lại mở đầu các khổ thứ hai, thứ ba, thứ tư và thứ bảy) là chỉ có 3 tiếng. Đây là một cách để Xuân Quỳnh tạo nên điểm nhấn về cảm xúc. Sau mỗi câu thơ Tiếng gà trưa là tác giả lại nhớ về một hình ảnh, một kỉ niệm quen thuộc. Các câu thơ này giữ cho mạch cảm xúc của bài thơ liền mạch, khiến cho những kỉ niệm và hình ảnh thơ luôn da diết, nồng nàn. 4. Em tán thành với cả 2 ý kiến Những tình cảm lớn lao được viết một cách thật dung dị và tự nhiên: yêu Tổ quốc, quê hương, từ tình yêu bà, yêu “Ổ trứng tuổi thơ”; chiến đấu vì quê hương, vì xóm làng, vì bà và cả “Ổ trứng tuổi thơ” đó. Chính cách nói đó khiến chúng ta tin tình cảm của người cháu trong bài thơ là rất chân thành, mãnh liệt. Người cháu trân trọng hiện tại và tương lai của dân tộc, đất nước.

trương viết minh
Xem chi tiết

Bài làm

* Bài " Xa ngắm thác núi lư "

Hình ảnh thiên nhiên đa dạng, phong phú là :

+ Thác nước bọt tung, nước tỏa ra sương khói, mặt trời chiếu xuống tạo ra những tia khói huyền ảo

     + Thác nước trở nên đẹp hơn nhờ ánh nắng mặt trời, giống như lư hương khổng lồ tỏa lên bầu trời

- Ý nghĩa: Khi tả núi Hương Lô có tác dụng làm nổi bật thác nước lung linh, huyền ảo của tạo hóa.

+ Chữ “quải” biến cái động thành tĩnh, thống nhất với cảm nhận của tác giả

- Câu thứ ba: cảnh vật từ tĩnh chuyển thành động bởi chữ “treo”

     + Hình ảnh dòng thác mờ nhạt và ảo giác về dải ngân hà ở cuối câu trở nên thiếu cơ sở

     + Thế núi cao và sườn núi dốc đứng, tạo ra dòng chảy mạnh, huyền ảo

     + Miêu tả sự hùng vĩ của thác nước trong trạng thái động ở tốc độ chảy nhanh, mạnh

→ Một dòng thác mạnh, nhanh, dốc

- Câu thơ thứ tư:

     + Nhà thơ đứng giữa ranh giới giữa hư với thực

     + Tưởng tượng ra con thác giống như dải ngân hà giống như hàng ngàn ngôi sao lạc khỏi vũ 

* Bài thơ " Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh "

 Hình ảnh thiên nhiên đẹp, phong phú :

 + Hình ảnh ánh trăng suốt hiện ở “sàng tiền” thể hiện sự thao thức, trăn trở không ngủ được của nhà thơ: Lí Bạch yêu trăng, nhớ quê

 + Câu thơ thứ 2: Ánh trăng tràn ngập không gian đồng nghĩa với việc vị trí ngắm trăng thay đổi từ sàng tiền tới song tiền: tâm trạng bâng khuâng, xao xuyến

+ Ngẩng đầu nhìn trăng sáng: Vầng trăng thanh tĩnh, sáng dịu hiền hiện ra, đây là đêm trăng đẹp nhưng yên tĩnh

=> Phong cách thơ lý bạch đa dạng, song nét cơ bản là tự nhiên hào phóng, dựa vào 2 bài thơ xa ngắm thác núi lư và cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh

# Chúc bạn học tốt #

Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn Dĩnh
17 tháng 12 2017 lúc 3:50

Niềm vui to lớn của nhà thơ chính là được gặp lại nhân dân, điều đó thể hiện qua hai khổ thơ đầu:

- Hình ảnh so sánh sinh động, thân thuộc:

    + Gặp lại nhân dân như nai về suối cũ, cỏ đón giêng hai

    + Trẻ thơ gặp sữa

    + Chiếc nôi gặp cánh tay đưa

→ Hình ảnh so sánh thể hiện được sự gần gũi, gắn bó với nhân dân- ngọn nguồn của sự sống.