Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài

Những câu hỏi liên quan
Nguyễn Thanh Hằng
Xem chi tiết
Phạm Thị Diệu Hằng
15 tháng 7 2017 lúc 15:10

* Mặt trận quân sự:

- Ngày 30 - 4 đến 30- 6 - 1970, quân dân Việt Nam - Campuchia đập tan cuộc hành quân xâm lược Campuchia của 10 vạn quân Mĩ và quân Sài Gòn, giải phóng 5 tỉnh đông bắc với 4,5 triệu dân.

- Từ 12 - 2 đến 23 - 3 - 1971, quân dân Việt Nam - Lào đập tan cuộc hành quân “Lam Sơn 719” của Mĩ và quân Sài Gòn, giữ vững hành lang chiến lược của cách mạng Đông Dương.

- Chiến thắng ở Đường 9 - Nam Lào, quân tình nguyện của ta cùng với quân dân Campuchia đã giành chiến thắng đập tan cuộc hành quân mang tên “Toàn thắng 1 - 71”.

- Những thắng lợi trên bước đầu làm phá sản bước đầu chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương hóa chiến tranh” của Mĩ, mở ra khả năng thực tế làm phá sản hoàn toàn chiến lược đó.

* Mặt trận chính trị - ngoại giao:

- Ngày 6 - 6 - 1969, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam thành lập, được 23 nước công nhận, 21 nước đặt quan hệ ngoại giao.

- Ngày 24 đến 25 - 4 - 1970: Hội nghị cấp cao 3 nước Đông Dương quyết tâm đoàn kết chống Mĩ.

- Tháng 1 - 1973, Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam được ký kết.

Nguyễn Thanh Hằng
Xem chi tiết
Phạm Thị Diệu Hằng
3 tháng 5 2019 lúc 15:41

Đáp án C

Tình thế bị sa lầy và thất bại của Pháp trong cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương (1945 – 1954), Mĩ đã can thiệp sâu vào cuộc chiến tranh Đông Dương, ép Pháp kéo dài và mở rộng chiến tranh, tích cực chuẩn bị thay thế Pháp

Nguyễn Thanh Hằng
Xem chi tiết
Phạm Thị Diệu Hằng
20 tháng 9 2017 lúc 13:14

Chọn đáp án C.

Tình thế bị sa lầy và thất bại của Pháp trong cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương (1945 – 1954), Mĩ đã can thiệp sâu vào cuộc chiến tranh Đông Dương, ép Pháp kéo dài và mở rộng chiến tranh, tích cực chuẩn bị thay thế Pháp.

Mai Ngọc
Xem chi tiết
Nguyễn  Việt Dũng
24 tháng 10 2023 lúc 2:58

Trong cuộc chiến đấu chống chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh và Đông Dương hóa chiến tranh, nhân dân Việt Nam đã đạt được những thắng lợi chung quan trọng trên nhiều mặt trận quân sự và chính trị:

- Thắng lợi quân sự: Quân đội Việt Nam đã đối mặt với một quân đội mạnh mẽ của Hoa Kỳ và các đồng minh, nhưng vẫn giữ vững sức mạnh và tri thức quân sự. Các trận đánh quyết định như trận Điện Biên Phủ đã chứng minh sự kiên nhẫn và quyết tâm của quân và dân Việt Nam.

- Thăng trầm tinh thần của quân địch: Cuộc chiến đã làm cho quân đội Mỹ gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là trong việc duy trì tinh thần chiến đấu của binh sĩ. Sự phản đối chiến tranh tại Mỹ và các nước đồng minh đã tạo áp lực lên chính phủ Mỹ.

- Hợp tác quốc tế: Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã thiết lập mối quan hệ hợp tác quốc tế và được sự ủng hộ của nhiều quốc gia trong cuộc chiến đấu chống lại chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh và Đông Dương hóa chiến tranh.

- Chính trị ngoại giao: Sự thăng trầm của cuộc chiến đã tạo điều kiện cho cuộc thương lượng và đàm phán. Hiệp định Paris năm 1973 dẫn đến cuộc ngừng bắn và rút quân của Mỹ khỏi Việt Nam.

- Tinh thần chiến đấu và đoàn kết của nhân dân: Nhân dân Việt Nam đã phải chịu nhiều khó khăn, nhưng họ đã duy trì tinh thần chiến đấu và đoàn kết trong cuộc chiến tranh.

- Sự hậu thuẫn của Trung Quốc và Liên Xô: Trung Quốc và Liên Xô đã cung cấp hỗ trợ quân sự và chính trị quan trọng cho Việt Nam trong cuộc chiến đấu chống lại chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh và Đông Dương hóa chiến tranh.

-> Những thắng lợi này cùng với sự kiên nhẫn và quyết tâm của nhân dân Việt Nam đã đóng góp vào sự kết thúc của cuộc chiến và độc lập của Việt Nam. Tuy nhiên, cuộc chiến này cũng đã để lại nhiều hậu quả và thiệt hại lớn đối với cả hai bên tham chiến và vùng Đông Dương nói riêng.

Nguyễn Anh Thư
Xem chi tiết
ERROR
9 tháng 5 2022 lúc 16:59

refer (hơi dài)

I. CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN LƯỢC “CHIẾN TRANH CỤC BỘ” CỦA MĨ Ở MIỀN NAM (1965-1968) 1. Chiến lược : "Chiến tranh cục bộ" của Mĩ ở Miền Nam Nhằm thay cho chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" đã bị phá sản ở miền Nam, đế quốc Mĩ tiến hành "Chiến tranh cục bộ". * Thủ đoạn của Mỹ:  Chiến lược "Chiến tranh cục bộ"  là hình thức chiến tranh xâm lược của Mĩ ở miền Nam được tiến hành bằng:  -  Lực lượng quân Mỹ, quân đồng minh,quân Sài gòn. Quân Mỹ giữ vai trò quan trọng.  -  Quân Mỹ hành quân “tìm diệt” đánh vào căn cứ quân giải phóng .  -  Mở 2 cuộc phản công vào mùa khô 1965-1966; 1966-1967 bằng các cuộc hành quân “tìm diệt “ và “bình định”.  -  Mở ngay cuộc hành quân vào căn cứ của quân giải phóng Vạn Tường (Quảng Ngãi).

* Quân dân miền Nam chiến thắng ở Mùa khô thứ nhất 1965-1966:      + Mỹ mở 5 cuộc hành quân “tìm diệt” vào Khu V và miền Đông Nam Bộ để đánh bại quân giải phóng .       + Quân dân ta đánh địch trên mọi hướng, tiến công chúng trên khắp mọi nơi.  * Quân dân miền Nam chiến thắng ở Mùa khô thứ hai 1966-1967 :       + Mỹ , quân đội Sài gòn và đồng minh: mở 3 cuộc hành quân lớn “tìm diệt” và “bình định “nhắm vào miền Đông Nam Bộ, lớn nhất là cuộc hành quân Gian Xơn Xi ti, nhằm tiêu diệt chủ lực và cơ quan đầu não của ta        + Quân dân ta phản công đánh bại ba cuộc hành quân lớn “tìm diệt “ và “bình định” của Mỹ, lớn nhất là cuộc hành quân Gian Xơn Xi ti Kết quả : Sau hai mùa khô, ta loại 24 vạn tên địch, bắn rơi và phá hủy hơn 2.700 máy bay, phá hủy hơn 2.200 xe tăng và xe bọc thép, hơn 3.400 ô tô.

Tại nông thôn và thành thị : + Diệt bọn ác ôn, phá “ấp chiến lược”, đòi Mỹ rút về nước , đòi tự do dân chủ . + Vùng giải phóng được mở rộng, uy tín Mặt Trận Dân Tộc Giải phóng Miền Nam được nâng cao trên trường quốc tế.

trên đây là phần ctr cục bộ

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân (1968)  * Hoàn cảnh lịch sử : 1968 so sánh lực lượng thay đổi có lợi cho ta, ta lợi dụng mâu thuẫn trong năm bầu cử Tổng Thống Mỹ.  * Mục tiêu : -Tiêu diệt một bộ phận quân Mỹ, quân đồng minh, đánh sập ngụy quân, ngụy quyền . -Buộc Mỹ phải đàm phán và rút quân về nước.  * Diễn biến :  - Đêm 30 rạng 31-1-1968 ta tấn công vào các đô thị ở miền Nam . -Tại Sài gòn quân ta tấn công vào tòa Đại Sứ Mỹ, Dinh Độc lập, bộ Tổng tham mưu, sân bay Sài gòn của địch

. Chiến đấu chống chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” và “Đông Dương hoá chiến tranh” của Mỹ:   Việt Nam hóa – Đông Dương hóa chiến tranh

Ngày 6-6-1969 Chính phủ Cách Mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam thành lập,được 23 nước công nhận .  -Từ 1969 ,thực hiện di chúc của Chủ Tịch Hồ Chí Minh cả nước đẩy mạnh kháng chiến chống Mỹ cứu nước .  - Ngày 24 và 25-4-1970 , Hội nghị cấp cao của nhân dân ba nước đoàn kết chống Mỹ  họp .  - Ta và Cam-pu-chia đã đập tan cuộc hành quân xâm lược Cam pu chia của Mỹ và quân đội Sài gòn, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn .  - 3-1971 Việt Nam và  Lào , đập tan cuộc hành quân”Lam Sơn -719” chiếm giữ đường 9 –Nam Lào của Mỹ và quân đội Sai gòn . - Phong trào của nhân dân nổ ra liên tục , rầm rộ ở Sài gòn , Huế ,Đà Nẵng . - Tại các vùng nông thôn , đồng bằng quần chúng phá  “ấp chiến lược”, chống “Bình định” của địch .

. Cuộc tiến công chiến lược  1972: a. Hòan cảnh :Phát huy các thắng lợi  trên  các mặt trận  quân sự  , chính trị ngoại giao , trong 2 năm 1970-1971 b. Diễn biến : + Mở dầu ta đánh Quảng Trị  (30-3-1972). + Phát triển khắp miền Nam  năm 1972 . Chọc thủng 3 phòng tuyến mạnh nhất Quảng Trị , Tây Nguyên, Đông Nam Bộ .    c. Kết quả: + Ta loại khỏi vòng chiến 20 vạn quân ngụy . + Giải phóng vùng đất đai rộng lớn ,1 triệu dân . d. Ý nghĩa : + Giáng đòn mạnh vào chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh". + Buộc Mỹ  phải  tuyên bố “Mỹ hóa” trở lại chiến tranh xâm lược. + Thừa nhận "Việt Nam hóa chiến tranh" thất bại .

  Hoàn cảnh và Diễn biến chiến tranh đơn phương của Mỹ tại Việt Nam /Lịch sử /Hoàn cảnh và Diễn biến chiến tranh đơn phương của Mỹ tại Việt Nam   Chiến tranh đơn phương diễn ra trong hoàn cảnh có nhiều điều đặc biệt. Vậy cụ thể âm mưu và diễn biến chiến tranh đơn phương của Mỹ tại Việt Nam diễn ra như thế nào? Nếu bạn cũng đang quan tâm đến vấn đề này thì hãy cùng DINHNGHIA.COM.VN tìm hiểu chi tiết hơn trong bài viết sau đây nhé! Nội dung chính bài viết Hoàn cảnh của chiến tranh đơn phương Chiến tranh đơn phương diễn ra trong hoàn cảnh Pháp gặp thất bại, Mỹ trực tiếp can thiệp vào tình hình Việt Nam. Vào tháng 7/11/1954, Mỹ cử tướng Cô – Lin chính thức sang làm đại sứ ở miền Nam Việt Nam. Thực tế, tướng Cô – Lin sang Việt Nam mang theo âm mưu biến miền Nam Việt Nam trở thành thuộc địa kiểu mới. Từ đó, chúng sẽ làm bàn đạp để tiến hành kế hoạch tấn công ra miền Bắc và đồng thời ngăn chặn làn sóng cách mạng đang diễn ra ở Đông Nam Á. Cùng lúc đó, dựa vào thế lực của Mỹ, Ngô Đình Diệm đã nhanh chóng dựng lên một chính quyền độc tài nhằm chống phá cách mạng nước ta một cách trắng trợn. Vì thế, đến giữa năm 1954, Diệm đã lập ra đảng có tên là Cần Lao nhân vị làm đảng cầm quyền. Tiếp đó, đến cuối năm 1954, tiếp tục thành lập “phong trào cách mạng quốc gia” và đưa ra mục tiêu hoạt động đó là “chống cộng, đả thực, bài phong”. Âm mưu chiến tranh đơn phương của Mỹ tại Việt Nam Chiến lược chiến tranh đơn phương được diễn ra từ năm 1954 cho đến năm 1960 với âm mưu đó là tìm diệt các cán bộ và cơ sở cách mạng của ta ở miền Nam.Tuy nhiên, âm mưu chính của cuộc chiến tranh này đó là muốn biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới. Sau đó sẽ dùng nó để làm bàn đạp tiến công trực tiếp ra miền Bắc với mục đích ngăn chặn làn sóng cách mạng XHCN đang bùng nổ ở Đông Nam Á. Do vậy, cuộc chiến này được diễn ra trong tình hình vô cùng bất lợi cho cách mạng Việt Nam. Thủ đoạn của Diệm trong cuộc chiến tranh Bắt đầu chiến lược chiến tranh đơn phương, Diệm đã ra sắc lệnh “đặt cộng sản ngoài vòng pháp luật”. Kể từ đó, đến tháng 5/1959, Diệm ra đạo luật 10/59 và lê máy chém đi khắp miền Nam và giết hại hàng loạt người dân vô tội. Bên cạnh đó, với chiến lược này, chính quyền Diệm còn thực hiện chương trình cải cách điền địa với mục đích lấy lại ruộng đất mà trước đó cách mạng đã giao cho nhân dân. Chúng lấy lại ruột đất này nhằm phục vụ cho việc lập ra các khu dinh điền, khu trù mật để kìm kẹp nhân dân ta đến mức tột cùng. Từ đó, khiến cho nhân dân ta buộc phải tách hoàn toàn khỏi mối liên hệ với cách mạng, giúp chúng dễ dàng thực hiện chiến tranh đơn phương của Mỹ tại Việt Nam. Âm mưu và thủ đoạn của Mỹ trong cuộc chiến tranh đơn phương Diễn biến của chiến lược chiến tranh đơn phương Chiến lược của chiến tranh đơn phương từ năm 1955 – 1960 được Mỹ viện trợ cho chính quyền Sài Gòn và thực hiện kế hoạch thành lập đoàn cố vấn quân sự. Đoàn cố vấn này có nhiệm vụ đó là giúp Ngô Đình Diệm tiến hành cuộc “chiến tranh đơn phương” (hay còn gọi là “chiến tranh vành đai) của tổng thống Mỹ vô cùng tàn bào và độc ác. Trong thời điểm đó, Trung ương ta vẫn chưa đưa ra chủ trương chuyển hướng đấu tranh. Vì vậy, cán bộ, Đảng viên cũng như đồng bào ta ở miền Nam vẫn chống chiến tranh đơn phương bằng hình thức đấu tranh chính trị và không dám dùng vũ trang để tự vệ. Đứng trước tình hình đó, nhân dân ta ở miền Nam phải sống trong cảnh nghẹt thở. Đồng thời, cách mạng miền Nam dần bị đẩy vào thế bế tắc chưa từng thấy. Trước tình hình chiến tranh đơn phương của Mỹ tại Việt Nam bắt đầu diễn ra, đồng chí Lê Duẩn, Ủy viên Bộ Chính trị lúc bấy giờ đang hoạt động tại miền Nam đã nhận thấy rõ ngụy quyền miền Nam được Mỹ hỗ trợ. Vì vậy, chúng điên cuồng đàn áp, tàn phá và xóa bỏ phong trào cách mạng miền Nam. Do đó, mục tiêu chống cuộc chiến này lúc bấy giờ đó chính là “phải đánh đổ chính quyền độc tài phát xít Mỹ – Diệm”. Đó cũng chính là tư duy mới của đồng chí Lê Duẩn được đưa ra trong “Đề cương cách mạng miền Nam”. Tài liệu mà đồng chí Lê Duẩn đưa ra đã góp phần lớn soi sáng cho Đảng viên cũng như các bộ và nhân dân miền Nam con đường đấu tranh chống chiến tranh đơn phương của Mỹ tại Việt Nam. Đồng thời, đồng chí Lê Duẩn còn xác định đây là con đường đấu tranh đầy gian khổ, ác liệt nhưng đóng góp không nhỏ trong việc nêu lên những luận điểm cơ bản để xây dựng đường lối cách mạng miền Nam. Cụ thể đó là”Giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện dân tộc độc lập và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”. Cùng với đó, để chống chiến tranh đơn phương của Mỹ – Diệm, Nghị quyết 15 đã đáp ứng nguyện vọng bức thiết của mọi tầng lớp quần chúng cách mạng. Đặc biệt, nó đã động viên, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đấu tranh cách mạng của toàn dân, góp phần tạo nên những chuyển biến căn bản và nhảy vọt cho phong trào cách mạng miền Nam nước ta trong suốt một thời gian từ năm 1959 – 1960. Trong đó, đỉnh cao phải kể đến phong trào Đồng khởi trong cuộc chiến đấu chống lại chiến tranh đơn phương của Mỹ tại  Việt Nam.

Nguyễn Thanh Hằng
Xem chi tiết
Phạm Thị Diệu Hằng
24 tháng 6 2018 lúc 12:51

- Giống nhau : đều là chiến lược chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới nằm trong chiến lược toàn cầu "phản ứng linh hoạt" của Mĩ.

- Khác nhau :

     + Chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" được tiến hành bằng quân đội Sài Gòn nhằm chống lại các lực lượng cách mạna và nhân dân ta. Tuy vậy, đây không phải là cuộc nội chiến, mà là cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới của Mĩ, bởi lẽ Mĩ đề ra kế hoạch, cung cấp đôla, vũ khí, phương tiện chiến tranh, chỉ huy bằng hệ thống "cố vấn" nhằm chống lại lực lượng cách mạng và nhân dân ta, phục vụ cho lợi ích của Mĩ. Đây là biểu hiện tính chất "đặc biệt" của loại hình chiến tranh xãm lược thực dân mới và việc thực hiện âm mưu "dùng người Việt đánh người Việt". Với sự hỗ trợ chiến đấu và chỉ huy bằng hệ thống cố vấn của Mĩ, quân đội Sài Gòn mở những cuộc hành quân càn quét tiêu diệt lực lượng cách mạng, tiến hành hoạt động dồn dân, lập "ấp chiến lược', đẩy lực lượng cách mạng ra khỏi các ấp, tách dân khỏi cách mạng, tiến tới nắm dân, "bình định" miền Nam.

     + Chiến lược "Chiến tranh cục bộ" được tiến hành bằng quân Mĩ, quân đồng minh của Mĩ (Hàn Quốc, Thái Lan, Phi-lip-pin, Ô-xtrây-li-a, Niu Di-lân) và quân đội Sài Gòn. Trong đó quân Mĩ giữ vai trò quan trọng, không ngừng tăng lên về số lượng (lúc cao nhất là gần 1,5 triệu quân) và trang bị, nhằm chống lại các lực lượng cách mạng và nhân dân ta. Tuy quân Mĩ trực tiếp tham chiến, chiến lược "Chiến tranh cục bộ" ở miền Nam vẫn là chiến lược chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới vì quân đội Sài Gòn vẫn giữ vai trò quan trọng. Mĩ nhảy vào cuộc chiến nhằm cứu quân đội Sài Gòn khỏi bị sụp đổ, tiếp tục thực hiện những mục tiêu của chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam. Dựa vào ưu thế quân sự, Mĩ liên tiếp mở các cuộc hành quân "tìm diệt" và "bình định' vào các vùng giải phóng của ta. Đồng thời mở rộng chiến tranh bằng không quân, hải quân phá hoại miền Bắc.

Nguyễn Thanh Hằng
Xem chi tiết
Phạm Thị Diệu Hằng
10 tháng 4 2018 lúc 2:27

Đáp án: C

Sách Giáo Khoa
Xem chi tiết
Đặng Phương Nam
14 tháng 4 2017 lúc 16:49

Về điểm giống nhau.
+ Đều là loại hình chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới, nằm trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của Mĩ những năm sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
+ Đều chung mục tiêu là chống phá cách mạng miền Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mĩ.
+ Đều có sự tham gia và chi phối của tiền của, vũ khí và đô la Mĩ.
+ Đều bị thất bại.
Khác nhau:
Về lực lượng tham chiến chính .
+ Chiến tranh đặc biệt: lực lượng chủ lực là quân Ngụy Sài Gòn.
+ Chiến tranh cục bộ: Lực lượng chiến đấu chính là quân viễn chinh Mĩ.
+ Việt Nam hóa chiến tranh: Chủ yếu là quân Ngụy, quân Mĩ rút dần về nước.
Về địa bàn diễn ra.
+ Chiến tranh đặc biệt: miền Nam.
+ Chiến tranh cục bộ: vừa bình định Miền Nam vừa mở rộng chiến tranh phá hoại miền bắc.
+ Việt Nam hóa chiến tranh: Mở rộng chiến tranh ra cả nước vừa mở rộng sang cả khu vực Đông Dương.
Về thủ đoạn cơ bản.
+ Chiến tranh đặc biệt: Ấp chiến lược là cơ bản và được nâng lên thành quốc sách.
+ Chiến tranh cục bộ: Thủ đoạn cơ bản là chiến lược hai gọng kìm tìm diệt và bình định.
+ Việt Nam hóa chiến tranh: Dùng người Việt trị người Việt, dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương.
Về tính chất ác liệt:
Chiến tranh cục bộ là hình thức chiến tranh xâm lược cao nhất của chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới ở miền Nam Việt Nam, là chiến dịch duy nhất mà Mĩ trực tiếp huy động quân viễn chinh sang tham chiến ở chiến trường miền Nam, tăng cường bắn phá miền bắc. Thất bại của chiến lược này đã mở ra cơ hội để quân ta bắt đầu đi đến đàm phán ở Pa-ri.
Sau chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh, Mĩ buộc phải kí Hiệp định Pa-ri và rút quân về nước.

Bình Trần Thị
14 tháng 4 2017 lúc 19:11
Những điểm giống nhau: Cả hai chiến lược chiến tranh này đều là chiến tranh xâm lược theo kiểu thực dân mới của Mĩ nhằm chống phá cách mạng và nhân dân Việt Nam. Đều dưới sự chỉ huy của hệ thống cố vấn Mĩ, vũ khí và phương tiện chiến tranh của Mĩ. Đều dùng lực lượng quân đội ngụy, ngụy quyền để làm tay sai đắc lực cho chúng. Và cả hai chiến lược này đều bị thất bại. Những điểm khác nhau: về quy mô, âm mưu thủ đoạn mà Mĩ thực hiện. Về quy mô chiến tranh, với chiến lược “chiến tranh cục bộ” Mĩ vừa gây chiến tranh cục bộ ở miền Nam, vừa gây chiến tranh phá hoại miền Bắc, nhằm phá hoại cuộc cách mạng của nhân dân ta. Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, Mĩ vừa gây chiến tranh ở Việt Nam, vừa mở rộng chiến tranh xâm lược Lào, Campuchia. Về âm mưu, thủ đoạn Mĩ sử dụng ở hai chiến lược là khác nhau, với những âm mưu, thủ đoạn hết sức dã man. Chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, với mục tiêu là vừa tiêu diệt quân chủ lực vừa bình định miền Nam, phá hoại miền Bắc. Lực lượng tham chiến đông, gồm cả Mĩ, chư hầu, ngụy, trong đó quân Mĩ giữ vai trò quan trọng và không ngứng tăng lên về số lượng và trang bị. Chúng sử dụng vũ khí hiện đại, hỏa lực mạnh cả trên bộ, trên không, trên biển, tốc độ nhanh và mở liên tục nhiều chiến dịch nhằm “tìm diệt” và “bình định” vào “Đất thánh Việt cộng”. Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” được tiến hành bằng lực lượng quân đội Sài Gòn là chủ yếu, có sự phối hợp về hỏa lực và không quân Mĩ, và vẫn do Mĩ chỉ huy bằng hệ thống cố vấn. Quân Mĩ và đồng minh rút dần khỏi chiến tranh để giảm xương máu người Mĩ trên chiến trường. Tăng cường lực lượng quân đội Sài Gòn nhằm thực hiện âm mưu “dùng người Việt đánh người Việt”. Dùng lực lượng quân đội Sài Gòn nhằm thực hiện “Đông DƯơng hóa chiến tranh”. Thỏa thuận với Trung Quốc, hòa hoàn với Liên Xô nhằm hạn chế sự giúp đỡ của các nước đó đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Về kết quả, với thất bại của chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, Mĩ phải chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán với ta ở Hội nghị Pari để giải quyết vấn đề Việt Nam. Với chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, Mĩ phải chấp nhận kí kết Hiệp định Pari 1973 về Việt Nam, công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
lê hồng thanh hường
Xem chi tiết
châu_fa
17 tháng 4 2023 lúc 20:40

a.

I. Những điểm giống nhau

 

1. Về hình thức: Đều là loại hình chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mỹ.

2. Về phương tiện, chi phí chiến tranh:

– Hiện đại bậc nhất của Mỹ, do Mỹ cung cấp.

– Đều dựa vào bộ máy chính quyền và quân đội Sài Gòn.

 

– Đều sử dụng viện trợ kinh tế và quân sự để tiến hành chiến tranh.

– Đều sử dụng chính sách bình định nhằm chiếm đất dành dân.

3. Mục tiêu chiến tranh: Nhằm chia cắt lâu dài Việt Nam, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ, dùng miền Nam làm bàn đạp tấn công miền Bắc và phản kích phe xã hội chủ nghĩa từ phía Đông Nam Á.

II. Những điểm khác nhau

 

1. Về lực lượng

***Chiến tranh cục bộ: Quân Mỹ, quân một số nước đồng minh và quân đội Sài Gòn.

***Việt Nam hóa chiến tranh: Quân đội tay sai là chủ yếu, có sự phối hợp về không quân, hậu cần của Mĩ do cố vấn Mỹ chỉ huy.

2. Về Phạm vi – quy mô

***Chiến tranh cục bộ: Toàn Việt Nam

***Việt Nam hóa chiến tranh: Toàn Đông Dương

3. Về Âm mưu của Mỹ

***Chiến tranh cục bộ: Nhằm nhanh chóng tạo ưu thế về quân sự, giành lại thế chủ động trên chiến trường, đẩy lùi lực lượng cách mạng tiến tới tiêu diệt.

***Việt Nam hóa chiến tranh: 

– “Dùng người Việt đánh người Việt” và “Dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương”.

– Tận dụng xương máu của người Việt thay cho quân Mỹ.

4. Về Thủ đoạn của Mỹ

***Chiến tranh cục bộ: 

– Ồ ạt đổ quân viễn chinh Mỹ, quân thân Mĩ và phương tiện chiến tranh hiện đại vào Việt Nam.

– Tiến hành 2 cuộc phản công chiến lược mùa khô (1965 – 1966 và 1966 – 1967) bằng hàng loạt cuộc hành quân “tìm diệt” và “bình định” vào “Đất thánh Việt cộng”.

– Kết hợp với chiến tranh phá hoại miền Bắc nhằm phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, tiêu hủy tiềm lực kinh tế – quốc phòng miền Bắc, ngăn chặn sự chi viện từ bên ngoài vào miền Bắc, từ Bắc vào Nam, làm lung lay quyết tâm chống Mỹ của nhân dân Việt Nam.

***Việt Nam hóa chiến tranh: 

– Tăng cường xây dựng quân đội Sài Gòn làm lực lượng chiến đấu chủ yếu trên chiến trường, quân Mỹ rút dần về nước, thực hiện “dùng người Việt đánh người Việt”.

– Sử dụng quân đội Sài Gòn mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược Campuchia (1970), tăng cường chiến tranh ở Lào (1971) thực hiện “Dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương”.

– Tìm cách thỏa hiệp với Trung Quốc, hòa hoãn với Liên Xô nhằm hạn chế sự giúp đỡ của các nước này đối với nhân dân Việt Nam.

– Sẵn sàng Mỹ hóa trở lại cuộc chiến tranh khi có điều kiện.