câu 6. chiến thắng nào giúp quang trung đánh tan 5 vạn quân xiêm
Chiến thắng nào mở đầu cho phong trào “Tìm Mỹ mà đánh, lùng nguỵ mà diệt” khắp miền Nam?
A. Ấp Bắc (2-1-1963)
B. Vạn Tường (18-8-1965)
C. Mùa khô 1965-1966.
D. Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968.
Đáp án B
Chiến thấng Vạn Tường được coi là “Ấp Bắc” đối với quân Mĩ, mở đầu cao trào “Tìm Mĩ mà đánh, lùng ngụy mà diệt” trên khắp miền Nam.
Câu 1: em hãy nêu chủ trương của Lý Thường Kiệt trong cuộc kháng chiến chống quân Tống. Câu ns nào thể hiện chủ trương này?
Câu 2: trình bày cuộc chiến đấu phòng tuyến Như Nguyệt chống quân Tống của Lý Thường Kiệt?
Câu 3: nêu những nguyên nhân dẫn đến thắng lợi của 3 lần chống quân xâm lược Mông Nguyên
Câu 1 : Chủ trương của Lý Thường Kiệt trong cuộc kháng chiến chống quân Tống:
- Tiến công trước để tự vệ ( chính )
- Chủ động xây dựng phòng tuyến Như Nguyệt để chận địch vào Thăng Long.
- Phòng thủ để địch chán nản và mệt mỏi.
- Chủ động giảng hòa để giữ danh dự cho nhà Tống.
* Câu nói thể hiện chủ trương đó là : Ngồi yên đợi giặc, không bằng đem quân đánh trước để chặn thế mạnh của giặc
Câu 2 : Cuộc chiến đấu trên phòng tuyến Như Nguyệt.
- Chờ mãi không thấy thủy quân đến, Quách Qùy cho đóng bè 2 lần vượt vượt sông,bị ta phản công, đẩy lùi chúng về bờ bắc.
- Để khích lệ tinh thần chiến đấu của quân sĩ, Lý Thường Kiệt cho người vào đền bên sông ngâm bài thơ "Nam Quốc Sơn Hà".
- Thất vọng, Quách Quỳ ra lệnh "Ai còn bàn đánh sẽ bị chém" và chuyển sang củng cố phòng ngự.Quân Tống mệt mỏi,, lương thảo cạn dần,chán nản, bị động.
- Cuối xuân năm 1077, quân Lý Thường Kiệt, bất ngờ tấn công đánh mạnh vào trại giặc, quân Tống thua to,tuyệt vọng phải chấp nhận giảng hòa và rút quân.
Câu 3 : Nguyên nhân thắng lợi
- Tất cả các tầng lớp nhân dân, các thành phần dân tộc đều tham gia đánh giặc, bảo vô quê hương, đất nước, tạo thành khối đại đoàn kết toàn dân, trong đó các quý tộc, vương hầu là hạt nhân.
- Sự chuẩn bị-chu đáo về mọi mặt cho mỗi cuộc kháng chiến. Đặc biệt nhà Trần rất chăm lo sức dân, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân bằng nhiều biện pháp để tạo nên sự gắn bó giữa triều đình và nhân dân.
- Tinh thần hi sinh, quyết chiến quyết thắng của toàn dân, mà nòng cốt là quân đội.
- Chiến lược, chiến thuật đúng đắn, sáng tạo của Vương triều Trần, đặc biệt của vua Trần Nhân Tông, các danh tướng Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư, đã buộc giặc từ thế mạnh chuyển dần sang thế yếu, từ chủ động chuyển sang bị động để tiêu diệt chúng, giành thắng lợi.
Nội dung nào không nằm trong y nghĩa của thắng lợi ba lần kháng chiến chống quân mông nguyên
Câu 1: vẽ và phân tích sơ đồ phân hóa xã hội nước ta thời Bắc thuộc.
Câu 2: dưới ách đô hộ của nhà Hán những việc làm nào chứng tỏ nhân dân ta vẫn giữ được nếp sống của mình.
Câu 3:năm 40 nổ ra cuộc khởi nghĩa nào? trình bày nguyên nhân kết quả diễn biến của cuộc khởi nghĩa đó.
Câu 4:giai đoạn từ năm 179 TCN -938 được gọi là thời kỳ gì?
Câu 5: cách đánh của ngô quyền có gì độc đáo, tại sao nói trận chiến trên sông bạch đằng năm 938 là một chiến thắng vĩ đại của dân tộc?
Câu 6: hãy đánh giá công lao của ngô quyền đối với lịch sử dân tộc?
Câu 3: Năm 40 nổ ra cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng
* Diễn biến của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng:
Nguyên nhân: Do ách đô hộ thống trị của nhà Hán nên nhân dân căm phẫn.Diến biến;mùa xuân năm 40, Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa ở Hát Môn ( Hà Tây ). Cuộc khởi nghĩa được các tướng lĩnh và nhân dân ủng hộ, chỉ trong thời gian ngắn nghĩa quân dã làm chủ Mê Linh, tiến đánh Cổ Loa rồi Luy Lâu.Thái thú Tô Định bỏ trốn, quân Hán bị đánh tan, cuộc khởi nghĩa dành thắng lợi.3. Kết quả:
xóa ách áp bức tàn bạo của quân xâm lược Hán.giành lại độc lập cho dân tộc.4. Ý nghĩa: thể hiện tinh thần yêu nước, ý chí quật cường bất khuất của dân tộc ta.
*Nguyên nhân nào là cơ bản nhất dẫn đến ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông- Nguyên thắng lợi của vua tôi nhà Trần?
tham khảo
Lần thứ nhất Mông Cổ tấn công Đại Việt vào tháng 1 năm 1258. Từ Đại Lý, khoảng 15.000 – 25.000 kỵ binh Mông Cổ và 20.000 quân Đại Lý (tổng cộng là khoảng 35.000 – 45.000 quân) tiến vào Đại Việt. Quân Đại Việt năm 1258, gồm quân cấm vệ và quân các lộ, có khoảng 10 vạn, trong đó có 2 vạn cấm quân (lực lượng chủ lực đóng ở gần kinh thành) và 8 vạn sương quân (quân đóng ở các địa phương). Tuy nhiên, 8 vạn sương quân này phải đóng quân rải khắp trên lãnh thổ cả nước, bao gồm việc ngăn ngừa nổi loạn, chống đạo tặc, canh gác biên giới và lăng tẩm... nên nhà Trần chỉ có thể tập trung được một bộ phận để tác chiến với Mông Cổ. Đích thân vua Trần Thái Tông và Thái tử Trần Hoảng dẫn quân lên nghênh địch tại Bình Lệ Nguyên (nay là huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc). Quân Mông Cổ tỏ ra chiếm ưu thế, quân Trần khi gặp bất lợi đã chủ động rút lui về Phù Lỗ để bảo toàn lực lượng chứ không dốc sức đánh tới cùng, quân Mông Cổ đã không thành công trong việc tiêu diệt quân chủ lực Đại Việt và bắt các vua Trần. Trận tiếp theo diễn ra tại Phù Lỗ (bên sông Cà Lồ). Quân Đại Việt lại bị đánh bại. Tuy nhiên, Nhà Trần đã dự tính trước điều này và đã chủ động sơ tán người dân và của cải ra khỏi kinh đô từ trước. Quân Mông Cổ dù chiếm được Thăng Long, nhưng Nhà Trần đã thực hiện "vườn không nhà trống", đem đi hết lương thực trong thành khiến quân Mông Cổ gặp phải khó khăn về lương thực. Chỉ 10 ngày sau khi rút khỏi Thăng Long, Vua Trần và Thái tử lại dẫn quân phản công, đánh thắng quân Mông Cổ trong trận Đông Bộ Đầu (nay là quận Ba Đình, Hà Nội). Quân Mông Cổ lập tức bỏ thành Thăng Long rút lui về nước, cũng bằng con đường dọc theo sông Hồng. Trên đường rút lui, quân Mông Cổ đã bị lực lượng các dân tộc thiểu số miền núi Tây Bắc do Hà Bổng chỉ huy tập kích. Toàn bộ cuộc chiến lần thứ nhất chỉ diễn ra trong vòng khoảng nửa tháng, với chỉ khoảng 3-4 trận đánh lớn. Quân Mông Cổ bị thiệt hại nặng, mất từ quá nửa cho tới khoảng 4/5 quân số. Theo Nguyên sử, khi tiến vào đất Tống, đoàn quân Mông Cổ chỉ còn lại 3.000 kị binh Mông Cổ và 1 vạn quân Đại Lý[3]. Sau thất bại tại Đại Việt, quân Mông Cổ phải tìm đường khác để tấn công Tống từ phía nam. Lần thứ hai Bài chi tiết: Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần 2 Bản đồ mô tả cuộc kháng chiến lần thứ 2 chống quân Nguyên Hai mươi bảy năm sau, Hoàng đế Nhà Nguyên là Hốt Tất Liệt ra lệnh xâm lăng nước Đại Việt. Cuộc chiến lần này kéo dài khoảng 2 – 6 tháng từ cuối tháng 12 năm Giáp Thân đến cuối tháng 4 năm Ất Dậu (cuối tháng 1 đến cuối tháng 5 năm 1285 dương lịch). Lần này, quân Nguyên chuẩn bị chiến tranh tốt hơn, huy động lực lượng lớn hơn rất nhiều, tới hàng chục vạn quân. Ngoài lục quân từ phía Bắc tiến xuống, còn có thủy quân từ mặt trận Chiêm Thành ở phía Nam đánh bổ trợ. Cũng tương tự như lần thứ nhất, quân Nguyên chiếm ưu thế trong giai đoạn đầu. Với ưu thế quân số, quân Nguyên liên tục đánh bại quân Đại Việt ở các mặt trận Lạng Sơn, Sơn Động, Vạn Kiếp, Thu Vật (Yên Bình), sông Đuống. Từ phía bắc, chỉ khoảng 20 ngày sau khi vượt qua biên giới, quân Nguyên đã chiếm được thành Thăng Long. Triều đình Nhà Trần rút lui theo sông Hồng về Thiên Trường (Nam Định) và Trường Yên (Ninh Bình), chịu sự truy kích ráo riết của quân Nguyên. Mọi nỗ lực phản kích của các vua Trần dọc theo sông Hồng đều bị quân Nguyên đánh bại. Từ phía Nam, Toa Đô dẫn quân từ Chiêm Thành lên dễ dàng đánh tan quân Đại Việt tại vùng Nghệ An – Thanh Hóa. Bị ép cả trước lẫn sau, các vua Trần phải rút ra biển lên vùng Quảng Ninh, đợi đến khi cánh quân Nguyên phía nam đi qua Thanh Hóa mới lui về Thanh Hóa. Cũng giống như lần trước, quân Nguyên lại gặp khó khăn về cung ứng lương thực, lần này còn có phần nghiêm trọng hơn vì số quân Nguyên đông hơn nhiều so với lần trước. Nhà Trần thực hiện tiêu thổ kháng chiến khiến quân Nguyên không thể lấy được lương thực từ dân bản địa. Trong khi đó, quân Đại Việt đã nhanh chóng chấn chỉnh đội ngũ và chờ đợi đối phương mệt mỏi, suy giảm nhuệ khí. Khoảng gần 2 tháng sau khi rút về Thanh Hóa, Đại Việt phản công. Dọc theo sông Hồng, quân Đại Việt lần lượt giành thắng lợi tại cửa Hàm Tử (nay thuộc huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên), bến Chương Dương ( huyện Thượng Phúc, nay thuộc huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội), giải phóng Thăng Long. Cánh quân phía bắc của quân Nguyên trên đường rút chạy đã bị tập kích tại sông Cầu, tại Vạn Kiếp, Vĩnh Bình. Cánh quân rút về Vân Nam bị tập kích tại Phù Ninh. Cánh quân phía Nam bị tiêu diệt hoàn toàn tại Tây Kết (Khoái Châu). Lần thứ ba Bài chi tiết: Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần 3 Bản đồ mô tả cuộc kháng chiến lần thứ 3 chống quân Nguyên Ngay sau khi bại trận về nước năm 1285, quân Nguyên chỉnh đốn quân ngũ, bổ sung lực lượng để phục thù. Rút kinh nghiệm từ thất bại trước, quân Nguyên cho đóng nhiều tàu chở lương thực theo đường biển để trở lại đánh Đại Việt lần thứ ba. Cuộc chiến lần này kéo dài khoảng gần 4 tháng, từ cuối tháng 12 năm 1287 đến cuối tháng 4 năm 1288. Quân Nguyên chia làm 3 cánh vào Đại Việt từ Vân Nam, từ Quảng Tây và từ Quảng Đông theo đường biển vào Đại Việt. Giống như 2 lần trước, quân Nguyên đánh bại quân Đại Việt trong một số trận đánh ở trên bộ lẫn trên biển, nhưng lại chịu một tổn thất quan trọng, đó là lương thực chuyên chở bằng tàu biển đã bị mất hết do bão biển, đi lạc và sau đó bị các đơn vị của Trần Khánh Dư tiêu diệt ở Vân Đồn. Quân Nguyên tập trung ở Vạn Kiếp và đánh rộng ra xung quanh, chiếm được Thăng Long, nhưng lại trúng kế giống như hai lần trước. Khác với 2 lần trước, lần này quân Đại Việt không huy động lực lượng lớn chặn đánh quân Nguyên từ đầu, mà chỉ đánh có tính kìm chân. Bộ chỉ huy và phần lớn lực lượng Đại Việt rút về vùng Đồ Sơn, Hải Phòng, từ đó tổ chức các cuộc tấn công vào căn cứ Vạn Kiếp và đánh thủy quân của quân Nguyên. Vì thiếu lương thực và có nguy cơ bị đối phương chia cắt, quân Nguyên bỏ Thăng Long rút về Vạn Kiếp, rồi chủ động rút lui dù quân Đại Việt chưa phản công lớn. Cánh thủy quân của Nguyên đã bị tiêu diệt hoàn toàn tại sông Bạch Đằng khi định rút ra biển. Các cánh bộ binh quân Nguyên khi đi qua Bắc Giang và Lạng Sơn đã bị quân Đại Việt phục kích, tấn công dữ dội. Chấm dứt chiến tranh Sau thất bại lần thứ ba năm 1288 ở Đại Việt, Nguyên Thế Tổ – Hốt Tất Liệt vẫn chưa muốn đình chiến. Sau 3 lần thất trận, nhà Nguyên vẫn tiếp tục lập ra kế hoạch xâm chiếm lần thứ 4. Sang các năm sau, vua Nguyên tiếp tục muốn điều binh sang nhưng chưa gặp thời cơ thuận tiện. Có năm sắp tiến quân thì chánh tướng chết nên hoãn binh, năm sau định đánh thì phó tướng lại chết nên lại đình chỉ việc tiến quân. Tới năm 1294 lại định điều binh lần nữa thì chính Hốt Tất Liệt chết. Cháu nội là Nguyên Thành Tông lên ngôi không muốn gây chiến với Đại Việt nữa. Việc chiến tranh với nhà Nguyên từ đó mới chấm dứt. Đế quốc Mông Cổ lúc này đã quá rộng lớn nên lại phát sinh nguy cơ phân liệt: cuộc chiến giữa những đội quân Mông Cổ với nhau (nhà Nguyên với Hãn quốc Sát Hợp Đài) đã góp phần làm suy yếu bớt lực lượng, gián đoạn kế hoạch xâm lược lần thứ 4 của Nguyên Mông. Ngoài ra, việc nhà Nguyên liên tục xuất chinh đã vắt kiệt sức cung ứng của người dân, khiến phát sinh nổi loạn. Sự đấu tranh của nhân dân miền Nam Trung Quốc chống lại sự cai trị hà khắc của triều đình nhà Nguyên dẫn tới hàng loạt các cuộc khởi nghĩa ở đây, khiến nhà Nguyên tốn không ít lực lượng, tiền của để đàn áp, cũng khiến kế hoạch xâm chiếm Đại Việt lần thứ 4 phải hủy bỏ.
giúp mk giải bai này nha :
Em hãy hình dung tưởng tượng và kể lại chiến công Thạch Sanh đánh thắng 18 nước chư hầu.
mk cần ngay ai giúp mk kể bài này mk tick cho
Thich thì kết bn nha
khi thạch sanh đã lấy được công chúa , thì hoàng tử của 18 nước chư hầu trước khi bị công chúa từ hôn lấy làm tức giận .họ hội tụ binh lính sang đánh nước ta . lúc đó , thạch sanh không nôn nóng , sợ hãi mà tỏ ra bình tĩnh , xin nhà vua đừng động binh .Chàng nói :dù thắng hay thua đều phải chịu hậu quả của chiến tranh gây ra và chàng muốn nước ta luôn hòa bình , hòa thuận với các nước láng giềng thà rằng dùng sức mạnh chính nghĩa để cảm hóa quân thù thì hơn .
khi quân thù đã vào bờ cõi nước ta , chàng một mình cầm cây đàn thần đứng trước quân thù . tiếng đàn của chàng như nói lên sự chính nghĩa sẽ luôn luôn chiến thắng cái ác . quân thù nghe những tiếng đàn này đều bủn rủn chân tay , không còn nghĩ đến chuyện đánh nhau nữa . cuối cùng cái ác đã thua cái chính nghĩa , các hoàng tử cứ 18 nước cởi áo giáp xin đầu hàng . thạch sanh không muốn nước ta mất đi sự hiếu khách , chàng bèn sai dọn một bữa cơm thiết đãi những kẻ thua trận . khi thạch sanh cho dọn ra chỉ vỏn vẹn một niêu cơm tí xíu . cả các hoàng tử và quân lính đều không biết là niêu cơm thần, họ bĩu môi tỏ ra không muốn ăn, không muốn cầm đũa .biết ý , thạch sanh do họ ăn hết , ai ăn hết sẽ trọng thưởng .quân sĩ của 18 nước ăn mãi , ai mãi . niêu cơm cứ hết rồi lại đầy như lời răn đe chung là : sức mạnh , sự đoàn kết không bao giờ vơi cạn của nhân dân ta . từ đó đừng bao giờ dám sang xâm lược nước ta nước . chúng cảm thấy có lỗi , cúi đầu lạy tạ ơn tha mạng của thạch sanh rồi chúng rủ nhau quay đầu về nước .
ve sau , vua không có con trai đã nhường ngôi cho thạch sanh . từ đó , nước ta hòa bình , ấm no , hạnh phúc
CÂU HỎI SOẠN BÀI “CHIẾN THẮNG MTAO M XÂY”
(Đăm Săn – Sử thi Tây Nguyên)
2.Câu 2. Đọc đoạn trích trong SGK.
Tóm tắt diễn biến trận đánh để so sánh tài năng và phẩm chất của hai tù trưởng theo gợi ý sau:
a/ Ai khiêu chiến trước ? Nguyên nhân ?
b/ Cuộc chiến đấu diễn ra trong mấy hiệp ? Trong mỗi hiệp ai múa khiên trước ? Kết quả như thế nào ? (có thể kẻ bảng theo gợi ý sau
c/Nhận xét kết quả chung cuộc. Đăm Săn tiêu biểu cho ai? Mtao M xây tiêu biểu cho ai?
giúp em vs ah cần gấp
Tham khảo:
Đăm Săn khiêu chiến. Mtao Mxây ban đầu ngạo nghễ, sau đó lại tỏ ra hèn nhát, sợ bị Đăm Săn đâm khi đang đi xuống. Đăm Săn khẳng định không bao giờ làm việc xấu xa đó, Mtao Mxây mới dám đi xuống.
Hiệp đấu thứ nhất: Hai bên lần lượt múa khiên. Mtao Mxây múa trước: tỏ ra yếu ớt và kém cỏi. Đam Săn múa khiên: tỏ ra mạnh mẽ, tài giỏi hơn,vẫn giữ thái độ bình tĩnh, thản nhiên. Kết quả hiệp đấu: Mtao Mxây chạy khắp nơi để tránh đường khiên Đam Săn múa. Chàng đâm trúng Mtao Mxây nhưng không thủng.Hiệp đấu thứ hai: Được trời mách bảo, Đăm Săn nén cái chày mòn trúng tai Mtao Mxây. Đam Săn múa khiên: sức mạnh như gió bão. Cây giáo đâm liên tiếp Mtao Mxây nhưng không thủng. Kết quả: Mtao Mxây van nài Đăm Săn để được sống. Đăm Săn không tha thứ cho những tội ác hắn đã gây ra, đã cắt đầu hắn đem bêu ngoài đường. Dân làng Mtao Mxây nhất loạt theo Đam Săn về ngôi làng mới.câu 1: vua quang trung đại phá quân thanh như thế nào?
câu 2: vì sao vua quang trung quyết định tiêu diệt quân thanh vào tết kỉ dậu
câu 3: nơi Nguyễn Huệ đã chọn làm trận địa đánh quân xâm lược xiêm là?
câu 4: trong 5 ngày đêm , Quang Trung đã quét sạch.... quân thanh
câu 5: vua Quang Trung dùng chữ gì để làm chữ viết chính thức cho đất nước?
câu 6: để khôi phục nền kinh tế, nông nghiệp vua Quang Trung đã ban hành...?
tham khảo-1-
Để chuẩn bị cho cuộc đại phá quân Thanh, vua Quang Trung đã:
- Tháng 12-1788, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung, lập tức tiến công ra Bắc.
- Quang Trung mở cuộc hành quân thần tốc, vừa đi vừa tuyển thêm quân ở Nghệ An, Thanh Hóa.
- Mở cuộc duyệt binh lớn ở Vĩnh Doanh (Vinh, Nghệ An) và làm lễ tuyên thệ.
- Mở tiệc khao quân trước Tết để động viên tinh thần binh sĩ. => Lên kế hoạch tấn công quân Thanh vào đúng Tết Nguyên Đán, làm cho địch bất ngờ không kịp trở tay.
tham khảo-2-Quang Trung quyết định tiêu diệt quân Thanh vào dịp Tết Kỉ Dậu nhằm tạo yếu tố bất ngờ, làm cho quân giặc không kịp trở tay, nhanh chóng thất bại.
tham khảo-3-
Cuối cùng, ông quyết định chọn khúc sông Mỹ Tho từ Rạch Gầm đến Xoài Mút, cách Mỹ Tho khoảng 12 km, làm trận địa quyết chiến. Đoạn sông này được Nguyễn Huệ dựa trên nhiều tính toán. Nó dài khoảng 7 km, lòng sông rộng, đủ để dồn hàng trăm chiến thuyền quân Xiêm.Thời gian: 19 tháng 1 năm 1785 - 20 tháng 1 n...Địa điểm: Rạch Gầm - Xoài Mút, dinh Trấn Định, ...trình bày y nghĩa chiến thắng chi lăng ?
Chính sách của quang trung về đối ngoại
TK1-
Ý nghĩa của chiến thắng Chi Lăng là gì? Sự chiến đấu anh dũng, mưu trí đánh giặc của quân ta dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi. Đồng thời địa thế hiểm trở của cửa ải Chi Lăng có lợi cho ta đã mang đến kết quả tốt đẹp của chiến thắng chi lăng.Tham khảo:
- Sự chiến đấu anh dũng, mưu trí đánh giặc của quân ta dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi. Đồng thời địa thế hiểm trở của cửa ải Chi Lăng có lợi cho ta đã mang đến kết quả tốt đẹp của chiến thắng chi lăng.
- Đối với nhà Thanh: mềm dẻo nhưng kiên quyết bảo vệ từng tấc đất của Tổ quốc.
- Phía Nam: Nguyễn Ánh tìm cách đánh ra Quy Nhơn; Quang Trung quyết định mở cuộc tấn công lớn, tiêu diệt hoàn toàn lực lượng Nguyễn Ánh ở Gia Định. Kế hoạch đang tiến hành thì Quang Trung đột ngột từ trần (16/9/1792). Quang Toản lên kế nghiệp, nhưng từ đó nội bộ triều đình Phú Xuân suy yếu dần.
Tham khảo
- Sự chiến đấu anh dũng, mưu trí đánh giặc của quân ta dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi. Đồng thời địa thế hiểm trở của cửa ải Chi Lăng có lợi cho ta đã mang đến kết quả tốt đẹp của chiến thắng chi lăng.
- Đối với nhà Thanh: mềm dẻo nhưng kiên quyết bảo vệ từng tấc đất của Tổ quốc.
- Phía Nam: Nguyễn Ánh tìm cách đánh ra Quy Nhơn; Quang Trung quyết định mở cuộc tấn công lớn, tiêu diệt hoàn toàn lực lượng Nguyễn Ánh ở Gia Định. Kế hoạch đang tiến hành thì Quang Trung đột ngột từ trần (16/9/1792). Quang Toản lên kế nghiệp, nhưng từ đó nội bộ triều đình Phú Xuân suy yếu dần.