Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài

Những câu hỏi liên quan
Đào Thị Thùy Dương
Xem chi tiết
Duyên Vũ
7 tháng 2 2021 lúc 14:34

*Tục ngữ: Là một câu tự nó diễn trọn vẹn một ý, một nhận xét, một kinh nghiệm,một luân lý, có khi là một sự phê phán

 *Thành ngữ: Là một phần câu sẵn có, nó là một bộ phận của câu, mà nhiều người
đã quen dùng, nhưng tự riêng nó không diễn được một ý trọn vẹn

*Ca Dao là một thuật ngữ Hán Việt. Đứng về mặt văn học mà nhận định, khi chúng ta tước bỏ những tiếng đệm, những tiếng láy, những câu láy ở một bài dân ca, thì chúng ta thấy bài dân ca ấy chẳng khác nào một bài ca dao. Có thể nói, ranh giới giữ ca dao và dân ca không rõ

Khách vãng lai đã xóa
Kanhh.anhie
7 tháng 2 2021 lúc 22:12

Giống: Đều là những thể loại văn học dân gian. Khác: -Ca dao là những sáng tác kết hợp lời và nhạc, diễn tả đời sống nội tâm của con người. -Tục ngữ là những câu nói dân gian ngắn gọn, ổn định, có nhịp điệu, hình ảnh, thể hiện những kinh nghiệm của nhân dân về mọi mặt (tự nhiên, lao động sản xuất, xã hội)

Khách vãng lai đã xóa
Phan Hoàng Minh
Xem chi tiết
Trần Đình Thiên
24 tháng 7 2023 lúc 18:00

Ca dao, tục ngữ và thành ngữ là những hình thức diễn đạt đạt truyền thống trong văn hóa dân gian. Dưới đây là sự giống nhau và khác nhau giữa chúng:

Giống nhau:
1. Cả ba đều là hình thức diễn đạt đạt được hệ thống truyền thông của dân gian, được truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác.
2. Cả ba đều mang tính chất ngắn gọn, dễ nhớ và dễ truyền bá.
3. Cả ba đều chứa đựng những tâm lý, quan điểm, kinh nghiệm sống của dân gian.

Khác nhau:
1. Ca dao là thể thơ rút gọn, thường có nhịp điệu và thể hiện qua các câu chữ rút gọn, thường là 4 chữ, 6 chữ hoặc 8 chữ. Tục ngữ và thành ngữ không có yêu cầu về dạng thức.
2. Ca dao thường được dùng để diễn đạt những tình cảm, suy nghĩ, trạng thái tâm lý của con người. Tục ngữ và thành ngữ thường diễn đạt các quy tắc, quan điểm, lời khuyên hoặc mô tả sự thật trong cuộc sống.
3. Ca dao thường có nguồn gốc từ các bài hát dân ca, thường được truyền bá qua các bài hát. Tục ngữ và thành ngữ thông thường được truyền bá qua các câu chuyện, câu chuyện cười hoặc qua lời nói của người lớn.
4. Ca dao thường mang tính chất tổng quát, chỉ quan tâm đến một vấn đề, một sự việc cụ thể. Tục ngữ và thành ngữ thông thường mang tính cụ thể hơn, áp dụng vào những vấn đề, sự việc cụ thể trong cuộc sống hàng ngày.

Đỗ Tuệ Lâm
25 tháng 7 2023 lúc 14:58

Sự giống nhau của ca dao và tục ngữ, thành ngữ:

+ đều không rõ tác giả, được truyền đạt đến thế hệ sau qua dân gian.

+ đều trình bày ngắn gọn, súc tích, thường bao gồm 1 câu hoặc 2 - 3 câu ngắn.

+ đều có nội dung, ý nghĩa sâu sắc về phẩm chất, chân lý cuộc sống, kinh nghiệm dân gian về thời tiết/ sinh hoạt nhằm giáo dục dạy dỗ mọi người.

Sự khác nhau giữa ca dao và tục ngữ, thành ngữ:

 Nội dungNgôn ngữSử dụng
Ca dao

thường là những bài thơ ngắn, thể hiện những tình cảm, suy nghĩ, kinh nghiệm của người dân.

thường sử dụng ngôn ngữ thơ, có nhịp điệu và âm điệu đặc trưng.dùng trong các tình huống giao tiếp, truyền đạt cảm xúc.
Tục ngữ, thành ngữ là những câu châm ngôn, lời khuyên, hay những ngạn ngữ phổ biến trong xã hội. thường sử dụng ngôn ngữ thông tục, phổ biến trong cuộc sống hàng ngày.truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm sống, hay những lời khuyên.

 

Nguyễn Trí Thành
Xem chi tiết
ĐINH THỊ HOÀNG ANH
19 tháng 1 2022 lúc 15:07

tham khảo

 

- Giống : 
Ca dao tục ngữ đều là những câu nói do người đời lưu truyền lại ,tán tụng trong nhân gian .Là bài học,lời dạy ,kinh nghiệm sống ,kinh nghiệm tìm hiểu cachiện tượng thiên nhiên thời tiếtkhi hậu mùa màng.


- Khác : 
Ca dao thì có vần có điệu ,rườm rà hơn ,trữ tình hơn 
Tục nmgữ thì không nhất thiết phải có vần có điệu mà tục ngữ ngắn gọn,xúc tích và không có tính rườm rà hay mang tính chất kể nể như ca dao .

Bùi Nguyễn Đại Yến
Xem chi tiết
hưng phúc
22 tháng 10 2021 lúc 17:09

- Thành ngữ

- Câu thành ngữ trên có ý, không nên cho mình là lớn nhất, trên đời còn có thứ lớn hơn.

lê văn ngọc
23 tháng 10 2021 lúc 16:20
Luyện thi khối H1. Thời gian luyện thi vẽ khối H

Học vẽ ôn thi đại học luyện thi khối H kiến trúc xây dựng các bạn cần có thời gian học vài ba năm để có đủ khoảng ngấm trong nghệ thuật ( nếu bạn muốn phát triển thật sự ), còn không thì học 1 năm cũng đủ để bạn thi đỗ vào trường đại học.

2.Xác định ngành nghề tương lai sớm

Khi theo luyện thi khối h , luyện thi vào trường đại học kiến trúc- xây dựng, gia đình và các bạn cần có định hướng rõ ràng để dành thời gian nhiều cho việc ôn thi đại học khối H tập trung vào 2 môn năng khiếu , bởi học năng khiếu cần dành tâm huyết mới phát triển được nhé các em .

3. Đồ dùng chuẩn bị cho đi học vẽ luyện thi khối H

Bảng vẽ A3, A1 , bút chì tiệp 3b,5b, 7b, bang dính giấy, dao gọt chì, tẩy chì đen 4b bản mỏng….. các họa cụ phục vụ cho bố cục màu ( nếu bạn thi khối h ).

4. Tìm lớp học vẽ luyện thi vẽ khối H

Lớp vẽ ARC Hà Nội là lớp vẽ luyện thi khối H chất lượng trong nhiều năm qua mà các bạn cần biết tới,  với kết quả hằng năm của mỗi khóa học vẽ ARC Hà Nội luôn đạt thành tích cao.

Luyện thi khối H

+ CS1: Nhà Văn Hóa tổ dân phố 1, Ngõ 22 Phố An Hòa, p.Mỗ Lao, Hà Đông

+ CS2 : Số 107 B8, ngõ 71 Nguyễn Chính, p.Tân Mai, Hoàng Mai, Hà Nội

+ CS3 : Nhà số 4, ngõ 99 Trung Hòa, Cầu giấy, hà nội.

+ CS4 : P.402-D9, Ngõ 63 Thái Thịnh, Đống Đa, Hà Nội.

+ CS5 : Số 113 Nguyễn Văn Cừ, Long biên , Hà Nội

+ Đăng ký học vẽ luyện thi vẽ khối v tại ARC Hà Nội:

Liên hệ: 0987937406/ 0941078389 – Giảng viên:  Lê Ngọc

* Lớp vẽ Arc Hà Nội - Luyện thi vẽ khối H

https://mythuatarc.com/

https://archanoi.com/

Truy cập facebook :

https://www.facebook.com/lopveluyenthikhoiVkhoiH/

https://www.facebook.com/luyenthikientruchanoi/

https://www.facebook.com/luyenthikhoihhanoi/

 

 

Kagamine Twins
Xem chi tiết
Quốc Đạt
20 tháng 12 2016 lúc 18:40

trái nghĩa với biết ơn là : vô ơn

2 câu ca dao về lòng biết ơn là :

 

+ Ăn cây nào , rào cây ấy .

+ Ăn quả nhớ kẻ tròng cây

Ăn khoai nhớ kẻ cho giây mà trồng .

2 câu ca giao về trái nghĩa lòng biết ơn là :

+ Ăn cháo đá bát

+ Lấy oán báo ơn .

 

Thuỷ thủ Sao Kim
9 tháng 12 2017 lúc 9:12

Trái với biết ơn là: vô ơn

Câu ca dao nói về lòng biết ơn :

- Uống nước nhớ nguồn

- Ăn quả nhớ kẻ trồng cây

Câu ca dao noi về không biết ơn

- Vô ơn bội nghĩa

- Ăn cháo đá bát

Võ Nguyễn Hương Giang
5 tháng 1 2018 lúc 21:14

trái vs biết ơn là vô ơn - biết ơn + uống nước nhớ nguồn + ăn quả nhớ kẻ trồng cây - vô ơn + vô ơn bội nghĩa + làm ơn mắc oán

Evil
Xem chi tiết

1. Tục ngữ và Thành ngữ:
- Tục ngữ: Là một câu tự nó diễn trọn vẹn một ý, một nhận xét, một kinh nghiệm,
một luân lý, có khi là một sự phê phán.
- Thành ngữ: Là một phần câu sẵn có, nó là một bộ phận của câu, mà nhiều người
đã quen dùng, nhưng tự riêng nó không diễn được một ý trọn vẹn
Về hình thức ngữ pháp , mỗi thành ngữ chỉ là một nhóm từ, chưa phải là một câu hoàn chỉnh.
Còn tục ngữ dù ngắn đến đâu cũng là một câu hoàn chỉnh.
Có thể nói một cách hình ảnh: thành ngữ ngang hàng với từ. Thành ngữ là anh, từ đơn độc là em.
Vì thành ngữ qua thời gian đã được tập hợp thành cụm. VD: "Áo rách, quần manh",
"Ăn trắng, mặc trơn", "Ăn trên, ngồi trốc", "Dốt đặc cán mai", "Cá bể, chim ngàn" "Bụng đói, cật rét"....

đều là thành ngữ. Còn "Chó cắn áo rách", "Bệnh quỷ thuốc tiên", "Người chửa, cửa mả"...
đều là tục ngữ.
Hầu hết những câu thành ngữ, tục ngữ đầu do nhân dân sáng tác, nhưng cũng có những câu
rút ra từ các thi phẩm phổ biến, hoặc rút từ ca dao, dân ca ra. Có người nói tục ngữ là ngạn ngữ
(nghĩa là lời nói đã lưu hành từ xưa) (Chữ ngạn có nghĩa là lời nói của người xưa).
Như vậy, tục ngữ được cấu tạo trên cơ sở những kinh nghiệm về sinh hoạt, sản xuất... Nó là những
câu đúc kết những nhận xét đã được nhiều người thừa nhận, để hướng dẫn con người ta trong sự
nhìn nhận mọi khía cạnh của cuộc đời. Tục ngữ là những câu thông tục, thiên về diễn ý, đúc kết một
số ý kiến dựa theo kinh nghiệm, dựa theo luân lý và công lý để nhận xét về con người và xã hội,
hay dựa theo trí thức để nhận xét về con người và vũ trụ. Trong tục ngữ có cả thành ngữ :
"Chồng yêu, xỏ chân lỗ mũi", thì "xỏ chân lỗ mũi" là thành ngữ.

2. Ca dao và dân ca:
Ca dao là một thuật ngữ Hán Việt. Đứng về mặt văn học mà nhận định, khi chúng ta
tước bỏ những tiếng đệm, những tiếng láy, những câu láy ở một bài dân ca, thì chúng ta
thấy bài dân ca ấy chẳng khác nào một bài ca dao. Có thể nói, ranh giới giữ ca dao và
dân ca không rõ.
Ca dao của ta có thể ngâm được nguyên câu. Còn dùng một bài ca dao để hát, thì bài
ca dao sẽ biến thành dân ca. Vì hát yêu cầu phải có khúc điệu, và như vậy phải có thêm tiếng đệm.
Vậy có thể nói, ca dao là một loại thơ dân gian có thể ngâm được, như các loại thơ khác
và có thể xây dựng thành các điệu ca dao.
Còn dân ca là câu hát đã thành khúc điệu. Dân ca là những bài hát có nhạc điệu nhất định,
nó ngả về nhạc nhiều ở mặt hình thức, nó là nhạc do tiếng của con người đưa ra từ cổ họng.
Xét về nguồn gốc phát sinh thì dân ca khác với ca dao ở chỗ nó được hát lên trong những hoàn
cảnh nhất định, hay ở những địa phương nhất định. Dân ca thường mang tính chất địa phương,
còn ca dao thì ngược lại, dù nội dung của bài ca dao có nói về một địa phương cụ thể nào,
thì nó vẫn đươc phổ biến rộng rãi

"Đồng đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh"

Hay:

Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ

thì nhân dân nhiều nơi đều biết ngâm nga.
Còn dân ca thì nhiều khi chỉ có dân địa phương mới biết, và mới hát được..
Nội dung của dân ca cũng nhue nội dung của ca dao, chủ yếu là trữ tình, tức biểu hiện
cái nội tâm của tác giả trước ngoại cảnh.
Cũng như tục ngữ, ca dao - dân ca là những bài văn vần do nhân dân sáng tác tập thể,
được lưu truyền bằng miệng và / được phổ biến rộng rãi trong nhân dân. Trong tất cả
những tính chất chung của văn học dân gian (trong đó có tục ngữ - ca dao - dân ca) :

tính nhân dân, tính hiện thực, tính lãng mãn, tính phổ biến, tính khuyết danh,
tính truyền miệng, tính tập thể ....thì tính tập thể là tính chất cơ bản nhất

B. Thời kỳ xuất hiện:
So với thần thoại và truyền thuyết thì ca dao có một hình thức văn nghệ tưởng như mới hơn. Nhưng theo kết quả nghiên cứu, tục ngữ, ca dao cũng xuất hiện cùng thời với thần thoại và truyền thuyết. Trong quá trình lao động, xuất hiện những câu hò, kiểu như "Dô ta", như vậy ca hát đã có từ rất sớm, nó xuất hiện trong lao động từ thời cổ sơ, và được sửa đổi qua các thế hệ của loài người.
Xét nội dung những câu "Năm cha, ba mẹ", hay "Sinh con rồi mới sinh cha, sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông", "Con dại, cái mang", "con mống, sống mang".. ta có thể biết được thời điểm xuất hiện câu đó, đólà thời kỳ tạp giao, hay tình trạng chồng chung vợ chạ, hoặc tóm tắt quá trình tạp giao từ chế độ mẫu hệ, rồi đến Phụ hệ...
Ca dao, tục ngữ cũng mang ý nghĩa lịch sử vì nó gắn liền và phản ánh đời sống kinh tế, xã hội qua từng thời kỳ.

C. Nội dung và hình thức của tục ngữ - ca dao - dân ca:

1. Nội dung của tục ngữ:
Tục ngữ được cấu tạo trên cơ sở thực tế, do lý trí nhiều hơn là do xúc cảm. tư tưởng biểu hiện trong tục ngữ là tư tưởng đanh thép, sắc bén, rút ở cuộc đời. Ở tục ngữ, tính chất phản phong là mạnh hơn cả.
Về nội dung, tục ngữ là những nhận định sau kinh nghiệm của con người về lao động, sản xuất, về cuộc sống trong gia đình, xã hội. Nội dung ấy vừa phong phú, vừa vững chắc, vì nó đã được đúc kết qua nhiều thế hệ của con người.
VD:

Quá mù ra mưa
Đông sao thì nắng, vắng sao thì mưa
Vỏ quýt dày có móng tay nhọn
Cái sảy nảy cái ung
Cõng rắn cắn gà nhà
...

2. Hình thức của tục ngữ:
Tục ngữ ban đầu chỉ là những câu nói xuôi ta, hợp lý, sau dần mới trở thành những câu đối có vần vè, gọn gàng hơn

Làm phúc phải tội
Gà què ăn quẩn cối xay
Có ở trong chăn, mới biết chăn có rận
Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm
...

Tục ngữ không nhất thiết, nhưng phần lớn đều có vần vè, hay có đối

No nên bụt, đói nên ma
Bút sa, gà chết
Có tật giật mình

Còn có những câu vần cách, cách hai chữ, ba chữ

May tay hơn hay thuốc
Đi chợ ăn quà, về nhà đánh con

Tháng bảy heo may, chuồn chuồn bay thì bão
Gà cựa dài thịt rắn, gà cựa ngắn thịt mềm

Hoặc thể lục bát

Cá tươi thì xem lấy mang
Người khôn xem lấy hai hàng tóc mai


Tóm lại xét về sự phong phú cả về mặt nội dung cũng như hình thức, ta có thể thấy tục ngữ đã phát triển trước ca da rất nhiều. Còn nữa, ca dao thiên về tình cảm, biểu lộ tính tình của con người...nên chỉ có thể phát triển khi mà đời sống xã hội đã phức tạp.

3. Nội dung của ca dao:
Có thể nói muốn hiểu biết về tình cảm của con người Việt Nam xem dồi dào, thắ m thiết và sâu sắc đến cỡ nào...thì không thể nào không nghiên cứu ca dao mà hiểu được.

Ca dao Việt nam là những bài tình tứ, là khuôn thước cho lối thơ trữ tình của ta.

Ca dao thể hiện tình yêu: tình yêu đôi lứa, gia đình, quê hương, đất nước, lao động, giai cấp, thiên nhiên, hoà bình...

Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương
Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao

Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ

Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ , canh gà Thọ Xương
Tuyệt mù khói toả ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ...

Ca dao còn thể hiện tư tưởng đấu tranh của con người với thiên nhiên, với xã hội.
Có thể nói nội dung của ca dao chủ yếu là trữ tình. Tìm hiểu được cái tình trong ca dao chúng ta sẽ thấy được tính chiến đấu, tính phản phong, tính nhân đạo chủ nghĩa chứa đựng trong ca dao.

4. Hình thức nghệ thuật của ca dao:
Ca dao thường là những bài ngắn, hai, bốn, sáu, hoặc tám câu., âm điệu lưu loát và phong phú.
Đặc điểm của ca dao về phần hình thức là vần vừa sát lại vừa thanh thoát, không gò ép, lại giản dị, và tươi tắn. Nghe có vẻ như lời nói thường mà lại nhẹ nhàng, gọn gàng, chải chuốt, miêu tả được những tình cảm sâu sắc. Có thể nói về mặt tả cảnh , tả tình không có một hình thức văn chương nào ăn đứt được hình thức diễn tả của ca dao.
Ca dao dùng hình ảnh để nói lên những cái đẹp, những cái tốt, nhưng cũng có khi để nói về những cái xấu, nhưng không nói thẳng. Nhờ phương pháp hình tượng hoá, nên lời của ca dao tuy giản dị, mà rất hàm súc.
Người con gái không được chủ động trong việc hôn nhân, đã ví mình như hạt mưa:

Thân em như hạt mưa rào
Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa

Hay để tả một tình yêu trong trắng mới chớm nở của đôi lứa, ca dao noi:

Đôi ta như lửa mới nhen
Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu

Đến như tả hạng người ngu đần, ca dao cũng đã đưa ra những hình ảnh táo bạo:

Mặt nạc đóm dày
Mo nang trôi sấp biết ngày nào khôn
[/cente]
Ca dao ngoài nghệ thuật cụ thể hoá, còn có nghệ thuật nhân cách hoá, dùng vật vô tri để gán cho những tâm tư, tình cảm con người.

Thuyền ơi có nhớ bến chăng
Bến thời một dạ khăng khăng đợi thuyền

Một số thể cổ điển của ca dao:
Thể phú:
 Là trình bày, diễn tả...

Đường lên xứ lạng bao xa
Cách một trái núi với ba quãng đồng
Ai ơi đứng lại mà trông
Kìa núi thành Lạng, kìa sông Tam Cờ
Em chớ thấy anh lắm bạn mà ngờ
Bụng anh vẫn phẳng như tờ giấy phong...

Thể tỉ: là so sánh, người ta thường mượn một cái khác để ngụ ý, so sánh, hay gửi gắm tâm sự của mình. Đây là phương pháp nghệ thuật chủ yếu trong sự diễn đạt tư tưởng và tình cảm. So sánh cũng là một lối cụ thể hoá những cái trừu tượng, làm cho lời thêm ý nhị, tình tứ và thắm thiết. So sánh trực tiếp:

Gối mền, gối chiếu không êm
Gối lụa không mềm bằng gối tay em

Lối tỉ gián tiếp, tức nghệ thuật ẩn dụ, một phương pháp nghệ thuật tế nhị hơn:

Trăm năm đành lỗi hẹn hò
Cây đa, bến cũ, con đò khác đưa

....
Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng
- Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?
- Đan sàng thiếp cũng xin vâng
Tre vừa đủ lá, non chăng hỡi chàng?
..........
Thể hứng: Ca dao còn một phương pháp nghệ thuật độc đáo nữa là cách biểu lộ cảm xúc đối với ngoại cảnh, mở đầu cho sự biểu lộ tâm tình. Hứng là do cảm xúc mà nảy nở tình cảm, có thể là vui, cũng có thể là buồn
[center]Cơm trắng ăn với chả chim
Chồng đẹp vợ đẹp, những nhìn mà no

Trên trời có đám mây vàng
Bên sông nước chảy có nàng quay tơ
Nàng buồn nàng bỏ quay tơ
Chàng buồn chàng bỏ thi thơ học hành

MỘT SỐ LÀN ĐIỆU DÂN CA NGHỆ TĨNH

1. Hát giặm
Tiếng giặm có nghĩa là ghép vào, điền vào, đan vào một chỗ thiếu....xuất hiện ở Nghệ Tĩnh cách đây khoảng ba , bốn trăm năm.
Về nội dung, có nhiều bài hát giặm rất tình tứ, cũng có nhiều bài có tính chất chống giai cấp phong kiến.
Về hình thức, phần nhiều các bài hát dặm đều gồm những câu năm chữ và cước vận, tức vần ở cuối câu: cứ hai câu cuối mỗi đoạn lại lấy một ý, điệp cả về ý, lẫn lời:
vd:
Tôi lấy chân khoả lại
Tôi lấy bàn khoả lại

hay:
Thấy những lời kêu trách
Nghe những lời kêu trách

Bài hát có bao nhiêu đoạn thì có bấy nhiêu lần điệp lại như vậy, nghe đọc thì thấy vướng, nhưng khi hát, nólàm nổi ý của câu hát, của cả bài.
Hát giặm cũng có ba lối trình diễn: nam nữ đối đáp, có lối vài ba người hát kể lên một giai thoại, hay một sự việc vừa xảy ra, lại có lối kể một sự tích gì có tình tiết nội dung, và hình thức đều được trau chuốt.
Hát giặm Nghệ Tĩnh không hoàn toàn do dân sáng tác, có khi do một số nho sĩ sáng tác, được nhân dân ưa thích và phổ biến rộng rãi
VD:
Trai:
Tiết thanh nhàn thong thả
Muốn thăm hỏi vài câu
Cuốc thánh thót kêu sầu
Gió phảng phất mùa sâu
Nhớ trong sách đã lâu:
Chuyện "Tư mã phượng cầu"
Thương thì mũi tìm trâu
Trâu đâu tìm chạc mũi
Gái:
Trời mở rộng phong quang
Giã ơn trời mở rộng phong quang
Em đánh tiếng đua sang
Đêm tàn canh vò võ
Tay em cầm con bấc đỏ
Mong bỏ đĩa dầu đầy
Mời bạn ở lại đây
Đôi ta giở lời rày
Tình đó với nghĩa đây
Trai:
Giống như đọi nác đầy
Bưng nhẩn nhẩn trên tay
Không khuy sơ một hột
Gió nỏ triềng một hột
Công đôi ta thề thốt
Kể đã mấy niên rồi
Lòng đã quyết lứa đôi
Ngãi đã quyết thề bồi
Nhất ngôn nói hẳn lời
Đừng bốn chốn ba nơi
Đừng trăn gió chào mời
Trăng nhiều trăng rạng rỡ
Trăn nhiều đèn rạng rỡ
Gái:
Em đã có chồng rồi
Em đã có lứa rồi
Vung úp đã vừa nồi
Đũa ghép đã thành đôi
Bạn đừng có ỡm ờ với tôi!
Tôi lấy chân khoả lại
Tôi lấy bàn khoả lại
Trai:
Têm một quả trầu không
Bỏ vô hộp con rồng
Đi băng nội băng đồng
Qua năm bảy khúc sông
Qua chín mười đỗi đồng
Nghe tin em đã có chồng
Anh quăng lắc vô bụi
Bạn gạt tùa vô bụi.

Anh thương em một tháng hai kỳ
Dồn đi tính lại, cũng như mười ngày
Năm rộn mà chầy
Có hai mươi bốn miện (Miện = kỳ)
Xuân qua rồi hè /đến
Thu đã muộn, đông rồi
Nhớ bạn cũ chưa nguôi,
Sang lập xuân vũ thuỷ
Đêm em nằm em nghĩ
Nghĩ kinh trập, xuân phân,
Lòng tưởng sự ái ân
Sang thanh minh, cốc vũ
Đêm dêm nằm nỏ ngủ
Nhớ bạn mãi thường thường
Tiết lập hạ nhớ thương
Bước sang tuần tiểu mãn
Trông ra ngoài chán chán
Tiết mang hiện lại gần
Người đập đất, gánh phân
Để mùa màng gặt hái
Anh thương em mãi mãi
Sang hạ chí tiết hè
Em nghe tiếng sầu ve
Em buồn trong gia sự
Bạn buồn trong gia sự
***
Tiết tiểu thử, đại thử
Trời nắng sốt lắm thay!
Ra ngồi tựa cột cây
Anh với em than thở
Bạn với mình than thở
***
Tiết lập thu, xử thử
Ai diều sáo mặc ai
Vàng lác đác giếng tây
Ta thương người bạn cộ (Cộ = cũ)
Nhớ mãi người bạn cộ
***
Vừa đến tiết bạch lộ
Bầy chim trắng bay sang
Cây heo hắt lá vàng
Sang thu phân hàn lộ.
***
Đêm em nằm, em chộ (chộ = thấy)
Tiết sương giáng lại kề
Trông bạn cũ ta về
Sang lập đông giá rét
Tiết tiểu tuyết, đại tuyết
Trời giá rét lắm thay
Sang đông chí cấy cày
Dạ bồi hồi nhớ bạn
Tiết tiểu hàn chưa dạn
Đã bước sang đại hàn
Dạ tưởng nhớ người ngoan
Vừa năm cùng tháng tận
Vừa cuối mùa cuối tận.
***
Phận lại ngồi trách phận
Phận nỏ giám trách phận
Anh thương em từ tháng giêng đến tháng chạp

6. Hát ví Nghệ Tĩnh:
Hát Ví Nghệ Tĩnh là những loại dân ca xuất hiện trong nghề nông và nghề thủ công. Có nhiều điệu hát ví như: hát phường vải, hát phường cấy, hát đò đưa, hát phường buôn.... Trong những điệu hát này, hát phường vải và hát phường cấy có tổ chức và phổ biến hơn cả.

1. Hát phường vải:
Những câu hát phường vải là những câu biểu lộ tâm tình của hai bên trai gái, hoặc là những ước mơ về yêu đương, hoặc là những lời oán trách kẻ chia rẽ tình duyên, và bao giờ cũng lạc quan, tin tưởng.
Hat phường vải gồm có bốn giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất: hát dạo, hát mừng, hát chào và hát hỏi. Giai đoạn thứ hai: hát đố và hát đối. Giai đoạn thứ ba: hát mời và hát xe kết. Giai đoạn thứ tư: hát tiễn.
Giai đoạn 1:
Hát dạo
 

Bấy lâu thức nhắp mơ màng
Bên rèm tiếng gió, đầu giường bóng trăng
*
Bấy lâu nghe hết tiếng nàng
Bên anh nức tiếng đồn vang đã lừng
Nghe tin anh cũng vội mừng
Vậy nên chẳng quản suối rừng anh sang
*
Bấy lâu anh mức chi nhà
Để em dệt gấm thêu hoa thêm sầu
*
Đồn rằng cá uốn thân vây
Đồn em hay hát, hát hay anh tìm
*
Chốn này vui vẻ, tưng bừng
Hạc nghe tiếng phượng xa chừng tới nơi
*
Đêm khuya trời tạnh sương im
Tai nghe tiếng nhạc, chàng Kim tới gần.
*
Dừng xa, khoan kéo, ơi phường!
Hình như có khách viễn phương tới nhà
*
Đi qua nghe tiếng em reo,
Nghe xa em kéo, muốn đeo em về.
*
Đi ngang trước cửa nàng Kiều,
Dừng chân đứng lại, dặt dìu đôi câu
*
Đi ngang thấy búp hoa đa`o
Muốn vào mà bẻ, sợ bờ rào lắm gai
*
Đồn đây là chốn Đao` Nguyên
Trăng thanh gió mát, cắm thuyền dạo chơi
*
Lạ lùng anh mới tới đây,
Thấy hoa liền hái, biết cây ai trồng
*
Đến đây vàng cũng như son
Ai ai thời cũng như con một nhà

Hát mừng, hát chào
 

Khi nháy mắt, khi nhện sa
Khi chuột rích trong nhà
Khi khách kêu ngoài ngõ
Tay em đưa go đủng đỉnh
Tay em chìa khoá động đào
Bước năm lần cửa, ra chào bạn quen
*
Mừng rằng bạn đến chơi nhà
Cam lòng thục nữ gọi là trao tay

Hát hỏi

Em có chồng rồi, em nói rằng chưa
Tội riêng em đó, nỏ lừa được anh
*
Em chưa có chồng, em mới đến đây
Chồng rồi chiếu trải, màn vây ở nhà

Giai đoạn 2:
Hát đố và hát đối

Anh về chẻ lạt bó tro
Rán sành ra mỡ, em cho làm chồng.
Em về đục núi lòn qua,
Vắt cổ chày ra nước, thì ta làm chồng
*
Trai thanh xuân ngồi hàng thuốc bắc,
Gái đông sàng cảm bệnh lầu tây
Hai ta tình nặng nghĩa dày,
Đối ra đáp được, lúc này tính sao?
*
- Đến đây hỏi khác tương phùng
Chim chi một cánh bay cùng nước non?
-Tương phùng nhắn với tương tri,
Lá buồm một cánh bay đi khắp trời
*
- Lá gì không nhánh, không ngành?
Lá gì chỉ có tay mình trao tay?
- Lá thư không nhánh, không ngành,
Lá thư chỉ có tay mình trao tay.
*
- Nghe tin anh hoc có tài
Cha thầy Mạnh Tử là ai rứa chàng?
- Thầy Mạnh, cụ Mạnh sinh ra
Đù mẹ con hát, tổ cha thằng bày!
*
- Người Kim Mã cưỡi co ngựa vàng
Đất Phù Long rồng nổi, thì chàng đối chi?
- Người Thanh Thuỷ gặp khách nước trong
Hoành sơn ngang núi, đã thoả lòng em chưa?
*
Nghe anh bôn tẩu bấy lâu
Nghệ An có mấy chiếc cầu hỡi anh?
- Nghệ An có ba mươi sáu chiếc cầu
Phồn hoa đi lại bốn cầu mà thôi
Cầu danh, cầu lợi, cầu tài
Cầu cho đây đó làm hai giao hoà
*
Nhớ em nhất nhật một ngày
Đêm tơ tưởng dạ, làng rày nhớ trông
- Chờ em nửa tháng ni rồi
Ôm đờn bán nguyệt, dựa ngồi cung trăng
*
- Nghe tin anh giỏi, anh tài
Đào tiên một cõi Thiên Thai ai trồng?
- Thiên thai là của nàng Kiều
Riêng chàng Kim Trọng sớm chiều vào ra

Evil
11 tháng 1 2019 lúc 19:39

cóp mạng nhanh dậy tui cần ngắn gọn thui

Hoàng Thị Phương Hoa
Xem chi tiết
Nguyễn Thị Minh Ánh
22 tháng 4 2016 lúc 12:51

là lành đùm lá rách

thương người như thể thương thân

ta thi thuong
22 tháng 4 2016 lúc 14:11

bạn không ghi những câu hỏi không liên quan đến môn toán

Duyên Vũ
4 tháng 4 2021 lúc 20:14

Tục ngữ : Máu chảy ruột mềm.

Ca dao : Nhiễu điều phủ lấy giá gương,

Người trong một nước phải thương nhau cùng.

Thành ngữ : Lá lành đùm lá rách.

Khách vãng lai đã xóa
Hoàng Thị Phương Hoa
Xem chi tiết
Lan Hương
22 tháng 4 2016 lúc 13:01

Bạn khùng à,sao bạn không tự làm đi,dể như con cóc mà ko làm được

kẻ dấu mặt
22 tháng 4 2016 lúc 14:35

ĐÚNG VẬY ĐÚNG VẬY

Đặng Anh Thư
Xem chi tiết
Bùi Nguyễn Đại Yến
Xem chi tiết
Đan Khánh
26 tháng 10 2021 lúc 10:05

Bắt cá hai tay là chỉ hành động của một người yêu hai hay nhiều người cùng một lúc. Ôm đồm muốn có nhiều thứ nếu mất người này thì còn người kia. ... Vừa làm thứ này ở nơi đây rồi lại làm như vậy ở nơi khác (theo lẽ thường thì chỉ được làm ở một nơi) thì sẽ bị mọi người gọi mỉa mai là bắt cá hai tay.

Hà Ngọc Nhi
28 tháng 11 2021 lúc 20:59

Bắt cá hai tay ở đây được hiểu theo nghĩa đen là mỗi tay bắt một con cá cuối cùng là tuột mất chẳng được con nào (vì mỗi tay một con sẽ không chắc chắn).Bắt cá hai tay là gì, ngoại ngữ SGV Từ nghĩa đen cụ thể đó nhân dân ta đã dùng thành ngữ này với nghĩa rộng hơn để chỉ những người có tư tưởng nước đôi, tham lam, ôm đồm, muốn có nhiều thứ, muốn làm nhiều việc cùng lúc. Không được việc này thì được việc khác. Kết quả là không được gì. Cũng có thể hiểu một cách khác là. Cùng một lúc yêu hai người, nếu mất người này thì còn người kia. Kết quả là mất cả hai “xôi hỏng bỏng không" nói về người tham lam

Hà Ngọc Nhi
28 tháng 11 2021 lúc 21:01

đó là ý nghĩa nha