Phân tích đêm mùa đông mị cởi trói cho a phủ
Phân tích diễn biến tâm lí và hành động của mị trong đêm cởi trói a phủ ( vợ chồng a phủ Tô Hoài ) từ đó rút ra giá trị nhân đạo của tác phẩm
Vợ Chồng A Phủ
Cho đoạn trích "Lúc ấy đã khuya. Trong nhà đã ngủ yên, thì Mị .... làm sao Mị cũng không thấy sợ....". Phân tích Mị trong đêm tình mùa đông.
Tìm hiểu số phận và tính cách nhân vật Mị qua:
- Cảnh ngộ bị bắt về làm dâu gạt nợ, cuộc sống bị đày đọa tủi cưucsj ở nhà thống lí Pá Tra.
- Diễn biến tâm trạng và hành động.
(Chú ý phân tích diễ biến tâm trạng Mị trong đêm mùa xuân về, ký ức tuổi thanh xuân và niềm khao khát sống trở lại, những đêm cô đơn dậy sớm sưởi lửa, khi chứng kiến cảnh APhủ bị trói đứng, hành động cắt dây cởi trói cứu A Phủ và cùng trốn khỏi Hồng Ngài...
a) Nêu tóm tắt số phận Mị và A Phủ
b) Giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện trên các khía cạnh:
- Sự cảm thông sâu sắc của tác giả đối với những cảnh ngộ của người dân miền núi cao Tây Bắc.
- Phát hiện sức sống tiềm tàng, khát vọng tự do và hạnh phúc trong những con người nô lệ như Mị.
- Ca ngợi tình cảm đồng loại, tình cảm giai cấp trong những con người bị áp bức.
- Giúp nhân vật tìm đường đến với cách mạng và kháng chiến.
Phân tích diễn biến tâm lý và hành động của Mỵ trong đêm cởi trói cho A phủ ( Vợ chồng A phủ - Tô Hoài ). Từ đó rút ra giá trị nhân đạo của tác phẩm.
1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm và nhân vật Mỵ, đặc biệt nhấn mạnh nghệ thuật miêu tả tâm lý của Tô Hoài => Đi vào phân tích tâm lý của Mỵ trong đêm cởi trói cho A Phủ.
2. Giới thiệu về A Phủ và sự việc A Phủ bị trói.
- A Phủ là một người nông dân nghèo, vì tội đánh con quan nên bị bắt về làm nô lệ nhà thống lý.
- A Phủ chăn bò và để hổ ăn thịt mất một con bò nên bị thống lý bắt trói đứng vào cột mấy ngày liền.
3. Giới thiệu nỗi cô đơn, tủi nhục của Mỵ:
- Cô đơn: Làm bạn với ngọn lửa.
- Tủi nhục: Nhiều lần bị A Sử đánh khi ngồi sưởi ấm.
- A Phủ bị trói gần nơi bếp lửa của Mỵ.
4. Tâm trạng ban đầu của Mỵ trước việc A Phủ bị trói
- Mỵ vẫn thản nhiên . Dẫu A Phủ là cái xác chất đứng đấy cũng thế thôi -> Có lẽ vì cảnh trói người ở nhà thống lý diễn ra thường xuyên. Mỵ không buồn bận tâm.
5. Tâm trạng khi nhìn thấy một dòng nước mắt bò xuống má A Phủ:
- Mỵ nhớ lại quá khứ, việc mình cũng bị trói => Đồng cảnh => đồng cảm sâu sắc.
- Mỵ nghĩ nhiều đến cái chết:
+ Có một người đàn bà từng bị trói đến chết.
+ Người kia nay mai phải chết.
+ Ta là thân đàn bà ... đợi ngày rũ xương ở đây thôi.
+ Biết đâu A Phủ trốn thoát, Mỵ bị trói thay đến chết
=> Cái chết trở thành nỗi ám ảnh và vì thế Mỵ rơi vào trạng thái sợ hãi.
6. Đằng nào Mỵ cũng chết và lập tức sau đó Mỵ lựa chọn cái chết có nghĩa, chết vì tình thương ( chứ không phải chết vì con ma nhà thống lý, càng không phải chết oan, chết bị trói thay). Điều này khiến Mỵ quyết định cởi trói cho A Phủ.
7. Hành động cởi trói:
- Mỵ lấy dao cắt lúa cắt nút dây mây.
=> Tình thương chiến thắng nỗi sợ hãi.
=> Hành động này mang ý nghĩa là sự giải thoát cho đồng loại
8. Hành động chạy theo A Phủ:
=> Mang ý nghĩa là sự tự giải thoát, thể hiện khát vọng sống mạnh mẽ của Mỵ.
9. Đánh giá chung:
- Thông qua diễn biến tâm lý và hành động của Mỵ trong đêm cởi trói cho A Phủ tác giả phát hiện ra sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của Mỵ.Điều này góp phần thể hiện sâu sắc giá trị nhân đạo của tác phẩm.
+ Lên án chính sách cai trị đọc ác, dã man của bọ địa chủ vùng rừng núi Tây Bắc.
+ Cảm thông và chia sẽ trước đời sống tủi nhục của người nô lệ.
+ Đề cao những phẩm chất và khát vọng của người nông dân - nô lệ và vạch ra con đường đấu tranh tự giải phóng đến với cách mạng của họ.
Vợ Chồng A Phủ
Cho đoạn trích "Bây giờ Mị cũng .... Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi". Phân tích Mị trong đêm tình mùa xuân.
Tác nhân nào đã đánh thức lòng yêu thương của Mị, dẫn đến hành động cắt dây trói cứa A Phủ trong đêm tình mùa xuân?
A. Cảnh A Phủ bị trói đứng
B. Giọt nước mắt của A Phủ
C. Cả hai đáp án trên đều đúng
D. Cả hai đáp án trên đều sai
Khi "Mị lé mắt trông sang... một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại", giọt nước mắt tuyệt vọng của A Phủ đã giúp Mị nhớ lại mình, nhận ra mình, xót xa cho mình và thương người đồng cảnh. Lòng thương người trắc ẩn và tình giai cấp đã khiến Mị có hành động mạnh bạo: cắt dây cởi trói cứu A Phủ.
Đáp án cần chọn là: B
1) Sơ đồ tư duy: hành động Mị cởi trói cho A Phủ
2) Viết bài văn phân tích nội dung hành động Mị cởi trói cho A Phủ.
Bàn về kết thúc đoạn trích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, có ý kiến cho rằng: hành động cắt nút dây mây cởi trói cứu A Phủ rồi chạy theo A Phủ của nhân vật Mị thật bất ngờ, đột ngột, không thể dự đoán trước; lại có người khẳng định: Đó là một kết thúc tự nhiên, tất yếu.
Bằng hiểu biết về tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, anh chị hãy bình luận các ý kiến trên.
Giải thích ý kiến
- Ý kiến thứ nhất: hành động cắt nút dây mây cởi trói cứu A Phủ rồi chạy theo A Phủ của nhân vật Mị thật bất ngờ, đột ngột, không thể dự đoán trước: Đánh giá kết thúc của truyện Vợ chồng A Phủ là bất ngờ với mạch truyện, tâm trạng nhân vật Mị và cả người đọc.
- Ý kiến thứ hai: Đó là là một kết thúc tự nhiên, tất yếu: ý kiến này nhìn nhận, đánh giá kết thúc của tác phẩm trong mối quan hệ với lô gíc diễn biến tâm trạng nhân vật Mị và mạch vận động tất yếu của đời sống con người: khi bị dồn đẩy đến bước đường cùng, con người sẽ vùng lên tìm ánh sáng cho mình.
Phân tích, chứng minh:
- hành động cắt nút dây mây cởi trói cứu A Phủ rồi chạy theo A Phủ của nhân vật Mị thật bất ngờ, đột ngột, không thể dự đoán trước: trong tác phẩm, Mị và A Phủ cùng là nô lệ trong nhà thống lí Pá Tra, song họ không có quan hệ tình cảm gì cụ thể, thậm chí là Mị đã gần như tê liệt hoàn toàn về ý thức, chỉ còn như con trâu, con ngựa. Trong hoàn cảnh A Phủ bị trói đứng đến gần chết, Mị vẫn thờ ơ đến mức như vô cảm trước nỗi khổ của A Phủ. Không ai có thể ngờ rằng, người con dâu bất hạnh và câm lặng ấy lại đột ngột cắt nút dây mây cởi trói cho A Phủ rồi chạy trốn theo anh. Đây là hành động hoàn toàn không hề có sự chuẩn bị, tính toán từ trước.
- Đó là là một kết thúc tự nhiên, tất yếu: Đặt trong sự phát triển tính cách của hình tượng Mị thì đây lại là một hành động tự nhiên, tất yếu. Bởi lẽ, Mị là cô gái ham sống, yêu đời, yêu tự do, khát khao hạnh phúc. Sức sống tiềm tàng mãnh liệt ở Mị dù có bị vùi dập đến kiệt cùng vẫn không lụi tắt. Đêm tình mùa xuân là minh chứng rõ nét cho sức sống ấy. Mặt khác, Mị vốn là cô gái giàu tình thương, vị tha, biết nghĩ, biết hi sinh cho người khác. Hành động của Mị là kết quả tất yếu của sự bóc lột, đàn áp tàn nhẫn của cha con thống lí nói riêng, tầng lớp phong kiến miền núi cao Tây Bắc nói chung đối với những người lao động nghèo. Hành động ấy chứng tỏ sức phản kháng mãnh liệt, khả năng hướng về cách mạng một cách tự nhiên của người dân Tây Bắc.
Bình luận, đánh giá chung:
Cả hai ý kiến đều đúng, không đối lập mà bổ sung cho nhau, giúp người đọc hiểu rõ hơn về tài năng kể chuyện, miêu tả nội tâm nhân vật của nhà văn Tô Hoài. Đồng thời, ta càng trân trọng hơn .tấm lòng yêu thương, đồng cảm của tác giả đối với người dân nơi đây.
Phân tích nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
Tham khảo:
Tô Hoài là cây bút đầy sức sáng tạo của nền văn học Việt Nam với phong cách viết gần gũi với đời sống của con người. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” in trong tập “Tây Bắc” là câu chuyện giàu giá trị nhân văn khẳng định sức sống phi thường của con người khi bị áp bức, bóc lột. Đặc biệt, Tô Hoài đã khắc họa thành công nhân vật Mị có sức ám ảnh đối với người đọc.
Tô Hoài đã dẫn dụ người đọc vào câu chuyện bằng một lời giới thiệu nhẹ nhàng nhưng đầy ý vị “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lý Pá Tra thường thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Tô Hoài đã rất khéo léo khi gợi tả hình ảnh của Mị qua những cử chỉ và nét mặt đặc trưng đó. Một sự đối lập đến đau lòng giữa căn nhà rộng lớn của thống lý và sự lầm lũi, côi cút của người con gái bí hiểm đó. Một cô gái chịu sự dày vò về tinh thần, nhưng dường như lại có sức mạnh, nghị lực phi thường đang được nhen nhóm trong lòng của Mị.
Mị vốn là cô gái xinh đẹp, nết na, được nhiều trai làng theo đuổi. Những tưởng rằng cuộc sống của Mị sẽ sung sướng, hạnh phúc nhưng vì món nợ mà mẹ Mị với nhà thống lí đã khiến cho cuộc đời cô rơi vào bế tắc và tuyệt vọng như bây giờ. Thương cha, thương cho thân phận hẩm hiu của mình mà Mị đành lặng lẽ về làm dâu nhà thống Lý trong tủi nhục và đau khổ.
Tô Hoài đã diễn tả cuộc sống như chết rồi của Mị tại nhà thống Lý, một cuộc sống cơ cực, không khác gì thân trâu ngựa. Phận là con dâu nhưng Mị lại bị đối xử không khác gì nô lệ, thậm chí thân trâu ngựa còn có lúc được nghỉ ngơi “con trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái ở nhà này vùi đầu vào công việc cả ngày lẫn đêm”. Bị đày đọa về thể xác và tinh thần khiến cho Mị ngày càng rơi vào cảnh bế tắc, tuyệt vọng.
Bằng sự quan sát tỉ mỉ và nhạy cảm, Tô Hoài đã khắc họa trạng thái lầm lũi, một kẻ sống lặng câm y hệt “một con rùa trong xó cửa, căn phòng chỉ có một lỗ sáng to bằng bàn tay”. Căn phòng đó giống như địa ngục trần gian, giam giữ cuộc đời Mị, khiến cho cuộc đời một người con gái đang tuổi thanh xuân phải chôn vùi nơi đây. Thống lí Pá Tra là hiện thân của xã hội phong kiến nhiều hà khắc, hủ tục, đẩy con người vào bước đường cùng không thương tiếc. Những người nông dân thấp cổ bé họng không biết kêu than ai, chỉ biết chấp nhận và chịu đựng.
Đã có lúc Mị muốn tìm đến cái chết để giải thoát bản thân mình nhưng nghĩ đến cảnh người cha già, thương cha nên cô đành chấp nhận cuộc sống hiện thực. Niềm khát khao sống, khát khao yêu trong con người Mị dường như đã không còn. Mị chấp nhận sống, chấp nhận sự tồn tại như đã chết. Bên trong Mị vẫn còn tiềm ẩn sức sống rất mãnh liệt, chỉ chờ thời cơ thì sức sống sẽ bùng nổ.
Tô Hoài đã khắc họa bức tranh mùa xuân tươi đẹp của Hồng Ngài khiến cho chính người đọc cũng cảm thấy thích thú. Nó dường như là đòn bẩy để khơi gợi lên niềm tin và nghị lực trong cuộc sống. Mị đã lén uống rượu, trong cơn say, Mị đã ý thức được bản thân mình muốn gì “Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng ngày tết vẫn đi chơi. Huống chi Mị và A Sử, không có lòng với nhau mà vẫn ở với nhau”. Lúc ấy Mị đã ý thức được những khát khao trong lòng mình cháy bỏng như thế nào và tiếng sáo ngoài kia là một trong những động lực khơi gợi lại những kỉ niệm êm đẹp một thời Mị từng có.
Nhưng chính hành động này của Mị đã khiến cho A Sử biết được, hắn trói Mị vào cột và bỏ đó đi chơi. Mị vẫn đang lâng lâng trong hơi men rượu, và ký ức của cô lại ùa về dữ dội. Tuy nhiên thực tại đã kéo Mị lại với những gì mà Mị đang đối mặt: đau đớn và tủi nhục, khắp mình mẩy đau nhức.
Tuy nhiên có thể nói cảnh tượng Mị cởi trói cho A Phủ mới là cảnh tượng khắc họa cực kỳ sắc nét và chân thực tâm trạng, khát khao của Mị. Mị đã vùng lên đấu tranh, vùng lên đòi hạnh phúc của chính mình. Giọt nước mắt của A Phủ đêm hôm ấy đã đánh thức tình cảm, sự bùng cháy trong trái tim của Mị: “Đêm ấy A Phủ khóc, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xạm đen”. Giọt nước mắt ấy đã khiến thay đổi cuộc đời Mị về sau.
Chi tiết Mị cởi trói cho A Phủ và quyết định chạy trốn theo A Phủ là một sự bùng nổ về tinh thần. Sự đè nén bấy lâu nay trong lòng Mị đã được bứt phá và giải tỏa ra. Mị đã có thể tự lựa chọn con đường đi cho chính mình, Mị tự đấu tranh, Mị không thể mãi chịu cảnh bị người ta hành hạ, đè nén. Đây chính là sự bứt phá trong con người của Mị. Đây cũng chính là sự thành công của Tô Hoài khi khắc họa hình tượng nhân vật này.
“Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài là tác phẩm có giá trị nhân văn sâu sắc. Đặc biệt hình tượng nhân vật Mị để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc nhất.
Tô Hoài là nhà văn hiện thực nổi tiếng từ trước cách mạng tháng Tám. Ông là một người có vốn hiểu biết phong phú về phong tục tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta. “Vợ chồng A Phủ” là một trong ba tác phẩm được in trong tập truyện Tây Bắc – tác phẩm được giải Nhất giải thưởng hội Văn nghệ Việt Nam từ 1954 – 1955. Đó là kết quả của chuyến đi cùng bộ đội vào Tây Bắc năm 1952. Trong truyện ngắn này, có ý kiến cho rằng: "Qua việc miêu tả cuộc đời, số phận của Mị, nhà văn đã làm sống lại quãng đời tăm tối, cơ cực của người dân miền núi dưới ách thống trị dã man của bọn chúa đất phong kiến, đồng thời khẳng định sức sống tiềm tàng, mãnh liệt không gì huỷ diệt được của kiếp nô lệ. Đó chính là giá trị hiện thực sâu sắc, giá trị nhân đạo lớn lao, tiến bộ của tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Điều này được thể hiện rõ nét qua hai đoạn văn sau "Lần lần..." và "Bây giờ,..."
Mị vốn là một cô gái vùng cao trẻ trung, xinh đẹp và tài hoa nhưng vì món nợ truyền kiếp, Mị bị bắt về làm dâu gạt nợ cho nhà Thống Lí Pá Tra. Vì vậy, Mị phải từ bỏ tuổi thanh xuân, phải sống một cuộc sống bị đọa đày về cả thể xác và tinh thần. Mị đã từng muốn tìm đến cái chết với nắm lá ngón trong tay nhưng Mị không thể chết. Nếu Mị chết, cha Mị sẽ khổ, sẽ không thể trả được món nợ cho nhà Thống Lí. Mị đành chấp nhận quay trở lại nhà Thống Lí để làm con dâu gạt nợ, sống kiếp đời nô lệ, tủi nhục, bất hạnh.
Đoạn văn đã tập trung khắc họa nỗi thống khổ đọa đầy về thể xác lẫn tinh thần của Mị ở nhà thống lí. Trước hết là những đọa đầy về tinh thần. Những đau khổ đã bao mòn tâm hồn của Mị, cô trở thành người đàn bà nhẫn nhục, chịu đựng, buông xuôi, bỏ mặc cuộc đời “Lần lần…tự tử nữa”. Mị không còn khả năng đấu tranh nữa, với Mị, cuộc sống chỉ còn là sự tồn tại. Mị định sống cuộc sống như vậy cho đến chết. Mới đầu, làm dâu nhà thống lí, Mị không khuất phục, Mị cũng đã từng nuôi ý định tự vẫn. Còn giờ đây, Mị không buồn nghĩ đến cái chết nữa. Đây là một tình tiết khám phá xuất sắc về nội tâm nhân vật của tác giả. Bởi vì khi con người nghĩ về cái chết, tức là họ còn tha thiết được sống, được tận hưởng cuộc sống tốt đẹp hơn. Nhưng khi không còn buồn nghĩ đến nó nữa thì đây là sự buông thả số phận cho định mệnh mà không còn ý niệm về sự tồn tại của mình. Hơn thế nữa, Mị còn tưởng mình là con trâu con ngựa. Hai từ “trâu ngựa” không phải chỉ là nói theo nghĩa bóng, mà là theo nghĩa đen. Mị về làm dâu chỉ có vùi vào việc cả đêm lẫn ngày. Như một linh hồn chết, “Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa”. Dần dần, Mị sống như thế cũng thành quen với cái khổ, cái nhục, thích nghi với đời sống nô lệ. Mị sống như cái máy, như một thực thể không ý thức về mình. Với cô, cuộc sống không còn ý nghĩa nữa, tất cả chỉ còn là màn sương mờ đục. Cụm từ chỉ thời gian “lần lần”, “mấy năm qua”, “mấy năm sau” đã nhấn mạnh trình tự luân hồi của thời gian chậm rãi, đều đặn. Lý giải cho thái độ này của cô là “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Chữ “quen” mang đến cho người đọc biết bao chua xót, đắng cay, thương cảm. Thậm chí, Mị chỉ nhớ đi nhớ lại, làm đi làm lại những việc nối tiếp nhau. Nói là Mị nhớ nhưng không phải là những rung cảm, cảm xúc bình thường ở một con người bình thường. Mị chỉ nhớ một cách máy móc những gì diễn ra theo một thói quen với sự lặp lại quẩn quanh. Mị nhớ một cách vô hồn vô cảm tựa như một vòng tròn tù túng không lối thoát.
Hơn thế nữa, Mị còn bị đày đọa về thể xác. Cô phải làm việc quần quật từ sáng đến tối, quanh năm suốt tháng, không một ngày nghỉ ngơi “Tết xong thì lên…”. Mị làm việc quần quật suốt ngày suốt tháng suốt năm suốt đời như thế. Dù làm dâu nhà giàu nhưng đó chỉ là danh nghĩa chứ thực chất Mị là một nô lệ, lao động khổ sai. Mị như bị cướp đoạt công sức một cách tàn nhẫn: con ngựa con trâu có lúc, đêm đến nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ còn đàn bà con gái trong nhà này thì vùi vào làm việc. Cuộc sống của Mị giờ đây chỉ “mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng đi làm đi làm lại” cực khổ và vất vả, thậm chí còn chẳng bằng con trâu con ngựa. Con trâu con ngựa còn được nghỉ ngơi, đằng này đàn bà con gái phải làm việc cả đêm lẫn ngày. Việc so sánh con người với con vật của tác giả đã thể hiện sự tủi cực cùng nỗi đau của một kiếp người. Với đoạn văn trên (chi tiết “Mị không muốn chết”) là bằng chứng để tố cáo tội ác của giai cấp thống trị miền núi đã bào mòn tâm hồn con người.
Với ngòi bút hiện thực, lối kể chuyện nhẹ nhàng mà tinh tế, hấp dẫn, Tô Hoài đã khắc họa nổi bật bi kịch đau khổ, bất hạnh của Mị. Đây cũng là số phận tiêu biểu cho những người phụ nữ, những người lao động trên miền núi Tây Bắc. Tô Hoài đã vén màn bí ẩn để giúp cho bạn đọc miền xuôi vừa am hiểu, vừa thêm gần gũi, gắn bó với cuộc sống, con người Tây Bắc. Ta nhận ra số phận, cuộc đời của Mị rất gần gũi, quen thuộc như biết bao những số phận cảnh đời trên văn đàn miền xuôi. Qua số phận đau khổ, bất hạnh của Mị, Tô Hoài đã khẳng định sự đồng cảm, quan tâm sâu sắc đến số phận đau thương của những người lao động vùng cao Tây Bắc. Đồng thời, tác giả cũng tố cáo, lên án đanh thép tội ác dã man của chế độ phong kiến miền núi Tây Bắc. Chúng đã chà đạp, áp bức bóc lột những người phụ nữ, những người lao động vùng cao. Phản ánh về hiện thực này, Tô Hoài còn muốn kêu gọi phong trào du kích, phong trào cách mạng cần mau chóng giải phóng cho những con người lao động vùng cao Tây Bắc. Đây là thiên chức cao cả, sứ mệnh cao đẹp trong sáng tác của Tô Hoài.
Đoạn văn thứ hai đã cho người đọc thấy rõ sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của Mị. Khi A Sử trở về từ những cuộc vui, khi hắn còn muốn bắt thêm mấy người con gái nữa về làm vợ, “Mị cũng không nói gì”. Mị im lặng. Nhưng sự im lặng trong ngôn ngữ ấy không phải là sự nhẫn nhục, chịu đựng của một người đàn bà với một tâm hồn đã hao mòn. Trái lại, sự im lặng ấy như một phương thức thể hiện sự phản kháng của Mị trước kẻ trực tiếp chà đạp lên số phận của mình. Sự im lặng của Mị chính là một minh chứng cho khát vọng sống, khát vọng tự do của Mị, Mị không chấp nhận cái kiếp sống con trâu, con ngựa, Mị phản kháng, đấu tranh chống lại sự áp bức, chà đạp. Để rồi từ sự im lặng trong lời nói ấy đã dẫn đến một loạt hành động: “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, sắn một miếng bỏ vào đĩa đèn cho sáng”. Nhà văn đã sử dụng một loạt câu văn ngắn để diễn tả một chuỗi hành động xảy ra liên tiếp đồng thời cho thấy thái độ của Mị trước người chồng trên danh nghĩa - không buồn để ý cũng chẳng quan tâm. Hành động Mị sắn miếng mỡ “bỏ vào đĩa đèn cho sáng” có thể nói mang nhiều ý nghĩa. Dường như Mị muốn nương nhờ vào cái ánh sáng của đĩa đèn để thắp sáng cho cuộc đời chính mình, để thắp sáng thế giới xung quanh. Ánh sáng nơi đĩa đèn tuy có thể nhó bé những cũng đủ để Mị có thể nhìn rõ cảnh tượng quanh mình, đủ để nhìn nhận cuộc đời cho rõ. Nó hoàn toàn đối lập với cái sự tăm tối, âm u của căn buồng kín mít mà Mị ở. Nếu trước kia, ở trong một căn buồng tối đen với chỉ một chút ánh sáng len lỏi từ cái ô cửa số bé bằng bàn tay, Mị cũng chẳng nghĩ ngợi, cũng chẳng quan tâm đến thế giới ngoài kia thậm chí Mị từng nghĩ cứ ở trong cái cái lồng giam chật hẹp, tù túng ấy sống một cuộc đời bế tắc cho đến chết; nhưng giờ đây chính Mị lại dùng ánh sáng ấy để soi rọi mọi vật, soi rọi cuộc đời của mình. Hành động này sắn miếng mỡ “bỏ vào đĩa đèn cho sáng” đã cho thấy rõ sự thay đổi trong ý thức, nhận thức, tình cảm của Mị.
Đến đây, trong đầu Mị vẫn “rập rờn tiếng sáo”. Chính cái tiếng sáo đã đánh thức được sự sống đang ngủ say trong Mị; cái tiếng sáo đã giúp Mị sống lại những kí ức thời thanh xuân tươi đẹp tưởng như đã tiêu biến; cái tiếng sáo đã đem đến sự hồi sinh trong tâm hồn của người con gái Mèo đã chịu bao đau đớn, tủi nhục về thể xác và tâm hồn. Nó vẫn quẩn quanh, miên man trong tâm trí Mị. Và cái âm thanh đầy mê hoặc ấy đã thôi thúc khao khát được đi chơi trong Mị “Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi”. Mị muốn giải thoát mình khỏi cuộc sống đầy tủi nhục, đắng cay ấy. Mị muốn được bước ra khỏi căn buồng tăm tối, muốn tháo cũi sổ lồng, để được tự do, tự quyết. Mị muốn được ngắm nhìn cái thế giới đầy hương sắc, cỏ cây mà Mị đã lâu chưa được nhìn, được nghe. Để rồi từ ý thức đến hành động. Mị bắt đầu sửa soạn đi chơi với khao khát mãnh liệt của tuổi trẻ, với sự náo nức của người đã tìm ra ánh sáng sau đêm dài “Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”. Chi tiết Mị quấn tóc, với tay lấy cái váy hoa không chỉ là hành động bản năng của người phụ nữ là thích làm đẹp mà còn thể hiện khát vọng tình yêu, khát vọng hạnh phúc của người phụ nữ. Bao rạo rực mê say trong tâm hồn người con gái trẻ gửi trong hành động ấy. Hành động ngỡ như đột ngột, nhưng nó là kết quả tất yếu của sự tác động qua lại giữa hoàn cảnh và tâm lí nhân vật. Lời văn không còn đượm buồn hiu hắt mà như được sưởi ấm bằng chính tấm lòng đồng cảm mà nhà văn dành cho nhân vật của mình. Tất cả những hành động trên tưởng như rất đơn sơ, thường nhật nhưng với Mị nó vô cùng đặc biệt. Hành động chuẩn bị đi chơi chính là hành động giải phóng chính mình ra khỏi những trói buộc vô hình ở nhà thống lí Pá Tra để có thể bước qua những giới hạn để khẳng định quyền sống, tự do của con người. Không chỉ vậy, tất cả những hành động này đều diễn ra trước mặt A Sử, nó cho thấy rõ sự phản kháng, sự thách thức của Mị trước kẻ đã tước đi quyền sống của mình.
Song chưa kịp bước ra khỏi căn buồng tăm tối ấy, Mị đã bị A Sử trói lại. Hắn trói Mị một cách đầy tàn nhẫn, dã man: “lấy thắt lưng trói hai tay Mị”, xách “một thúng sợi đay trói đứng Mị vào cột nhà”, quấn tóc Mị lên cột khiến “Mị không thể cúi, không thể nghiêng được đầu”. Tô Hoài đã sử dụng bút pháp tả thực cùng những câu văn dài với hệ thống dấu câu để diễn tả cảnh Mị bị trói đầy thương tâm. Mị bị đối xử một cách độc ác, tàn nhẫn. A Sử trói Mị như muốn chặt đứt đi sức sống mới hồi sinh trong người con gái ấy. Cảnh Mị bị trói đã nhấn mạnh cái hiện thực nghiệt ngã, nhấn mạnh những đọa đày về mặt thể xác mà cha con thông lí đã gây ra.