Phân tích hình tượng nhân vật Mị trong đoạn "Trong bóng tối, mị đứng im lặng đến đau đứt từng mảnh thịt "và nhận xét cái nhìn về người nông dân của nhà văn Tô Hoài
Phân tích hình tượng nhân vật Mị trong đoạn "Trong bóng tối, mị đứng im lặng đến đau đứt từng mảnh thịt "và nhận xét cái nhìn về người nông dân của nhà văn Tô Hoài
TK ạ
Nếu đoạn đời sống trong địa ngục trần gian ở Hồng Ngài là sự giao tranh âm ỉ quyết liệt giữa số phận bi thảm và sức sống tiềm tàng của Mị, thì cảnh Mị bị A Sử trói đứng vào cột nhà trong bóng tối có thể xem như là hình ảnh thu nhỏ cô đúc và thấm thía của cuộc giao tranh đó. Chỉ có điều nó lại diễn ra trong tâm trạng chập chờn nửa mê, nửa tỉnh của cô gái, và Tô Hoài, như đã nhập thân vào nhân vật để viết nên một đoạn văn thật tinh tế, sâu sắc “Trong bóng tối... không bằng con ngựa”.
Giữa đoạn văn là một câu rất ngắn, chỉ có bốn chữ: Mị vùng bước đì. Trên là âm thanh tiếng sáo, dưới là tiếng chăn ngựa. “Mị vùng bước đi” như một cái bản lề khép mở hai thế giới, hai tâm trạng: thế giới của ước mơ với tiếng sáo rập rờn trong đầu và thế giới của hiện thực với tiếng chân ngựa đạp vào vách, tâm trạng của một cô Mị đang mê man chập chờn theo tiếng sáo gọi bạn tình. Tinh và tâm trạng cùa một cô Mị đã tỉnh đang “thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”. Thật cô đúc mà thấm thía. Kiệm lời mà hàm chứa biết bao ý nghĩa.
Tiếng sáo- ước mơ- sức sống của Mị. ‘Mị vùng bước đi”. Cảu văn ngỡ như không đúng mà lại rất đúng, lại tinh tế và rất sâu sắc. Làm sao Mị có thể vùng bước đi khi đã bị trói bằng cả một thúng sợi đay? Nhưng Mị đã vùng bước đi như một kẻ mộng du, như không biết mình đang bị trói. Bởi Mị đang sống với ước mơ, bằng ước mơ chứ không phải với hiện thực, bằng hiện thực. Mị đang sống với tiếng sáo của những đêm tình mùa xuân ngày trước, đang muốn tìm lại tuổi trẻ, tuổi xuân, tình yêu, hạnh phúc của mình. Hơi rượu còn nồng nàn, trong đầu Mị vẫn rập rờn tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. “Em không yêu, quả pao rơi rồi Chính cái tiếng sáo ấy đã gọi Mị vùng bước đi về với cuộc sống thật của mình đã bị cướp mất trong cái địa ngục trần gian này. Mới biết sức sống tiềm tàng, mãnh liệt đến nhường nào. Sức sống ấy khiến cô quên đi tất cả sự thực xung quanh, không thấy, không nghe A Sử nói, không biết cả mình đang bị trói chỉ còn biết có tiếng sáo, chỉ còn sống với tiếng sáo, mê man chập chờn - trong tiếng sáo. Xây dựng nên cái tâm trạng mê man như một kẻ mộng du đi theo tiếng sáo. Tô Hoài đã nói lên rất rõ và sâu sắc cái sức sống mãnh liệt đang trào dâng trong lòng cô lúc bấy giờ. Và tiếng sáo đã thành một biểu trưng sâu sắc và gợi cảm cho ước mơ và sức sống của Mị.
Tiếng chân ngựa: hiện thực - số phận của Mị “Mị vùng bước đi”. Nhưng tay chân đau không cựa được. Tiếng sáo tắt ngay ước mơ tan biến, và hiện thực trần trụi, phũ phàng hiện ra: chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đập vào vách. Mị đã tỉnh hẳn khi dây trói thít chặt lại, đau nhức, và cay đắng nhận ra số phận của mình không bằng con ngựa. Cái dây trói kia chỉ làm đau thể xác. nhưng cái tiếng chân ngựa này mới thực sự xoáy sâu Váo nỗi đau tinh thần của Mị khi nó gợi lên một sự so sánh thật nghiệt ngã, xót xa: thân người mà không bằng thân trâu ngựa?! Tiếng chân ngựa đá vào vách một biếu trung giàu ý nghĩa cho hiện thực và số phận của Mị.
Với ngòi bút miêu tả tinh tế, sâu sắc của Tô Hoài trong miêu tả tâm trạng nhân vật ớ hai cảnh đối lập nhau: mê man chập chờn theo tiếng sáo như một kẻ mộng du dẫn đến hành động “vùng tỉnh lại và cay đắng xót xa “thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa hai tám trạng ấy tiếp nối nhau trong sự phát triển biện chứng để hoàn chỉnh chân dung và số phận nhân vật. Sâu sắc trong những chi tiết giàu ý nghĩa, đặc biệt là hai biểu trưng “ tiếng sáo” và “tiếng chân ngựa” đối lập nhau và đầy ấn tượng.
Đoạn văn ngắn mà bật nối được bức tranh tối - sáng của nhân vật (số phận và sức sống) một cách sinh động, gợi cảm và có chiều sâu, khiến ta càng hiểu thêm nhân vật, bút pháp Tô Hoài và nhất là tấm lòng đồng cảm yêu thương của nhà văn đối với nhân vật của mình. Đó là một trong những đoạn văn hay nhất, in đậm phong cách Tô Hoài trong truyện ngắn này.
Tô Hoài cùng với Nam Cao, Kim Lân, đều là những nhà văn hiện thực nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam hiện đại, để lại nhiều những tác phẩm có giá trị nhân văn, phản ánh hiện thực xã hội một cách khách quan và nhiều xúc cảm, đau đớn, xót xa, thương cảm, yêu thương,… Nếu như bản thân Nam Cao hay Kim Lân cả trước và sau cách mạng đều tập trung vào đề tài người nông dân, trí thức tiểu tư sản vùng đồng bằng Bắc Bộ, thì Tô Hoài lại được xem là nhà văn hiện thực của vùng miền núi phía Bắc nước ta, bằng một tấm lòng thiết tha, gắn bó, ngòi bút cảm thông sâu sắc với số phận của những con người khốn khổ chịu sự áp bức, bóc lột của cả cường quyền và thần quyền phong kiến tàn ác. Đặc biệt, điểm sáng trong đề tài của Tô Hoài còn nằm ở việc ông tập trung vào số phận của những người phụ nữ vùng cao, ông vừa khai thác cuộc đời bất hạnh, vừa làm nổi bật cả những vẻ đẹp trong tâm hồn họ, đồng thời Tô Hoài cũng dần hé mở những lối thoát, giải phóng cho nhân vật của mình bằng những định hướng về một cuộc đời khi cách mạng về. Một trong những tác phẩm thành công nhất của Tô Hoài chính là Vợ chồng A Phủ, với nhân vật Mị, một người phụ nữ có số phận đớn đau, cam chịu, sau cùng lại vùng dậy đấu tranh để tìm lại cuộc đời, tìm lại tự do.
Mị là một người phụ nữ đại diện cho nhiều người phụ nữ khác Hồng Ngài, cũng như ở cả vùng núi rừng Tây Bắc. Dưới ngòi bút của Tô Hoài, nhân vật Mị hiện lên là một cô gái xinh đẹp, lại có tài thổi sáo rất hay, thuở còn xuân Mị được biết bao nhiêu trai bản theo đuổi, đứng đến nhẵn cả góc nhà chỗ đầu giường Mị nằm. Thế nhưng Mị sinh ra trong một gia đình nghèo khó, cha Mị vì lấy mẹ Mị mà phải đi vay nợ, món nợ với nhà thống lý Pá Tra mà cho đến đời Mị vẫn không thể trả hết. Thành thử, Mị phải chấp nhận số kiếp làm con dâu gán nợ, gả làm vợ của A Sử, con trai thống lý Pá Tra. Mà dưới chế độ cường quyền thần quyền đàn áp thì cuộc đời của người con dâu gán nợ, nó khốn nạn lắm, Mị nào được hưởng cảnh sung sướng của một cô con dâu nhà giàu, mà trái lại phải nai lưng ra làm lụng quanh năm ngày tháng, đầu tắt mặt tối không khác gì một nô lệ để trả nợ cho cha.
Những tưởng rằng, cuộc đời của Mị sẽ chỉ mãi nằm trong cái vòng luẩn quẩn bế tắc ấy và cái lòng ham sống, cái sự phản kháng vùng vẫy của Mị đã chết hẳn từ mấy năm trước rồi. Nhưng không, nó vẫn âm ỉ, tiềm tàng nằm thật sâu trong lòng Mị, được bao bọc xung quanh bởi những lớp chai cứng xù xì, dưới lớp tro tàn tàn nguội lạnh để chờ thời cơ nổi dậy. Mùa xuân đến người ta đang nô nức, hào hứng chuẩn bị đón Tết, phụ nữ phơi váy hoa khắp nơi, đám trẻ nô đùa chơi quay, và có tiếng sáo ai rủ bạn đi chơi thấp thoáng. Chính cái tiếng sáo thiết tha, bồi hồi ấy đã thức dậy trong tâm hồn Mị một chút niềm vui sống, thường ngày Mị chẳng thiết nói năng, thế mà nay Mị lại nhẩm hát theo tiếng sáo du dương. Đó là dấu hiệu cho sự thức tỉnh của lòng ham sống, ham vui, ham hạnh phúc trong Mị. Ngày Tết người ta uống rượu, Mị cũng uống “uống ừng ực từng bát” như thể muốn trút hết những uất ức, thống khổ trong lòng một cách thống khoái, mạnh mẽ. Thế rồi Mị lặng người nhìn người ta nhảy múa vui chơi, Mị lại nhớ về những ngày còn ở với cha mẹ, Mị cũng có những ngày tháng tươi đẹp như thế. Mị chợt nhớ mình còn biết thổi sáo, thổi lá cũng rất hay. Mị uống rượu và thổi sáo, Mị tận hưởng cuộc sống, tự tạo dựng lại cho mình những niềm vui ngày xuân để quên đi cái sầu khổ, đớn đau suốt mấy năm qua của mình. Tâm hồn Mị dần dần sống lại một cách chậm rãi, Mị bắt đầu ý thức được mình còn trẻ trung, vẫn còn khao khát những niềm vui của cuộc sống. Có lẽ rằng chính cái âm thanh tiếng sáo gọi bạn đầu làng, cái âm thanh của sự sống cứ văng vẳng bên tai Mị, đã hâm nóng lại ngọn lửa thanh xuân trong lòng cô, khiến “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi Tết”. Mị lại sửa soạn áo quần, tóc tai và muốn ra ngoài hòa vào không khí vui nhộn của dịp Tết, hòa nhập với xã hội. Nhưng đau đớn thay, bấy nhiêu những hớn hở, khao khát của Mị đã bị người chồng A Sử dập tắt, nó trói Mị chặt cứng vào cột nhà khiến cô không thể động đậy. Lúc này đây mấy thấy cái tấm lòng ham sống, khao khát tự do của Mị được bộc lộ một cách mãnh liệt và sâu sắc. Một người vốn đã chai lì cảm xúc, quen bị hành hạ, quen lao động nặng nhọc quanh năm, thờ ơ với cái chết, thế mà lại bắt đầu sợ. Mị nghĩ đến nhà này cũng có một người đàn bà bị trói vào cột đến chết, “Mị sợ quá, Mị cựa quậy xem mình còn sống hay đã chết. Cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại, đau từng mảnh thịt”. Lúc này đây Mị sợ chết tức là lòng ham sống của Mị còn mãnh liệt lắm, Mị thấy đau đớn tức là tâm hồn Mị đã dần dà sống lại, cũng biết buồn biết khổ, chứ không còn chai sạn như trước nữa. Mị đã sống lại một cách hoàn toàn cả về tâm hồn lẫn thể xác.
Cuộc gặp gỡ với A Phủ, có lẽ chính là định mệnh, là bước ngoặt lớn cho sự phản kháng và việc giành lấy tự do của Mị sau khi tâm hồn nhân vật này hoàn toàn thức tỉnh. Chứng kiến cảnh A Phủ bị trói giữa sân, bị bỏ đói, bị đánh đập chỉ vì làm mất một con bò, nhưng ban đầu Mị vẫn thản nhiên, thổi lửa hơ tay, dường như lòng người đàn bà này lại quay trở về cái vẻ chai sạn, chết hết mọi xúc cảm như trước kia. Thế nhưng sự bình tĩnh, im lặng ấy lại chính là dấu hiệu, sự chuẩn bị cho một quá trình phản kháng mạnh mẽ mà không ai ngờ tới của Mị. “Dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má xám đen lại” của A Phủ, như là một giọt nước cuối cùng rớt vào ly nước vốn đã đầy ăm ắp của Mị, trở thành giọt nước tràn ly. Nó đã dấy lên trong lòng người đàn bà này biết bao nhiêu là cảm xúc, Mị thấy căm giận nhà thống lý Pá Tra, chúng nó đã trói chết bao nhiêu người đàn bà như vậy, chúng nó thật độc ác, nhưng phận đàn bà làm dâu trong nhà thì muôn đời phải vậy. Còn A Phủ sao phải chịu chết như thế, Mị thấy bất bình, thấy xót xa cho một kiếp người nhưng còn chẳng bằng con bò bị mất, phải chết vì một con bò, giống như Mị phải làm trâu làm ngựa, gần như chết hẳn trong cái nhà này vì món nợ truyền kiếp của cha. Ôi sao đời Mị và đời A Phủ lại đớn đau giống nhau đến vậy, chẳng lẽ cứ nghèo khó, không quyền thế là phải chịu áp bức, đau khổ hay sao? Mị thương người đàn ông tội nghiệp đó, sắp phải chịu chết đói, chết rét, chết vì bị đánh, Mị muốn cởi trói cho A Phủ, nhưng rồi Mị cũng sợ mình sẽ là người phải chịu chết thay. Mị đã đấu tranh tư tưởng nhiều lần, rồi cuối cùng Mị ra một quyết định rất táo bạo, Mị cởi trói cho A Phủ, thì thào một tiếng “Đi ngay…”. Nhìn thấy một kẻ vốn đã gần chết tới nơi, thế nhưng lại vẫn dùng hết sức bình sinh chạy vụt xuống triền đồi, lòng Mị dường như vỡ ra cái gì đó, phải rồi, Mị đã giải thoát cho người ta thì cũng phải giải thoát cho chính mình chứ, và thế là Mị chạy vụt theo A phủ. Những câu nói cuối cùng trong đoạn trích “Cho tôi theo với, ở đây thì chết mất”, chính là minh chứng cho sự phản kháng mạnh mẽ, ý thức mưu cầu tự do, lòng ham sống, ham tự do mãnh liệt đang cháy ngùn ngụt trong lòng của người đàn bà nhiều năm vốn đã chai lì, lạnh giá.
Vợ chồng A Phủ nói chung và nhân vật Mị nói riêng chính là tấm lòng yêu thương, thông cảm, trân trọng của Tôi Hoài đối với những người con miền núi, những con người dù phải chịu nhiều những đắng cay chèn ép của thần quyền và thần quyền khắc nghiệt. Thế nhưng họ vẫn có một niềm tin, khao khát sống mãnh liệt, sức phản kháng tiềm tàng mạnh mẽ, sẵn sàng đứng lên tự giải thoát cho bản thân, giành lại quyền mưu cầu hạnh phúc và tự do của bản thân. Từ đó Tô Hoài cũng nhấn mạnh tư tưởng của một nhà văn cách mạng, ấy là hướng nhân dân, những con người đang chịu cảnh lầm than thoát khỏi ách áp bức bằng con đường cách mạng, tạo dựng niềm tin của nhân dân vào tương lai tươi sáng của Đảng và nhà nước.
mỏi tay
Cách giới thiệu về nhân vật có gì đặc biệt tron tác phẩm Vợ Chồng A Phủ
Nêu những lý do khiến Mị quyết định cắt dây giải thoát cho A Phủ
Nghị luận xã hội: Chấp nhận rủi ro để thay đổi
Anh/ chị tham khảo ạ:
*Giới thiệu vấn đề
*Giải thích vấn đề
-Tuổi trẻ là gì?
-Rủi ro là gì?
=>Tuổi trẻ cần chấp nhận rủi ro để thay đổi không?
*Phân tích, bàn luận vấn đề
-Tại sao nói: "Tuổi trẻ cần chấp nhận rủi ro để thay đổi"
+Rủi ro là thứ luôn có trong bất cứ hoàn cảnh nào
+Chỉ có chấp nhận thử thách mới có khả năng gặt hái được thành công hay học được những bài học đắt giá
+Tuổi trẻ học cách dấn thân
-Nếu tuổi trẻ không dám chấp nhận thử thách thì sẽ ra sao?
*Liên hệ bản thân
*Tổng kết
bạn tham khảo nhé !!
Tuổi trẻ là thời đẹp nhất của mỗi con người. Ở quãng thời gian ấy chúng ta dám nghĩ, dám làm, dám thực hiện ước mơ. Trải qua tuổi trẻ chúng ta mới có thể trưởng thành. Do vậy tuổi trẻ nên chấp nhận rủi ro để thay đổi. Chúng ta không thể chỉ mãi sống trong cái vỏ bọc trẻ thơ, thấy khó khăn mà lùi bước. Nếu như vậy chúng ta sẽ không thể nào đạt được thành công trong cuộc sống. Tuổi trẻ phải chấp nhận rủi ro bởi vì không một ai thành công ngay từ ban đầu. chúng ta cần phải trải qua nhiều những sóng gió của cuộc sống có như vậy mới có thể trưởng thành, thay đổi được cách nghĩ và cách sống. Giống như nhà kinh doanh Phạm Thanh Hưng, nếu tuổi trẻ ông không chấp nhận rủi ro thì liệu bây giờ ông ấy có đạt được thành công? Cuộc sống càng có nhiều sự phát triển để phục vụ cho nhu cầu của con người kéo theo đó là một bộ phận giới trẻ trở nên lười biếng, sống trong cái vỏ bọc an toàn. Họ không sẵn sàng thay đổi, không biết chấp nhận rủi ro mà muốn thành công ngay từ ban đầu. Điều này là không thể. Do vậy mỗi con người đặc biệt là giới trẻ cần phải thay đổi cách nghĩ. Hãy biết tận hưởng tuổi trẻ, hãy biết chấp nhận rủi ro để thay đổi. Có như vậy mới đạt được thành công trong cuộc sống.
Việc Mị quyết định chạy theo A Phủ đã đem đến những điều tốt đẹp gì cho nhân vật
Chỉ ra những nhân tố tác động và những thay đổi trong suy nghĩ, hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân
Đến với với các tác phẩm văn học, bạn đến với mọi miền quê hương đất nước. Nêu những cảm nhận sâu sắc về cảnh vật, con người của một vùng đất nào đó mà (anh,chị) đã được học trong chương trình Ngữ văn lớp 12
Phân tích nhân vật a phủ trong truyện ngắn " Vợ chồng a phủ "
1. Mở bài: Giới thiệu nhà văn Tô Hoài và truyện ngắn Vợ chồng A Phủ.
2. Thân bài: Phân tích nhân vật A Phủ cần có những ý chính sau.
Nửa đầu của truyện Vợ chồng A Phủ kể về quãng đời của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài, trong nhà thống lí Pá Tra. Ở phần này, A Phủ là nhân vật phụ, nhưng có tác dụng làm nổi bật hình tượng nhân vật chính là Mị và khắc họa rõ hơn chủ đề tác phẩm. A Phủ là nhân vật được miêu tả sóng đôi với Mị, góp thêm một thân phận người lao động nghèo vào bức tranh hiện thực của tác phẩm.
A Phủ mồ côi cả cha lẫn mẹ vì nhà bị chết dịch. Có người bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái. Tuy mới mười bốn, nhưng A Phủ gan bướng, trốn thoát lên núi, rồi lưu lạc đến Hồng Ngài. Lớn lên giữa núi rừng, A Phủ thành một chàng trai khỏe mạnh "chạy nhanh như ngựa", lao động giỏi, lại"săn bò tót rất thạo". Vì thế, A Phủ trở thành niềm mơ ước của bao cô gái. Họ bảo nhau: "Đứa nào được A Phủ cũng bằng có được con trâu tốt trong nhà". Tuy vậy, A Phủ suốt đời làm thuê làm mướn, nghèo đến nỗi không thể nào lấy được vợ và cũng không có nổi cả cái vòng bạc để đi chơi ngày Tết như bao chàng trai Hmông khác. Chính hoàn cảnh khắc nghiệt này đã góp phần tạo nên ở A Phủ tính cách gan góc, táo bạo và một sức sống mạnh mẽ. Hình ảnh A Phủ khiến người đọc nhớ tới những nhân vật chàng Mồ Côi, chàng Khó tràn đầy sức lực, lao động giỏi và giàu nghĩa khí trong văn học dân gian. A Phủ dám đối mặt với bọn con quan một cách thật hùng dũng và đầy tự tin. Anh sẵn sàng trừng trị kẻ đã phá cuộc vui của bạn bè mình. Cũng vì thế, A Phủ bị trói mang đến nhà Phá Tra để xử kiện. Cuộc xử kiện quái lạ này thực chất chỉ là một cuộc tra tấn dã man để cuối cùng A Phủ vô cớ phải trở thành người nô lệ gạt nợ cho nhà thống lí. Bằng ngòi bút miêu tả phong tục bậc thầy, Tô Hoài đã làm hiện rõ trước mắt người đọc một cuộc xử kiện sống động và giàu sức tố cáo, từ đó vạch trần cách áp bức dã man, trắn trợn kiểu trung cổ của bọn thống trị miền núi. Qua "làn khói thuốc phiện ngào ngạt tuôn ra các lỗ cửa sổ", cứ hút trong một đợt thuốc phiện Pá Tra lại ra lệnh, trai àng lại từng đợt, từng đợt thay nhau lạy tên thống lí lia lịa rồi xông vào đánh A Phủ. Còn người thanh niên khốn khổ này chỉ biết im lặng chịu đòn "suốt chiều, suốt đêm". Như vậy, tuy là một chàng trai tự do của núi rừng, A Phủ vẫn không thoát khỏi nanh vuốt của bọn chúa đất. Từ đây, anh bỗng vĩnh viễn trở thành con trâu, con ngựa, như một nô lệ cho nhà Pá Tra. Hơn nữa, cho đến cả đời con, đời cháu, bao giờ trả hết nợ mới thôi. Và nếu không gặp Mị, chắc chắn A Phủ đã phải chết một cách thê thảm tại nhà thống lí. Tinh thần phản kháng là cơ sở để sau này, khi gặp A Châu – người cán bộ của Đảng, A Phủ nhanh chóng giác ngộ cách mạng, tham gia du kích, tích cực đấu tranh để giải phóng mình và giải phóng quê hương.3. Kết bài
Câu chuyện về A Phủ - người nô lệ gạt nợ đã bổ sung cho câu chuyện của Mị - người con dâu gạt nợ, để hoàn thiện bản án về tội ác của bọn chúa đất đối với những người lao động lương thiện ở miền núi trước Cách mạng, đồng thời cũng cho thấy sức sống mãnh liệt của họ.
Nêu những nét chính về cuộc đời bất hạnh của Mị (từ khi về làm dâu gạt nợ)
*Khi về nhà thống lí
-Mị bị bắt làm con dâu gat nợ, thực chất là nô lệ
Về nhà thông lí, Mị bị vùi dập, chà đạp, cướp đoạt tất cả mọi quyền, sống như kiếp vật. Mở đầu tác phẩm, nhà văn đã đưa ra hai nghịch cảnh:
+ Cảnh Mị ngồi quay sợi gai bên tảng đá, cạnh tàu ngựa. Người đặt bên đồ vật, con vật nghĩa là con người khác gì đồ vật, kiếp vật. Suốt ngày làm lụng vất vả, dù quay sợi, thái cỏ, dệt vải, che củi hay đi cõng nước, Mị cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi.
+ Một bên cảnh nhà thống lí quyền thế, giàu có, người ra vào tấp nập. Thống lí “nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng”.
=> Đây là thủ pháp tạo tình huống “có vấn đề” trong lối kể chuyện truyền thống, giúp nhà văn mở lối dẫn người đọc cùng tham gia vào hành trình tìm hiểu những bí ẩn của số phận nhân vật.
+ Món nợ truyền kiếp khiến Mị trở thành con dâu gạt nợ. Thực chất bề ngoài là con dâu nhưng bên trong là con nợ. Mối quan hệ giữa con nợ và chủ nợ kiểu thống lí Pá Tra thì đến bao giờ mới trả xong nợ? Bởi con nợ là con dâu, mà là con dâu thì đã “trình ma” nhà này rồi, chạy đâu cho thoát, chỉ còn cách chịu đựng đến tàn đời mà thôi.
+ Thực ra Mị đã sớm linh cảm thấy cuộc đời của mình sẽ trở thành con nợ chung thân cho nhà thống lí nên ngay từ đầu, Mị đã van xin cha “đừng bán con cho nhà giàu”. Mị sẽ tự cuốc nương, trồng ngô để trả nợ thay cha. Nguyện vọng của Mị không thể chống lại hoàn cảnh và mưu chước thâm độc của cha con thống lí.
*Mị bị cướp đoạt sức lao động, sống như một kiếp vật
+ Bị bắt về nhà thống lí, Mị sống trong tủi cực đúng nghĩa với một nô lệ khổ sai. Có đến mấy tháng tròi, đêm nào Mị cũng khóc. Suy ngẫm uất ức, Mị tìm đến nắm lá ngón để giải thoát, nhưng trước những lời thống thiết của người cha già suốt đời nghèo khổ, lòng hiếu thảo nào không khôn xiết, Mị nén nỗi đau, chấp nhận quay về chịu kiếp ngựa trâu.
+ Với thủ pháp so sánh tương đồng, nhà văn làm nổi bật cuộc đời cơ cực của Mị, Mị nghĩ mình cũng là con trâu, con ngựa vì “là con trâu con ngựa thì phải đổi ở tàu ngựa nhà này đến tàu ngựa nhà khác, là trâu ngựa thì chỉ biết ăn cỏ, đi làm mà thôi”. Nhà văn nhấn mạnh thậm chí Mị không bằng con trâu con ngựa vì “con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ”, còn kiếp đàn bà con gái trong cái nhà này thì làm quần quật cả đêm lẫn ngày, tới mức Mị nghĩ: “ở lâu trong cái khổ, Mị quen rồi”.
+ Công việc tuần tự ngày này qua tháng khác đơn điệu, tẻ nhạt… Mị chỉ biết cúi mặt làm không muốn nghĩ nữa, vật vờ tồn tại như cái xác không hồn. Càng ngày Mị càng không nói “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Hình ảnh con rùa lùi lũi lại gợi nhớ tới câu ca: “Thương thay thân phận con rùa/ Trên đình đội hạc, dưới chùa đội bia”, đó là ẩn dụ về thân phận phụ thuộc, cơ cực của người phụ nữ trong xã hội phong kiến mà Mị là một hoàn cảnh tiêu biểu.
+ Căn buồng Mị ở tù túng, âm u, lạnh lẽo “kín mít chỉ có một cái cửa sổ bằng một lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay nắng, Mị nghĩ cứ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra đến bao giờ chết thì thôi”. Chi tiết gây ám ảnh ngột ngạt, bức bối về một địa ngục trần gian, ẩn dụ bế tắc về một cuộc đời, một số phận. Con dâu mà như tù nhân khổ sai, như một thứ công cụ lao động chỉ để cha con thống lí chà đạp, sai khiến. Nhà văn đã cất lên tiếng nói nhân quyền của con người để vạch trần, tố cáo tội ác của bọn chúa đất ở miền núi độc ác, vô đạo đã làm cạn khô nhựa sống, làm tàn lụi niềm vui sống của những con người vô cùng đáng sống.
–Mị không chỉ bị cướp đoạt tự do và sức lao động mà còn bị cha con thống lí áp chế về tinh thần
Chúng lợi dụng sự mê tín của người nông dân để sinh tục “cúng ma, trình ma”, khiến Mị cũng như bất cứ người con gái nào ở Hồng Ngài về nhà chồng cũng chỉ còn biết tin một điều: “Nó đã bắt mình vào trình ma nhà nó rồi thì chì đợi chết ở đây thôi”. Suốt một đời họ chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng.
-Mị bị chà đạp, ngược đãi khiến tinh thần bị tê liệt tới mức vô vọng
+ Mùa xuân về. Mị muốn đi chơi, bởi bao người có chồng còn đi chơi, huống chi Mị và A sử chẳng có lòng với nhau. Ước muốn của Mị vừa loé lên đã bị A Sử dập tắt. A sử trói đứng Mị suốt đêm trong căn buồng u tối. Dây trói xiết chặt làm da thịt Mị đau nhức như bị dứt ra từng mảng. Đau đớn, xót xa, Mị nghĩ kiếp mình không bằng kiếp ngựa. Kể từ đó, tinh thần Mị càng rơi vào vô vọng.
+ Mị đã phải sống với người chồng mình không yêu, không được yêu, Mị còn bị A sử đánh đập, hành hạ tàn bạo. Khi hắn bị A Phủ đánh, Mị phải vào rừng hái thuốc về xoa cho hắn. Vậy mà lúc đau mỏi quá thiếp đi, hắn co chân đạp thẳng vào mặt Mị.
+ Những đêm đông gìá lạnh trên núi cao dài và buồn, nếu không có bếp lửa sưởi làm bạn thì Mị đã chết tàn, chết héo. Mỗi đêm Mị dậy thổi lửa hơ tay không biết bao nhiêu lần. Có đêm A sử chợt về, thấy Mị ngồi đấy, A Sử đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp. Những hành động của hắn thật dã man, đó không phải là mối quan hệ vợ chồng mà là quan hệ chủ – tớ. Thân phận Mị là thân phận nô lệ.