Có ai biết giá trị đặc sắc của tác phẩm mắt biếc không ạ e cần gấp
Có ai biết Làng là tác phẩm thứ mấy của Kim Lân không ạ, cần gấp á
theo em, tác giả xây dựng nhân vật "cô bé bán diêm" có đặc điểm gì? và ý nghĩa của "cô bé bán diêm trong việc thể hiện giá trị nhân đạo của tác phẩm qua hình tượng của cô bé
Cần gấp ạ!
-Tác giả xây dựng nhân vật "cô bé bán diêm" có đặc điểm : số phận, hoàn cảnh đáng thương, tội nghiệp , có ước mơ về một mái ấm .
-Giá trị nhân đạo của tác phẩm qua hình tượng của cô bé : phê phán sự vô tâm lạnh nhạt của người qua đường và sự bốc lột hành hạ của người cha
phân tích đặc sắc trong cách kể của Kim Lân qua tác phẩm con chó xấu xí
Jup e vs ạ
Viết 1 đoạn văn nói về một tác phẩm Mắt biếc.
Ai viết hay mình kết bạn cho
Mắt biếc được tác giả Nguyễn Nhật Ánh sáng tác vào năm 1990. 30 năm sau, câu chuyện ngây thơ tình si ngày nào của Ngạn và Hà Lan cuối cùng đã được lên màn ảnh rộng.
Viết về Mắt biếc là viết về những mối tình si. Không chỉ một mà tới 3 câu chuyện tình. Và chỉ một trong số đó được cái kết có hậu.
Câu chuyện mở đầu với tuổi thơ của Ngạn, một cậu bé thuộc trường phái cổ điển và cô gái hơi hướng hiện đại Hà Lan. Hai người bên nhau từ thời cởi truồng tắm mưa, những ngày tiểu học giành cái trống trường, cho đến những tháng ngày lặng lẽ làm đôi bạn cùng tiến, và nổi giông bão ở cái thời điểm Hà Lan lên thành phố học hành.
Cho dù Nguyễn Nhật Ánh đã cố giành lấy sự đồng cảm của độc giả khi để dành nhân vật “tôi” trong vai Ngạn tự kể về thời ấu thơ cho tới khi trưởng thành, kể về những tháng ngày được ở bên cạnh Hà Lan. Nhưng không thể phủ nhận một sự thật rằng, cậu bé Ngạn và cô bé Lan của ngày nào vốn dĩ đã sống ở 2 thế giới hoàn toàn khác nhau, cho dù khởi đầu chung một môi trường giáo dục.
Ngạn là một kẻ nhút nhát, rụt rè, sống nội tâm và không có gì nổi bật
Trái lại, “mắt biếc” Hà Lan mang danh cô gái miền quê xa xứ, nhưng lại đặc biệt mến thương chốn xa hoa thị thành. Cô dường như được sinh ra để dành trọn tình yêu cho những gì đẹp đẽ ở thành phố, nơi mà Lan lần đầu tiên đi học đã quay về miêu tả rằng “đó là nơi huyền ảo, đẹp lung linh gấp trăm lần quê mình”.
Ngạn thích những gì cổ điển, những gì rụt rè, những gì âm thầm, những mối tình câm, ý tại ngôn ngoại.
Lan phá cách, lớn trước tuổi. Cô yêu Dũng ở độ tuổi trăng tròn, và sống chết với mối tình ấy một cách hết sức ngây thơ, nhàm chán.
Và dĩ nhiên là 2 con người ấy, vốn ngay từ đầu định mệnh đã an bài rằng họ chỉ có thể làm bạn.
#Hok Tốt
Cả nhận đoạn văn Lần lần ... đến bao giờ chết thì thôi . Từ đó nhận xét về giá trị hiện thực đặc sắc của tác phẩm.
a) Mở bài
Khái quát về tác giả, tác phẩm
* Tác giả:
- Tô Hoài là nhà văn có sức sáng tạo dồi dào, số lượng tác phẩm đạt kỷ lục.
- Sáng tác của ông thiên về diễn tả những sự thật của đời thường. Theo ông: viết văn là quá trình đấu tranh để nói ra sự thật, cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc”.
b) Thân bài
Cảm nhận đoạn trích
* Khái quát về Mị:
- Xinh đẹp, là bông hoa của núi rừng
- Có tài: thổi sáo, thổi lá cũng hay như thổi sáo
- Hiếu thảo
- Khát vọng tự do
→ Vì món nợ của cha mẹ, Mị bị bắt về làm dâu gạt nợ.
* Khái quát nội dung đoạn trích trước đó:
- Mở đầu tác phẩm là giọng văn êm như ru, mở ra thế giới Tây Bắc và bức chân dung thiếu phụ buồn.
- Khi mới về làm dâu: đêm nào Mị cũng khóc, Mị định về từ biệt cha rồi ăn lá ngón tự tử.
- Câu văn: Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau: gợi ấn tượng về thời gian sống trong nhà thống lí, mấy năm nhưng dài vô tận
- Trước đây, Mị từng muốn ăn lá ngón tự tử nhưng vì thương cha nên Mị chấp nhận kiếp sống làm dâu gạt nợ
→ khát vọng sống luôn tồn tại.
- Nhưng nay, bố Mị chết, Mị cũng không nghĩ đến chuyện tự từ nữa. Vì Mị đã quen khổ rồi. Hai chữ “quen khổ” đầy da diết, khắc khoải.
→ chai lì về cảm xúc. Môi trường độc địa ấy, hay cường quyền và thần quyền đã tước đi khát vọng sống của Mị, khiến Mị quen dẫn và không biểu hiện phản kháng.
- Ngay cả Mị cũng “tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”, câu văn chất chứa nỗi xót xa cùng cực của Tô Hoài dành cho nhân vật của mình. Thân phận của Mị chẳng khác nào thân phận “trâu ngựa”. Con trâu con ngựa suốt tháng suốt năm phải làm việc lam lũ trên nương, khoảnh khắc nghỉ chân của nó thật ngắn ngủi. Mị cũng thế, từ hồi về nhà thống lí Pá Tra làm dâu, quanh năm Mị quanh quẩn trên nương “bẻ bắp”, “hái củi”, “bung ngô”, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi.
- Về làm dâu nhà thống lí, Mị từ một cô gái yêu đời, khao khát tự do đã trở nên chai sạn, mất đi nhận thức về thời gian, không gian. Căn buồn Mị nằm chẳng khác gì nấm mồ lộ thiên chôn vùi và giam hãm tuổi xuân của Mị.
Đoạn văn đã mở ra thân phận cam chịu, tủi nhục của Mị. Người đàn bà ấy đã gồng gánh gian lao đi qua cơ cực mỏi mòn mà chẳng biết nặng là gì. Rõ là cái xã hội ấy thật bất nhân, nó tước đoạt đi quyền hạnh phúc, đồng thời cắt đứt mạch sống của người con gái đương phơi phới xuân thì. -> tố cáo xã hội thực dân nửa phong kiến.
c) Kết bài
- Nhận xét:
+ Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật.
+ Ngòi bút Tô Hoài: diễn tả những sự thật của đời thường…
+ Tố cáo xã hội thực dân nửa phong kiến miền núi đã chà đạp con người.
- Giá trị hiện thực của tác phẩm.
Khẳng định giá trị tác phẩm " Sống chết mặc bay "
AI làm đúng mình tích cho, mình đang cần gấp
Phạm Duy Tốn (1883 – 1924), nguyên quán làng Phượng Vũ, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây; sinh quán thôn Đông Thọ (nay là phố Hàng Dầu, Hà Nội), ông là một trong số ít người có thành tựu đầu tiên về thể loại truyện ngắn hiện đại. Và một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông là Sống chết mặc bay.
Với hai bức tranh đời tương phản, tác giả đã phản ánh rõ nét toàn cảnh xã hội phong kiến thời xưa. Hai hình ảnh trái lập nhau đã làm càng tăng thêm ý nghĩa, lên án, tố cáo những kẻ cầm đầu độc ác, không biết quan tâm đến đời sống nhân dân hay nói đúng hơn là tên quan phủ – một viên quan vô trách nhiệm lòng lang dạ sói trong tác phẩm. Văn bản này vào đề bằng một hình ảnh hết sức căng thẳng, gay cấn, khó khăn. Đó là vào một giờ đêm, trời mưa tầm tã. Nước sông dâng cao đe doạ vỡ đê. Với công cụ thô sơ, những người dân chân lấm tay bùn với hàng nghìn tư thế khác nhau: người vác cuốc, người vác tre, kẻ bì bõm ướt như chuột lột cùng nhau gắng sức chống lại thiên tai, bão lụt. Hình ảnh muôn sầu nghìn thảm ấy làm bất cứ ai được đọc, được nghe đều không khỏi xót thương. Sự vất vả của người dân kéo dài tới mãi đêm khuya vẫn chưa chấm dứt. Tiếng hò, tiếng gọi, í ới, gấp gấp, sự căng thẳng ấy được bộc lộ qua nét mặt của từng người. Trước tình cảnh như vậy thì bất kì ai cũng đặt ra câu hỏi: Vậy trước thế cùng sức kiệt như vậy thì quan phụ mẫu, những người có chức quyền ở đâu. Thì ra những vị quan phụ mẫu đang hộ đê trong đình, một khung cảnh hoàn toàn trái ngược. Bầu không khí ấm áp không chút lo âu. Sự bình thản của mỗi người trên từng quân bài. Quan phụ mẫu đang hộ đê trong tư thế ung dung, nhàn hạ, tay cầm bát yến, ngồi khểnh vuốt râu. Sự oai phong của quan được thể hiện ở lời nói. Những tên xu nịnh vây quanh nịnh hót, quan thắng bài đó là niềm hạnh phúc. Từng khung cảnh cũng được đề cập đến trong văn bản càng bộc lộ rõ nét hơn. Than ôi! Xã hội phong kiến bất công biết bao. Bằng những ngôn từ, biện pháp tự sự, kết hợp với miêu tả, bình luận cùng với những cảm xúc chân thực, tác giả đã đưa người đọc vào trong cuộc sống bấy giờ, tái hiện lại những nghịch cảnh trớ trêu, lay động lòng người, đánh thức lên một nỗi niềm xót cảm. Không mảy may một chút vương lòng, những hình ảnh nhàn hạ, nào quan phủ, nào thầy lí, thầy đề, những tên cương hào, ác bá được lột tả dưới ngòi bút của tác giả. Với những ngôn từ bình dị, cổ xưa, tác giả đã gợi lên một khung cảnh chân thực. Hơn thế nữa, một loạt những nghệ thuật độc đáo được được sử dụng. Khi thời điểm tưởng chừng ngàn cân treo sợi tóc, văng vẳng từ xa tiếng người vào bẩm báo: “Dễ có khi đê vỡ”. Cảnh bình chân như vại của viên quan bằng lời nói: “Mặc kệ” khi đợi bài ù. Không chỉ vậy sự thách thức của hắn còn được bộc lộ bởi câu nói: “Đê có vỡ, nước có dâng lên cao thì cũng không lo đình sập, đình vỡ” Thật là nghịch chướng. Đó là phép tăng cấp rất độc đáo. Hay nghệ thuật tương phản cũng khá ấn tượng. Hai khung cảnh một trời một vực, một bên ung dung nhàn nhã, một bên gấp gáp lo âu. Sự tương phản này là mâu thuẫn quan điểm của hai lớp người trong xã hội xưa.
Có thể nói với sự khéo léo trong việc vận dụng linh hoạt, nhuần nhuyễn hai biện pháp nghệ thuật cùng với ngôn từ chặt chẽ điêu luyện, phù hợp tương tác với nhau, bài văn đã rất thành công trong việc lột tả hai hình tượng đối lập. Đồng thời cũng lên án những tên quan phụ mẫu đại diện chính quyền lại vô trách nhiệm hay nói đúng hơn là lòng lang dạ sói cứ ung dung, thoải mái trong nhung lụa, hạnh phúc, bỏ mặc người dân trong cảnh lầm than, cơ cực. Hai bức tranh đời này mang đậm đà chất hiện thực và thắm đượm những cảm xúc nhân văn và gợi lên lòng đồng cảm nơi người đọc.
Đây là một đoạn kết bài ạ. nó chỉ ngắn TaAMF 4-5 DÒNG THÔI ạ
mình hiểu rồi ,cảm ơn bạn
hãy nêu cảm nhận của em về những đặc sắc của ca huế (em cần gấp ai bt thì giúp em vs ạ)
Đặc sắc về mọi mặt: Giọng hát, không gian, trang phục, lời ca, giai điệu, nhạc công, ca công,...
Các làn điệu ca Huế sôi nổi, tươi vui vì có nguồn gốc từ nhạc dân gian, còn sang trọng, uy nghi ảnh hưởng từ nhạc cung đình. Nghe ca Huế là một thú vui tao nhã bởi vì Nghe ca Huế là một thú vui tao nhã. Cũng bởi ca Huế làm giàu tâm hồn con người, hướng đến những vẻ đẹp của tình người xứ Huế.
Tìm Nghệ Thuật đặc sắc của câu Tục ngữ:
Gái thương chồng đương đông buổi chợ
Trai thương vợ nắng quái chiều hôm.
MN GIÚP E BÀI NÀY VỚI Ạ. E ĐANG CẦN GẤP LẮM Ạ.
Tìm Nghệ Thuật đặc sắc của câu Tục ngữ:
Gái thương chồng đương đông buổi chợ
Trai thương vợ nắng quái chiều hôm.
MN GIÚP E BÀI NÀY VỚI Ạ. E ĐANG CẦN GẤP LẮM Ạ.
Tìm Nghệ Thuật đặc sắc của câu Tục ngữ:
Gái thương chồng đương đông buổi chợ
Trai thương vợ nắng quái chiều hôm.
MN GIÚP E BÀI NÀY VỚI Ạ. E ĐANG CẦN GẤP LẮM Ạ.