Nhật Bản có bao nhiêu đời vua?
Thời nhà Lý có bao nhiêu đời vua ?
Thời nhà Trần có bao nhiêu đời vua?
trả lời:
Đúng là triều Lý (1010-1226) có 9 đời vua: Thái Tổ, Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Thần Tông, Anh Tông, Cao Tông, Huệ Tông và Chiêu Hoàng.
còn thời nhà trần mk ko cóa bt
1. LÝ THÁI TỔ (1010 – 1028)
Tên húy là Lý Công Uẩn, sinh ngày 12 tháng 02 năm Giáp Tuất (974) là người châu Cổ Pháp (thuộc huyện Tiên Sơn tỉnh Bắc Ninh ngày nay).
Thời Lê Ngọa Triều, Lý Công Uẩn giữ chức Tứ sương quân phó chỉ huy sứ, sau đó được thăng đến chức Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ. Bởi chức này, sử cũ thường gọi vua là Thân vệ. Năm Kỷ Dậu (1009), Lê Ngọa Triều mất, ông được triều thần (đại diện là Đào Cam Mộc) và các nhà sư (đại diện là Sư Vạn Hạnh) tôn lên ngôi vua. Vua lên ngôi tháng 10 năm Kỷ Dậu (1009) nhưng bắt đầu đặt niên hiệu riêng từ năm 1010 nên sử vẫn thường tính năm đầu đời Lý Thái Tổ là năm 1010. Tháng 7 năm 1010 vua quyết định dời đô về Thăng Long. Vua ở ngôi 18 năm, mất ngày 03 tháng 3 năm Mậu Thìn (1028), thọ 54 tuổi. Trong 18 năm làm vua, ông chỉ dùng một niên hiệu duy nhất là Thuận Thiên.
2. LÝ THÁI TÔNG (1028 – 1054)
Tên húy là Lý Phật Mã hay Lý Đức Chính, con trưởng của Lý Thái Tổ, mẹ đẻ là Lê Thái Hậu. Vua sinh ngày 26 tháng 6 năm Canh Tí (1000) tại Hoa Lư. Tháng 4 năm Nhâm Tý (1012), ông được lập Thái tử và lên ngôi Vua vào ngày 04 tháng 3 năm Mậu Thìn (1028), ở ngôi 26 năm, mất ngày 1 tháng 10 năm Giáp Ngọ (1054), thọ 54 tuổi.
Vua Lý Thái Tông là vị vua anh minh và có nhiều đóng góp trong triều đại nhà Lý. Chính ông thân chinh đem quân đi dẹp cuộc nổi dậy của Nùng Tồn Phúc, Nùng Trí Cao; năm 1044 sau cuộc chiến tranh với Chiêm Thành vua cho đại xá miễn một nữa tiền thuế để khoan sức dân; năm 1049 cho xây chùa Diên Hựu (Chùa Một cột); Năm 1042 vua cho ban hành Bộ Luật Hình thư là bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta.
Trong thời gian ở ngôi, ông có 6 lần đặt niên hiệu, đó là: Thiên Thành (1028-1034), Thông Thụy (1034-1039), Càn Phù Hữu Đạo (1039-1042), Minh Đạo (1042-1044), Thiên Cảm Thánh Vũ (1044-1049), Sùng Hưng Đại Bảo (1049-1054).
3. LÝ THÁNH TÔNG (1054-1072)
Tên húy là Nhật Tôn. Các bộ chính sử đều chép vua là con trưởng của vua Lý Thái Tông, mẹ người họ Mai, tước Kim Thiên Thái hậu (duy chỉ có Đại Việt sử lược thì chép vua là con thứ ba, mẹ là Linh Cảm Thái hậu). Vua sinh ngày 25 tháng 2 năm Quý Hợi (1023) tại kinh thành Thăng Long. Ngày 6 tháng 5 năm Mậu Thìn (1028) ông được lập thành Thái tử và lên ngôi ngày 1 tháng 10 năm Giáp Ngọ (1054), ông ở ngôi 18 năm, mất tháng 1 năm Nhâm Tí (1072), thọ 49 tuổi.
Vua được xem là ông vua thương dân, gắn bó với nông dân, đồng ruộng, ông thường đi xem cấy, gặt hái. Năm 1070 vua cho mở trường lập Văn Miếu tại kinh đô Thăng Long.
Trong 18 năm ở ngôi, vua Lý Thánh Tông đã 5 lần đặt niên hiệu, đó là: Long Thụy Thái Bình (1054-1058), Chương Thánh Gia Khánh (1059-1065), Long Chương Thiên Tự (1066-1068), Thiên Huống Bảo Tượng (1068-1069), Thần Vũ (1069-1072).
4. LÝ NHÂN TÔNG (1072-1127)
Tên húy là Càn Đức, con trưởng của Vua Lý Thánh Tông, mẹ đẻ là Linh Nhân Thái hậu (tức bà Ỷ Lan). Vua sinh ngày 25 tháng 1 năm Bính Ngọ (1066) tại kinh thành Thăng Long, lên ngôi tháng 1 năm Nhâm Tí (1072), ở ngôi 55 năm, mất ngày 12 tháng 12 năm Đinh Mùi (1127), thọ 61 tuổi.
Trong thời gian vua Lý Nhân Tông ở ngôi, nhà Tống có ý đồ xâm lược nước ta, vua và Thái úy Lý Thường Kiệt đã chủ động đánh đuổi quân Tống, và đã chiến thắng ở sông Như Nguyệt, đánh đuổi được quân Tống.
Năm 1076 vua cho mở trường Quốc Tử Giám ở kinh đô Thăng Long, cũng từ đây, nền giáo dục đại học của nước ta được khai sinh.
Trong 55 năm ở ngôi vua đã 8 lần đặt niên hiệu, đó là: Thái Ninh (1072-1076), Anh Vũ Chiêu Thắng (1076-1084), Quảng Hựu (1085-1092), Hội Phong (1092-1100), Long Phù (Long Phù Nguyên Hóa) (1101-1109), Hội Tường Đại Khánh (1110 – 1119), Thiên Phù Duệ Vũ (1120-1126), Thiên Phù Khánh Thọ (1127).
5. LÝ THẦN TÔNG (1127-1138)
Tên húy là Dương Hoán, con trưởng của em ruột vua Nhân Tông là Sùng Hiền Hầu, được Vua Trần Nhân Tông nhận làm con nuôi rồi sau truyền ngôi cho, mẹ đẻ là phu nhân họ Đỗ. Thần Tông là cháu ruột của Vua Nhân Tông. Vua sinh tháng 6 năm Bính Thân (1116), Năm Đinh Dậu (1117) thì được Nhân Tông nhận làm con nuôi. Khi vua Nhân Tông mất, ông được lên nối ngôi vào cuối tháng 12 năm Đinh Mùi (1127). Vua ở ngôi 10 năm, mất ngày 26 tháng 9 năm Mậu Ngọ (1138), thọ 22 tuổi.
Vua Lý Thần Tông coi trọng việc phát triển nông nghiệp, thực hiện chính sách “ngụ binh ư nông”, cho binh lính đổi phiên, cứ lần lượt 6 tháng một được về làm ruộng, do vậy nhân dân no đủ, an cư lạc nghiệp. Trong thời gian ở ngôi, vua Lý Thần Tông đã đặt hai niên hiệu: Thiên Thuận (1128-1132), Thiên Chương Bảo Tự (1133-1138).
6. LÝ ANH TÔNG (1138-1175)
Tên Húy là Thiên Tộ, con trưởng của Lý Thần Tông, mẹ đẻ là Lê thái hậu. Vua sinh tháng 4 năm Bính Thìn (1136) và lên ngôi ngày 1 tháng 10 năm Mậu Ngọ (1138), ở ngôi 37 năm, mất vào tháng 7 năm Ất Mùi (1175), thọ 39 tuổi.
Trong 37 năm ở ngôi, ông đã đặt 4 niên hiệu: Thiệu Minh (1138-1140), Đại Định (1140-1162), Chính Long Bảo Ứng (1163-1174), Thiên Cảm Chí Bảo (1174-1175).
7. LÝ CAO TÔNG (1175-1210)
Tên húy là Long Trát hay Long cán, là con thứ 6 của Vua Anh Tông, mẹ đẻ là Thụy Châu Thái hậu, người họ Đỗ. Vua sinh ngày 25 tháng 5 năm Quý Tị (1173), lên ngôi tháng 7 năm Ất Mùi (1175), ở ngôi 35 năm, mất ngày 28 tháng 10 năm Canh Ngọ (1210), thọ 37 tuổi.
Trong thời gian ở ngôi, vua ăn chơi vô độ do vậy giặc cướp nổi lên nhiều nơi, dân đói kém liên miên, cơ nghiệp nhà Lý suy đồi từ đây dù đã có dấu hiệu từ thời vua Lý Anh Tông.
Vua Lý Cao Tông có 4 lần đặt niên hiệu: Trinh Phù (1176-1186), Thiên Tư Gia Thụy (1186-1202), Thiên Gia Bảo Hựu (1202-1205), Trị Bình Long Ứng (1205-1210).
8. LÝ HUỆ TÔNG (1210-1224)
Tên húy là Hạo Sảm, con trưởng của Vua Cao Tông, mẹ đẻ là Đàm Thái Hậu. Vua sinh tháng 7 năm Giáp Dần (1194), được lập làm Thái tử vào tháng 1 năm Mậu Thìn (1208), lên ngôi cuối năm Canh Ngọ (1210), ở ngôi 14 năm. Năm Giáp Thân (1224), vua nhường ngôi cho con gái thứ là Lý Chiêu Hoàng rồi đi tu ở chùa Chân Giáo (trong thành Thăng Long, hiệu là Huệ Quang Thiền Sư). Mặc dù ông ở ngôi vua, nhưng mọi việc trong triều chính đều do Trần Thủ Độ điều hành. Huệ Tông sau bị nhà Trần bức tử vào tháng 8 năm Bính Tuất (1226), thọ 32 tuổi. Trong 14 năm trị vì, vua chỉ đặt một niên hiệu là Kiến Gia (1211-1224).
9. LÝ CHIÊU HOÀNG (1224-1225)
Tên húy là Phật Kim, lại có tên húy khác là Lý Thiên Hinh Nữ, được vua cha là Lý Huệ Tông phong làm Chiêu Thánh công chúa, là con thứ hai của vua Trần Huệ Tông, mẹ đẻ là Thuận Trinh thái hậu Trần Thị Dung. Bà sinh tháng 9 năm Mậu Dần (1218). Tháng 10 năm Giáp Thân (1224) được vua cha truyền ngôi. Đến tháng 12 năm Ất Dậu (1225) dưới sự đạo diễn của Trần Thủ độ, Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh (là cháu gọi Trần Thủ Độ bằng chú, sau này là vua Trần Thánh Tông), từ đây bà là Chiêu Thánh hoàng hậu. Nhà Lý chấm dứt từ đó. Lý Chiêu Hoàng mất vào tháng 3 năm Mậu Dần (1278), thọ 60 tuổi. Niên hiệu trong thời gian bà ở ngôi là Thiên Chương Hữu Đạo.
1. TRẦN THÁI TÔNG (1225-1258)
Tên thật là Trần Cảnh, nguyên quán Làng Tức Mặc, Phủ Thiên Trường, nay là xã Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Trần cảnh sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần (1218), con thứ của ông Trần Thừa, thân mẫu người họ Lê. Ngày 11 tháng 12 năm Ất Dậu (1225), Trần Cảnh chính thức lên ngôi hoàng đế, đổi niên hiệu là Kiến Trung, phong Lý Chiêu Hoàng làm Chiêu Thánh Hoàng hậu, phong Trần Thủ Độ là Thái sư thống quốc hành quân vụ chinh thảo sự.
Trong thời gian ở ngôi, vua đã đích thân dẫn quân đánh thắng quân Mông – Nguyên lần thứ nhất khi chúng sang xâm lược nước ta.
Ngày 24 tháng 2 năm Mậu Ngọ (1258), vua Trần Thái Tông nhường ngôi cho Thái tử Trần Hoảng, triều đình tôn Thái Tông lên làm Thái Thượng Hoàng để cùng coi việc nước. Ngày mùng một tháng 4 năm Đinh Sửu (1277), Thái Thượng hoàng mất, thọ 59 tuổi, ở ngôi được 33 năm, làm Thái thượng hoàng 19 năm. Trong thời gian ở ngôi, vua đã đặt ba niên hiệu Kiến Trung (1225-1232), Thiên Ứng Chính Bình (1232-1251), Nguyên Phong (1251-1258).
2. TRẦN THÁNH TÔNG (1258-1278)
Tên thật là Trần Hoảng, là con trưởng của vua Thái Tông, mẹ là Hiển Từ Thuận Thiên hoàng thái hậu Lý Thị. Vua sinh ngày 25 tháng 9 năm Canh tý (1240), ngay sau khi sinh đã được lập làm thái tử. Ngày 24 tháng 2 năm Mậu Ngọ (1258) được vua Trần Thái Tông truyền ngôi. Vua lên ngôi hoàng đế đổi niên hiệu là Thiệu Long năm thứ 1. Ngày 22 tháng 10 năm Mậu Dần, vua nhường ngôi cho con là Thái tử Khâm để lên làm Thượng hoàng 12 năm.
Trần Thánh Tông là một vị vua nhân từ độ lượng, hết lòng chăm lo việc nước. Về đối nội, nhà vua khuyến khích khai khẩn đất hoang, mở mang điền trang thái ấp bằng cách chiêu tập những người nghèo đói lưu lạc, giúp họ an cư lạc nghiệp. Nhà vua khuyến khích việc học hành bằng cách mở các khoa thi để lựa chọn người tài mà trọng dụng, thời Trần đã xuất hiện “Lưỡng quốc trạng nguyên” Mạc Đĩnh Chi, nhà sử học Lê Văn Hưu đã viết bộ quốc sử đầu tiên của nước ta là Đại Việt Sử Ký. Về đối ngoại, Vua Trần Thánh Tông đã thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo nhưng rất kiên quyết, nhằm bảo vệ danh dự và nền độc lập của tổ quốc. Mặt khác, quan tâm đến việc luyện tập quân sĩ, tích trữ lương thực, vũ khí chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên lần thứ hai. Ngày 25 tháng 5 năm Canh Dần – 1290 Thái thượng hoàng mất ở cung Nhâm Thọ, hưởng thọ 51 tuổi. Trong thời gian 20 năm ở ngôi, vua đã đặt 2 niên hiệu: Thiệu Long (1258-1272), Bảo Phù (1273-1278).
3. TRẦN NHÂN TÔNG (1279-1293)
Vua tên thật là Trần Khâm, sinh ngày 11 tháng 11 năm Mậu Ngọ (1258) tại kinh thành Thăng Long, là con trai trưởng của vua Trần Thánh Tông, thân mẫu nguyên là Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng Thái hậu. Trần Khâm được lập làm Thái tử tháng 12 năm Giáp Tuất. Ngày 22 tháng 10 năm Mậu Dần (1278), thái tử Khâm kế vị ngôi vua lấy hiệu là Nhân Tông.
Trần Nhân Tông là vị vua anh minh, quyết đoán, được sử ca ngợi là vị anh hùng cứu nước qua cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên. Ông là người cùng với Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông tổ chức Hội nghị Bình Than, Hội Nghị Diên Hồng, bàn kế đánh quân Mông – Nguyên.
Sau 15 năm làm vua, năm 1293, Trần Nhân Tông truyền ngôi cho con là Trần Anh Tông và lui về làm Thái Thượng Hoàng 6 năm, cho đến năm 1299 thì đi tu, trở thành thủy tổ phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Trần Nhân Tông qua đời ngày 3 tháng 11 năm Mậu Thân (1308) tại am Ngọa Vân núi Yên Tử, thọ 50 tuổi. Trong thời gian ở ngôi, vua đã đặt hai niên hiệu: Thiệu Bảo (1279-1285), Trùng Hưng (1285-1293).
4. TRẦN ANH TÔNG (1293-1314)
Vua tên thật là Trần Thuyên, sinh ngày 17 tháng 9 năm Bính Tí (1276) tại Thăng Long, là con trưởng của vua Trần Nhân Tông và mẹ là Khâm Từ Bảo Khánh Hoàng Thái hậu, có hai em là Huệ Võ Vương Quốc Chuẩn và em gái là Huyền Trân Công chúa. Trần Thuyên được phong làm Thái tử vào tháng 2 năm Nhâm Thìn (1292), lên ngôi vào tháng 3 năm Quý Tị (1293). Ngày 18 tháng 3 năm Giáp Dần (1314) nhường ngôi cho thái tử Mạnh để làm Thái thượng hoàng 6 năm. Vua mất ngày 16 tháng 3 năm Canh Thân (1320), ở ngôi được 21 năm, thọ 44 tuổi.
Vua Trần Anh Tông khéo biết kế thừa sự nghiệp của tổ tiên, cho nên thời cuộc đi đến thái bình, chính trị trở nên tốt đẹp, đất nước ngày càng thịnh vượng, cũng là một vua tốt của triều Trần. Trong 21 năm ở ngôi, vua chỉ đặt một niên hiệu duy nhất là Hưng Long.
5. TRẦN MINH TÔNG (1314-1329)
Tên thật là Trần Mạnh, con thứ tư của vua Trần Anh Tông, mẹ là Chiêu Hiến Hoàng Thái hậu Trần Thị (con gái của Bảo Nghĩa đại vương Trần Bình Trọng). Trần Mạnh sinh năm Canh Tý (1300), được lập làm Thái tử năm Ất Tị (1305). Ngày 18 tháng 3 năm Giáp Dần (1314) lên ngôi vua, năm Ất Tị (1329) nhường ngôi cho Thái tử Vượng để làm Thượng hoàng 28 năm, mất ngày 19 tháng 2 năm Đinh Dậu (1357), thọ 57 tuổi.
Vua Trần Minh Tông có lòng nhân hậu, biết tôn trọng nhân tài nên có nhiều hiền thần dưới trướng như Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu, Chu Văn An, Nguyễn Trung Ngạn, Đoàn Nhữ Hài, nhưng đã quá tin bọn nịnh thần giết oan chú ruột, đồng thời là bố vợ là Huệ Võ Vương Trần Quốc Chẩn.
Trong 15 năm ở ngôi, vua Trần Minh Tông đã đặt 2 niên hiệu: Đại Khánh (1314-1323), Khai Thái (1324-1329).
6. TRẦN HIẾN TÔNG (1329-1341)
Tên thật là Trần Vượng, con thứ của Trần Minh Tông, thân mẫu là bà Minh Từ hoàng thái phi Lê Thị. Trần Vượng sinh ngày 17 tháng 5 năm Kỷ Mùi (1319), được lập làm Thái tử ngày 7 tháng 2 năm Kỷ Tỵ (1329). Ngày 15 tháng 2 năm Kỷ Tị (1329) lên ngôi vua khi mới 10 tuổi, ở ngôi 12 năm, mất ngày 11 tháng 6 năm Tân Tị (1341), thọ 22 tuổi. Tuy Trần Hiến Tông làm vua nhưng việc điều khiển triều chính đều do Thái Thượng Hoàng Minh Tông đảm nhận.
Trong 12 năm ở ngôi, Trần Hiến Tông chỉ đặt một niên hiệu là Khai Hựu (1329-1341).
7. TRẦN DỤ TÔNG (1341 – 1369)
Tên thật là Trần Hạo, con thứ 10 của vua Trần Minh Tông, thân mẫu là Hiến Từ hoàng hậu. Trần Hạo sinh ngày 19 tháng 10 năm Bính Tý (1336), lên ngôi ngày 21 tháng 8 năm Tân Tỵ (1341). Khi Thái thượng hoàng Trần Minh Tông mất, các trung thần như Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn cũng mất, Chu Văn An treo ấn từ quan, vua thì rượu chè ăn chơi quá độ, nên giặc giã nổi lên khắp nơi, dân khổ trăm bề.
Năm Kỷ Dậu (1369) vua Trần Dụ Tông mất, ở ngôi được 28 năm, thọ 34 tuổi. Trong thời gian ở ngôi, vua đã đặt hai niên hiệu Thiệu Phong (1341-1357), Đại Trị (1358-1369).
Khi vua Trần Dụ Tông mất thì bão táp ở cung đình nhà Trần nổi lên vì Hoàng thái hậu nhất định đòi lập người con nuôi của Cung Túc Vương là Dương Nhật Lễ lên ngôi. Mẹ Nhật Lễ là một đào hát đã lấy kép hát là Dương Khương có thai rồi mới bỏ chồng mà lấy Cung Túc Vương sinh ra Nhật Lễ. Nhật Lễ lên làm vua muốn cải họ Dương để dứt ngôi nhà Trần, nên cho giết bà Hoàng thái hậu và nhiều quý tộc họ Trần. Các tôn thất nhà Trần hội nhau khởi binh giết chết Nhật Lễ (ngày 21 tháng 11 năm Canh Tuất – 1370) rồi lên Đà Giang rước Cung Tĩnh Vương về làm vua, tức là Trần Nghệ Tông. Trong thời gian soán ngôi, Dương Nhật Lễ có đặt một niên hiệu là Đại Định (1369-1370).
8. TRẦN NGHỆ TÔNG (1370-1372).
Vua tên thật là Trần Phủ, con thứ ba của Vua Trần Minh Tông, mẹ đẻ họ Lê là Minh Từ hoàng thái phi. Trần Phủ sinh vào tháng 2 năm Tân Dậu (1321), lên ngôi ngày 15 tháng 11 năm Canh Tuất (1370), ở ngôi được 2 năm, nhường ngôi làm Thái thượng hoàng 22 năm, mất ngày 15 tháng 12 năm Giáp Tuất (1394), thọ 73 tuổi.
Vua dẹp yên được loạn bên trong, khôi phục cơ đồ nhà Trần, nhưng thiếu cương nghị, quyết đoán. Bên ngoài, vua Chiêm thành là Chế Bồng Nga đem quân đánh kinh đô Thăng Long, vua Nghệ Tông phải bỏ kinh thành chạy sang Đình Bảng lánh nạn. Ngày 9 tháng 11 năm Nhâm Tý (1372), Nghệ Tông nhường ngôi cho em là Trần Kính, lui về Thiên Trường làm Thái thượng hoàng. Trong thời gian 2 năm ở ngôi, vua đặt một niên hiệu là Thiệu Khánh.
9. TRẦN DUỆ TÔNG (1372-1377)
Tên thật là Trần Kính, con thứ 11 của Vua Trần Minh Tông, em vua Nghệ Tông, mẹ là Đôn Từ hoàng thái phi. Trần Kính sinh ngày 2 tháng 6 năm Đinh Sửu (1337). Khi Nghệ Tông lánh nạn, Trần Kính chiêu mộ quân lính, vũ khí, lương thực để đánh Nhật Lễ, đón Nghệ Tông về. Nghệ Tông lên ngôi 2 năm thì nhường ngôi cho Trần Kính tức Trần Duệ Tông vào ngày 9 tháng 11 năm Nhâm Tí (1972).
Trong một trận đánh với Chiêm Thành, vua Trần Duệ Tông không nghe lời can, khinh thường quân giặc nên tử trận ngày 24 tháng 1 năm Đinh Tị (1377). Nghệ Tông làm vua được 5 năm, thọ 40 tuổi. Trong thời gian ở ngôi, vua Trần Duệ Tông chỉ đặt một niên hiệu là Long Khánh.
10. TRẦN PHẾ ĐẾ (1377-1388)
Tên thật là Trần Hiện, con trưởng của vua Trần Duệ Tông, mẹ là bà Gia Từ hoàng hậu Lê Thị. Vua sinh ngày 6 tháng 3 năm Tân Sửu (1361). Khi vua Trần Duệ Tông chết ở mặt trận phương Nam, Thượng hoàng Nghệ Tông lập Trần Hiện lên ngôi vua ngày 13 tháng 5 năm Đinh Tỵ (1377). Vua nhu nhược nên quyền lực ngày càng rơi vào tay Hồ Quý Ly. Thượng hoàng Nghệ Tông giáng Phế Đế xuống làm Linh Đức Đại Vương, sau đó bức tử vào ngày 6 tháng 12 năm Mậu Thìn (1388) thọ 27 tuổi. Trong thời gian 11 năm ở ngôi, vua chỉ đặt một niên hiệu là Xương Phù.
11. TRẦN THUẬN TÔNG (1388-1398)
Tên thật là Trần Ngung, con út của vua Trần Nghệ Tông, thân mẫu là Lê Thái hậu. Vua sinh năm Mậu Ngọ (1378), lên ngôi năm Mậu Thìn, ở ngôi được 10 năm, đến tháng 3 năm 1398 bị Hồ Quý Ly ép nhường ngôi cho con trai là Trần Án (Trần Án là cháu ngoại Hồ Quý Ly) để đi tu ở cung Bảo Thanh tại núi Đại Lại (Thanh Hóa). Xuất gia hơn 1 năm thì bị Hồ Quý Ly bức tử chết vào tháng 4 năm Kỷ Mão (1399), thọ 21 tuổi, Vua thật ra chỉ giữ ngôi trên hình thức, mọi quyền lực điều hành đã vào tay bố vợ là Hồ Quý Ly. Trong thời gian ở ngôi, vua Trần Thuận Tông đặt niên hiệu duy nhất là Quang Thái.
12. TRẦN THIẾU ĐẾ (1398-1400)
Tên thật là Trần Án, con trưởng của Trần Thuận Tông, thân mẫu là con gái của Hồ Quý Ly, tước hiệu Khâm Thánh hoàng thái hậu. Vua sinh năm Bính Tý (1396), lên ngôi ngày 15 tháng 3 năm Mậu Dần (1398). Ngày 28 tháng 2 năm Canh Thìn (1400) bị Hồ Quý Ly buộc nhường ngôi, giáng làm Bảo Ninh Đại Vương. Vua vốn là cháu ngoại của Hồ Quý Ly nên không bị giết, nhưng không rõ mất vào năm nào. Trong thời gian ở ngôi, vua có niên hiệu là Kiến Tân.
Dưới thời nhà Nguyễn có bao nhiêu đời vua, bao nhiêu đời chúa?
A. Chín đời vua, chín đời chúa.
B. Chín đời chúa và mười ba đời vua.
C. Chín đời vua, mười ba đời chúa.
D. Tám đời vua, mười đời chúa.
thời Lý có bao nhiêu đời vua nhỉ
Tham khảo
Vương triều nhà Lý trải qua 9 đời vua: - Vua Lý Thái Tổ, tên húy là Lý Công Uẩn, người châu Cổ Pháp (thuộc huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh ngày nay). - Vua Lý Thái Tông, tên húy là Lý Phật Mã hay Lý Đức Chính, con trưởng của vua Lý Thái Tổ và bà Lê Thái hậu.
Cho mình hỏi là Ai Cập cổ đại có bao nhiêu vị vua từ đời vua Namer
có bao nhiêu đời vua Hùng và viết 1 bài văn về vị vua đầu tiên.
18 đời và tui là vị vua dầu =)))
có 4 đời . cô giáo tui hom nay cho tui ôn thi có câu này
18 đời chứ mấy còn văn vủng gì thì chịu
đố các cậu việc nam có bao nhiêu đời vua
hiiiiiii !!!!!!!!!!
Việt Nam có khoảng chục triều đại với hàng trăm đời cua và thời kì tồn tại của mỗi đời vua cũng khác nhau.
@sen phùng
Vương triều Nguyễn tồn tại trong khoảng thời gian nào?Có bao nhiêu đời vua?
A. Từ 1801 đến 1945. Có 13 đời vua
B. Từ 1802 đến 1858. Có 12 đời vua
C. Từ 1802 đến 1885. Có 13 đời vua
D. Từ 1802 đến 1945. Có 13 đời vua
Mình hỏi tí nhé : Triều đại nhà Lê có bao nhiêu đời vua ?
nhà hậu lê có 26 đời vua
nhà lê sơ(hay tiền lê) có 10 đời
Vương triều Nguyễn ở Việt Nam tồn tại trong khoảng thời gian nào? Có bao nhiêu đời vua?
A. Từ 1801 đến 1945. Có 13 đời vua
B. Từ 1802 đến 1858. Có 12 đời vua
C. Từ 1802 đến 1885. Có 13 đời vua
D. Từ 1802 đến 1945. Có 13 đời vua