Phân tích hình tượng đất nước tươi đẹp trong thơ ca 1945-1975
Phân tích và so sánh hình tượng đất nước trong đoạn trích Đất nước (trong trường ca Mặt Đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm) và bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi.
1. Mở bài:
- Giới thiệu khái quát về hai bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi và Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm.
- Giới thiệu vấn đề nghị luận : Hình tượng đất nước trong hai bài thơ
2. Thân bài:
- Làm rõ đối tượng thứ nhất: Hình tượng đất nước trong bài Đất nước của Nguyễn Đình Thi
- Làm rõ đối tượng thứ hai: Hình tượng đất nước trong Bài Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
- So sánh: nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả hai bình diện nội dung và hình thức nghệ thuật
Những đặc điểm giống nhau về hình tượng đất nước của 2 bài thơ:
Nguyễn Đình Thi khởi đầu bài thơ bằng những xúc cảm trước vẻ đẹp mùa thu. Đây là một quyết định khéo léo bởi vì trước kia mùa thu bao giờ cũng là thu thảm thu sầu còn từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 trở đi thì mùa thu vui – mùa thu cách mạng, mùa thu khai sinh ra đất nước.
Khởi đầu bằng những cảm xúc trước vẻ đẹp mùa thu giúp cho Nguyễn Đình Thi có được những suy tư về đất nước một cách tự nhiên và thoải mái hơn.
Nguyễn Khoa Điềm khắc họa hình tượng đất nước mình bằng cách đặt hình tượng này trong mối liên hệ với thời gian và không gian cụ thể còn về sau là thời gian không gian trừu tượng.
Đất nước được nhìn qua chiều dài của thời gian và mặt khác đất nước được xác định bởi những không gian có thể là những không gian nhỏ, không gian cụ thể và cũng có thể là những không gian mênh mông không gian trừu tượng trong lòng người.
Hình tượng đất nước sẽ rất hoàn thiện khi nó được đặt trong 2 mối liên hệ này.
Về phương diện nghệ thuật: hình tượng đất nước trong 2 bài thơ của Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm có khá nhiều nét tương đồng.
Vì đây là hình tượng đất nước được khắc họa trong thơ ca mà hình tượng thơ lại là hình tượng cảm xúc, cho nên cả 2 tác giả đều viết về đất nước bằng niềm tự hào sâu sắc, bằng những nhận thức thấm thía về lịch sử về truyền thống dân tộc.
Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã khắc họa hình tượng đất nước của mình với 2 đặc điểm rất lớn, vừa trái ngược nhau lại vừa rất hài hòa với nhau.
Đấy là một đất nước vất vả đau thương với những cảnh đồng quê chảy máu dây thép gai đâm nát trời chiều, với cái cảnh "bát cơm chan đầy .... còn giằng khỏi miệng ta". Tuy nhiên đất nước chúng ta còn là một đất nước anh hùng quật khởi và một cái đất nước quật cường đã khiến cho kẻ thù bất lực.
Xiềng xích chúng bay .... ....Lòng dân ta yêu nước thương nhàNhà thơ Nguyễn Khoa Điềm còn miêu tả những hình ảnh dân tộc bằng cách nối liền hiện tại với quá khứ và tương lai. Từ điểm nhìn hiện tại, Nguyễn Đình Thi lắng nghe những tiếng rì rầm trong lòng đất của quá khứ vọng về.
Đấy là tiếng nói hình ảnh của đất nước chưa bao giờ khuất. Đồng thời cảm hứng thơ còn đưa Nguyễn Đình Thi hướng tới tương lai. Ông như nhìn trước một nước Việt Nam từ trong máu lửa rũ bùn đứng dậy sáng lòa.
Còn ở trong bài thơ đất nước của mình, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lại bộc lộ niềm tin sâu sắc của ông về những hình ảnh văn hóa lâu đời.
Để viết nên bài thơ đất nước của mình, Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng với một mật độ rất cao các chất liệu văn hóa dân gian. Dựa trên rất nhiều câu ca dao tục ngữ, để viết nên những câu thơ của mình.
Ông còn đưa vào bài thơ rất nhiều truyền thuyết, những sinh hoạt phong tục tập quán đậm đà bản sắc dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm còn ý thức một cách rất sâu sắc về những đóng góp lớn lao của nhân dân cho đất nước.
Đó là những đóng góp từ nhỏ nhặt cho đến lớn lao, những đóng góp được ghi lại trong sử sách và cả những đóng góp âm thầm lặng lẽ không ai biết. Đó còn là những đóng góp kiên nhẫn, bền bỉ truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Những điểm khác nhau của hình tượng đất nước ở 2 tác phẩm
Đây là 2 bài thơ được ra đời ở 2 thời điểm rất khác nhau và chính điều đó đã khiến cho hình tượng đất nước ở 2 bài thơ này có nhiều chỗ khác biệt.
Nguyễn Đình Thi thì khắc họa hình tượng đất nước với 2 đặc điểm và đặt hình tượng đất nước trong mối quan hệ với quá khứ và tương lai.
Trong khi ấy Nguyễn Khoa Điềm lại viết bài thơ này theo một định hướng tư tưởng nhằm chứng minh: "đất nước này là đất nước của người dân", mà tư tưởng cơ bản này đã chi phối toàn bộ bài thơ và nó qui định bút pháp, nó buộc Nguyễn Khoa Điềm phải chọn cái giải pháp đi từ cụ thể đến khái quát.
Điều này là rất dễ giải thích bởi vì bản thân tư tưởng đất nước của người dân vốn đã là trừu tượng. Để cho sáng tỏ nó chỉ có một cách là đi từ rất nhiều những hình ảnh cụ thể, những đóng góp của người dân cho đất nước, những chất liệu văn hóa dân gian… để rồi từ rất nhiều hình ảnh cụ thể ấy tư tưởng đất nước của người dân mới được làm sáng tỏ.
Lí giải sự khác biệt: Thực hiện thao tác này cần dựa vào các bình diện: bối cảnh xã hội, văn hóa mà từng đối tượng tồn tại; phong cách nhà văn; đặc trưng thi pháp của thời kì văn học ...
- Do sự khác biệt về phong cách: Thơ Nguyễn Đình Thi thường giàu nhạc tính có chất hội họa và điều đặc sắc nhất là có cả những suy tư sâu sắc của một tư duy triết học.
Còn thơ Nguyễn Khoa Điềm thường viết về cuộc đấu tranh cách mạng. Ông hay đề cao phẩm chất của những bà mẹ anh hùng, những chiến sĩ giải phóng kiên cường… Đặc biệt ông có những cảm nhận rất phong phú và sâu sắc về đất nước trong những năm chống Mĩ.
- Về phương diện bố cục: Chúng ta rất dễ dàng nhận thấy ở 2 bài thơ đất nước đều chia làm 2 phần nhưng sự liên kết 2 phần ở mỗi bài lại rất khác nhau.
Bài đất nước của Nguyễn Đình Thi được bắt đầu bằng những xúc cảm trước vẻ đẹp của mùa thu, mùa thu Hà Nội trong hồi tưởng và mùa thu Việt Bắc trong hiện tại. Để rồi sau đó mới chuyển sang quá khứ 2 thời điểm để diễn tả những suy tư cả tác giả đối với đất nước.
Trong khi ấy thì bố cục 2 phần của bài thơ đất nước của Nguyễn Khoa Điềm lại theo một cách hoàn toàn khác. Phần 1 dành cho việc khắc họa hình tượng đất nước trong mối liên hệ với thời gian. Để rồi toàn bộ phần 2 nhằm chứng minh cho tư tưởng với đất nước của người dân.
3. Kết bài:
- Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu.
- Có thể nêu những cảm nghĩ của bản thân.
Hình tượng người lính trong thơ ca Việt Nam 1945 – 1975
Cách mạng tháng Tám thành công đã mở đầu một kỉ nguyên mới trong lịch sử dân tộc. Đồng thời mở ra một kỉ nguyên mới cho văn học Việt Nam – một nền thơ ca phản ánh sự bùng nổ toàn diện sức mạnh tiềm tàng của dân tộc, trước vận hội lịch sử đã tích tụ qua nhiểu thế kỉ.
Đọc thơ ca Việt Nam 1945 – 1975, chúng ta thấy cuồn cuộn niềm vui của hàng triệu người ra trận, thấy được những mất mát đau thương, những khát khao, ước vọng chân thành… Ba mươi năm liên tục đấu tranh chống kẻ thù cũng là khoảng thời gian văn học phát triển mạnh mẽ không ngừng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Văn học lấy đề tài chiến tranh, viết về chiến tranh cách mạng. Thơ cũng như văn, hết lòng ca ngợi người anh hùng, người lính, người mẹ, thanh niên xung phong… Tất cả hiện lên trong tác phẩm với mọi tầng lớp, lứa tuổi, dân tộc… y như thật ở trên đời. Và họ đẹp – cái đẹp tiêu biểu cho cả thời đại. Cái đẹp ấy kết tinh đậm đà ở hình tượng anh bộ đội cụ Hồ – anh vệ quốc quân, anh giải phóng quân. Bởi các anh chính là người anh hùng suốt hai cuộc kháng chiến trường kì.
Nội dung:
Dân tộc ta đã tiến hành 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và đã giành thắng lợi vẻ vang. Lẽ tất nhiên, ở đất nước mà hơn ba mươi năm không dời tay súng, hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ là hình ảnh con người đẹp nhất, đáng yêu nhất là niềm tự hào lớn của cả dân tộc. Những chiến sỹ bộ đội cụ Hồ – anh vệ quốc quân trước kia, anh giải phóng quân sau này đã đi qua 2 cuộc kháng chiến và viết lên những chiến công chói lọi: Điện Biên Phủ, cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1968, Điện Biên Phủ trên không, đặc biệt là cuộc tổng tiến công và nổi dậy vĩ đại mùa xuân 1975 mang tên chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Những chiến công đó đã đi vào lịch sử như những Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa của thế kỉ XX. Đó là bước đi của người anh hùng tiếp nối con đường rực rỡ của cha ông, đang nhịp bước cùng thời đại với tư cách của “Người lính đi đầu” . Vì thế, trong cuộc sống cũng như trong thơ ca, hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ bao giờ cũng chiếm chỗ cao nhất trong tâm hồn quần chúng và trong trái tim của các nhà thơ.
Trước hết, trong thơ ca đã giới thiệu với chúng ta hình ảnh trung thực của anh bộ đội cụ Hồ thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
Là con đẻ của nhân dân lao động nghèo khổ, anh ra đi từ những miền quê nghèo khắp mọi miền đất nước:
“Quê hương anh đất mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.
(Đồng Chí – Chính Hữu)
Từ những con người vốn xa lạ, khi vào bộ đội các anh đã gắn bó với nhau trong tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”.
(Đồng Chí – Chính Hữu)
Anh mang bản chất chất phác, giản dị, trung thực. Thực ra anh là người nông dân mặc áo lính.
“Anh chiến sỹ hiền lành
Tỳ tay trên mũi súng”.
(Cá nước – Tố Hữu)
Xuất thân từ người lao động, anh bộ đội cụ Hồ rất giàu nghị lực. Anh dẻo dai bền bỉ hành quân vượt qua “trăm suối ngàn khe”, vượt suốt, trèo đèo trong cảnh “ngày nắng đốt” chói chang, những “đêm mưa dầm dề, gió buốt chân tay” quanh năm suốt tháng. Không một khó khăn, trở lực ngăn được bước tiến của anh:
“Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo”.
(Lên Tây Bắc – Tố Hữu)
Nói tới người chiến sỹ là nói đến lòng kiên cường, dũng cảm tuyệt vời. Anh là hiện thân của chủ nghĩa anh hùng cách mạng thời đại mới. Đáp lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch: “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Anh đánh giặc bằng những vũ khí thô sơ nhất của quê hương với khẩu hiệu: Cướp súng giặc để giết giặc:
“Lột sắt đường tàu
Rèn thêm dao kiếm
áo vải chân không
Đi lùng giặc đánh”.
(Nhớ – Hồng Nguyên)
Trong buổi đầu của cuộc kháng chiến ấy, các anh phải chịu đựng bao gian khổ, khó khăn: Thiếu từ những trang bị tối thiểu “áo anh rách vai”, “Quần tôi vài mảnh vá”, “Chân không giầy”, thêm vào đó thiếu thuốc men – bệnh số rét rừng hành hạ. Khó khăn chồng chất vẫn không làm mất đi dáng vẻ oai hùng, tâm hồn mơ mộng, lãng mạn của người lính Tây Tiến:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùng
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.
(Tây Tiến – Quang Dũng)
Không thể tính được những hy sinh mất mát mà các anh phải trải qua và chịu đựng:
“Khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng
Chí không mòn
Những đồng chí thân chôn làm giá súng
Đầu bịt lỗ chân mai
Băng mình qua núi thép gai
ào ào vũ bão ”
(Hoan hô chiến sỹ Điện Biên – Tố Hữu)
Nguồn gốc sức mạnh để giúp các anh vượt lên tất cả là lòng yêu nước thiết tha, lòng căm thù giặc cháy bỏng. Trước sự hy sinh của người đồng đội, đau thương chút lên đầu ngọn súng, chỉ còn một sự trả thù cao cả:
“Mai mốt bên cửa rừng
Anh có nghe súng nổ
Là chúng tôi đang cố
Tiêu diệt kẻ thù chung”
(Viếng bạn – Hoàng Lộc)
Tình yêu thương của người chiến sỹ là tình yêu lớn. Trong đó riêng, chung kết hợp hài hòa. Tâm tư, lý tưởng giản dị mà sâu sắc:
“Con ra tiền tuyến xa xôi
Yêu bầm yêu nước cả đôi mẹ hiền”.
(Bầm ơi – Tố Hữu)
Đến với nhân dân “Các anh về mái ấm nhà êm/ Các anh về xôn xao làng bé nhỏ“, (Bao giờ trở lại – Hoàng Trung Thông). Anh đi đến đâu, ở đó có sự sống và niềm vui:
“Anh về cối lại vang rừng
Chim reo quanh mái, gà mừng dưới sân
Anh về, sáo lại ái ân
Đêm trăng hò hẹn trong ngần tiếng ca…”
(Lên Tây Bắc – Tố Hữu)
Là con đẻ của nhân dân, được nhân dân yêu thương, che chở, các anh đã cùng với toàn dân tộc làm nên một huyền thoại của thời đại, quyết định số phận thực dân Pháp ở lòng chảo Điện Biên Phủ bằng chiến thắng vang dội:
“Đánh một trận dập đầu quỷ dữ
Sáng nghìn năm lịch sử Điện Biên”
(Hoan hô chiến sỹ Điện Biên – Tố Hữu)
Pháp thua, Mỹ lại nhảy vào Miền Nam, các anh lại phải cầm súng đánh Mỹ. Người chiến sỹ trong thời đại chống Mỹ vẫn mang vẻ đẹp của thế hệ chống Pháp nhưng có tầm vóc cao đẹp hơn. Vẫn là anh, con người hết sức bình dị mà rất đỗi kiên cường:
“Vẫn đôi dép lội chiến trường
Vẫn vành mũ lá coi thường hiểm nguy”
(Tiếng hát sang xuân – Tố Hữu)
Đó là sự tiếp nối tự nhiên của hai thế hệ cầm súng mà sức mạnh nhân lên cùng năm tháng. Đó là sự kế thừa của truyền thống “ Bốn mươi thế kỉ cùng ra trận ” – ( Tố Hữu). Tâm hồn người chiến sỹ hôm nay náo nức lời kêu gọi của Bác Hồ: ” Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta còn phải chiến đấu quét sạch nó đi “. Tâm hồn ấy còn vang vọng tiếng thơ kiên cường của Lý Thường Kiệt, lời hịch sang sảng của Trần Quốc Tuấn, khí thế oai hùng của Tây Sơn “Rạo rực lòng ta trống trận Quang Trung” – (Tố Hữu). Có một cái gì rất khác ở anh Vệ quốc quân thời chống Pháp. Đó là chiều sâu mới, tầm cỡ mới của ý thức với dân tộc và thời đại:” Ta vì ta ba chục triệu người/ Cũng vì ba ngàn triệu trên đời” – (Tố Hữu). Anh đánh Mỹ với một sức mạnh phi thường:
” Những dũng sỹ đâm lê Núi Thành
Mắt tìm thù sao bay rực rỡ
Rượt đuổi thù chân như chiến mã
Đâm chết thù sức núi dồn tay”.
(Những dũng sỹ đâm lê Núi Thành – Phạm Hổ)
Lòng căm thù của anh có thêm ” nghìn độ lửa thiêu” và trở thành vô địch:
” Lấy nỗi đau vô cùng làm sức mạnh vô biên
Bước truy kích đạp trăm rào gai sắc”.
( Bài thơ về hạnh phúc – Dương Hương Ly)
Niềm tự hào cũng đạt tới đích cao vời vợi, anh đã trở thành nhân vật huyền thoại của thời đại mới:
” Con đứng đây dưới Trường Sơn hùng vĩ
Mười tám sức trai luyện lửa thành đồng
Chân như pha sắt, hồn pha thép
Ngẩng cao đầu thở gió biển đông
(Phan Minh Đạo)
Con đường Trường Sơn – con đường huyết mạch nối hậu phương lớn với tiền tuyến lớn – Nơi đế quốc Mỹ chút xuống không biết bao nhiêu tấn bom đạn và chất độc hóa học, lại là con đường gắn bó máu thịt với các anh bộ đội lái xe. Bom đạn kẻ thù, đã làm cho những chiếc xe bị phá hủy đến trơ trụi, mất đi mọi thứ bên ngoài:
” Không kính, rồi xe không đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước”
Nhưng trên những chiếc xe ấy, người chiến sỹ vẫn ” Ung dung buồng lái ta ngồi/Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng “. Bất chấp bom đạn kẻ thù:
” Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
( Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Phạm Tiến Duật)
” Có một trái tim”- trái tim đó chính là tình yêu thương mênh mông với đồng bào, đồng chí ở Miền Nam, đó là lòng căm thù giặc cháy bỏng. Dường như cả những kỷ niệm tuổi thơ cũng tiếp thêm sức mạnh, niềm tin cho người chiến sỹ chiến đấu và vượt lên mọi khó khăn thử thách. Ta hãy nghe tâm sự của một chiến sỹ với người bà kính yêu ở hậu phương:
” Cháu chiến đấu hôm nay
Vì lòng yêu tổ Quốc
Vì xóm làng thân thuộc
Bà ơi, cũng vì bà
Vì tiếng gà cục tác
ổ trứng hồng tuổi thơ.
( Tiếng gà trưa – Xuân Quỳnh)
Chính vì được giác ngộ lý tưởng sâu sắc, ngươi chiến sỹ đứng trên đỉnh cao mới của chủ nghĩa anh hùng cách mạng: dám đánh Mỹ và thắng Mỹ. Anh xứng đáng là những ” Con người đẹp nhất “, là niềm tự hào của dân tộc:
“Hoan hô anh giải phóng quân
Kính chào anh con người đẹp nhất
Lịch sử hôn anh chàng trai chân đất
Sống hiên ngang bất khuất ở trên đời
Như Thạch Sanh của thế kỷ hai mươi
Một dây ná, một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ
Không tự ngắm mình anh chẳng hay đâu
Hỡi chàng dũng sỹ
Cả năm châu chân lý đang nhìn theo”.
( Bài ca xuân 68 – Tố Hữu)
Sự hy sinh của người lính là sự hy sinh trong sáng, là ” Cái chết hóa thành bất tử “- ( Tố Hữu ) trong lòng nhân dân, trong lòng đất nước. Lê Anh Xuân đã ghi lại một trường hợp hy sinh điển hình để lại dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ:
” Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun như lửa đạn cầu vồng”
( Dáng đứng Việt Nam – Lê Anh Xuân)
Con đường đi của anh bộ đội cụ Hồ là con đường của những chiến công kỳ diệu. Từ chân đất, anh “cưỡi máy bay lướt giữ không gian”- (Thanh Hải) . Từ mang ngọn tầm vông, anh điều khiển dàn tên lửa. Anh là hiện thân của sức mạnh nhân dân anh hùng. Trong đại thắng mùa xuân 1975, anh truy kích kẻ thù bằng những bước chân của Phù Đổng, hào khí của Lê Lợi, Quang Trung:
” Anh đánh như sét nổ trời rung
Anh chuyển như lũ dồn bão cuốn
Chặt Buôn Mê Thuật rụng cả Tây Nguyên
Quét Huế – Thừa Thiên đổ nhào Đà Nẵng”
( Toàn thắng về ta – Tố Hữu)
Các anh lại viết lên một huyền thoại mới của thời đại, được cả ” Năm châu, chân lý” nhìn theo, cái nhìn trìu mến và khâm phục. Tuy nhiên, không vì vậy mà anh bị thần thánh hóa, trái lại vẫn là những con người mang cốt cách bình dị. Dũng sỹ diệt Mỹ qua con mắt trẻ thơ:
” Cháu nghe chú đánh những đâu
Những tàu chiến cháy, những tàu bay rơi
Đến đây chỉ thấy chú cười
Chú đi gánh nước chú ngồi đánh bi”
( Gửi theo các chú bộ đội – Trần Đăng Khoa)
Anh bộ đội cụ Hồ là kết tinh của bình thường và phi thường, của vĩ đại và giản dị. Và còn là sự kết tinh của nhiều phẩm chất ” Yêu thương mênh mông”, ” Căm hờn cháy bỏng”, ” rất mãnh liệt và cũng rất dịu dàng”. Người chiến sỹ có tầm vóc lớn lao của thời đại, phẩm chất của anh là ” Thước đo mọi giá trị trên đời”. Đó là vì anh đã phấn đấu bền bỉ qua hai cuộc kháng chiến, được nhân dân nuôi dưỡng và truyền cho dòng sữa nhân nghĩa, anh hùng của bốn nghìn năm, được thời đại cho tư tưởng khoa học và cách mạng Mác – Lê nin, được Đảng, Bác chăm lo giáo dục và rèn luyện:
” Tổ quốc cho anh dòng sữa tự hào
Thời đại cho anh ánh sao trí tuệ”
( Tố Hữu)
Tiếng súng lại nổ ở hai đầu biên giới. Các anh lại phải ra Bắc vào Nam thực sự là điểm tựa của lịch sử và của nhân dân để bảo vệ vững chắc Tổ Quốc thân yêu. Anh là niềm tự hào lớn của dân tộc, là điển hình cao đẹp cho người anh hùng trong thời đại. Anh mãi và sẽ là nguồn cảm hứng không bao giờ vơi cạn trong những sáng tác thơ ca.
III. Kết luận:
Đọc những trang thơ kháng chiến giai đoạn 1945 – 1975, chúng ta hiểu thêm cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ của con người sống trong chiến tranh ác liệt. Đồng thời ta thấy được bản chất anh hùng cách mạng của người lính.
Thơ kháng chiến là tiếng đại bác gầm rung và cũng là tiếng chim ca hát bình minh. Chất trữ tình và chất anh hùng ca hoà quyện trong hồn thơ, trong mỗi bài, mỗi câu, mỗi ý thơ. Nó bảo tồn được sức sống không chỉ vì đó là tiếng nói của thời đại lịch sử mà còn là tiếng nói trái tim của những phong cách thơ riêng. Thơ trong giai đoạn này đã phát hiện tư thế người lính đối diẹn với lịch sử, với chân trời tự nhiên luôn giãn nở. Các anh là linh hồn của hai cuộc kháng chiến trường kì. ở các anh có sự hội tụ đầy đủ phẩm chất, tâm hồn và tính cách, hành động tiêu biểu cho những con người anh hùng dân tộc.
Chiến tranh đã qua đi nhưng kí ức về những con người làm nên lịch sử còn hằn sâu trong tâm trí mỗi người dân Việt Nam. Lớp người của thế hệ hôm nay xin tiếp nối truyền thống ông cha để làm vẻ vang non sông, để đất nước Việt Nam mãi là:
“ Đất nước của Nhân dân,
Đất nước của ca dao, thần thoại.”
Để tạo nên sự phong phú và đa dạng cho nền văn học Việt nam, mỗi nhà thơ đều chọn cho mình một đề tài sáng tác riêng tuy nhiên trong nền văn học 1945 – 1975 ít có nhà thơ nào không dành hết tình cảm và tâm huyết của mình cho đề tài cách mạng, quê hương đất nước. Đó là bức tranh của những ngày tháng gian khổ mà hào hùng, đó là khoảng thời gian xảy ra biết bao nhiêu thảm cảnh: bom đạn, máu chảy chết chóc…nhưng nhân dân ta vẫn kiên cường đấu tranh dành thắng lợi. Đặc biệt nổi bật trong bức tranh quê hương, bức tranh cách mạng ấy là hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ với những vẻ đẹp phẩm chất cao quý. Có thể nói chính những con người đó đã tạo nên đất nước ngày hôm nay.
Với những phẩm chất của mình anh bộ đội cụ Hồ đi vào thơ cách một cách tự nhiên và đi vào trong lòng người đọc thành một bức tượng đài bất hủ trong trái tim mỗi con người. Những anh bộ đội ấy tuy xuất thân khác nhau nhưng họ lại có những phẩm chất giống nhau, tiêu biểu cho phẩm chất có những con người Việt Nam anh hùng ta. Vẻ đẹp riêng và vẻ đẹp chung của những người lính tạo nên hình ảnh chung cho anh bộ đội Việt Nam.
Trước hết anh bộ đội Việt Nam được khắc họa qua vẻ đẹp ngoại hình:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
(Tây Tiến – Quang Dũng)
Đó là hình ảnh ngoại hình của người lính. Câu thơ có hai cách hiểu những người lính ấy do trải qua điều kiện chiến đấu gian khổ khó khăn thiếu thốn cho nên rụng hết tóc. Thân hình gầy gò ốm nhưng lại không hề yếu. Những nét ngoại hình ấy còn giúp cho chúng ta thấy được hình ảnh những anh bộ đội oai hùng giống như một vị chúa sơn lâm của rừng xanh vậy. Dường như bao nhieu vất vả bao nhiêu gian nan được khắc tạc in dấu trên ngoại hình của những người lính ấy. Ngoại hình xấu xí ấy nhưng lại trở thành một vẻ đẹp thể hiện sự kiên trung vượt qua gian nan khó khăn của những anh bộ đội cụ Hồ.
Những người lính ấy không chỉ “đẹp” về ngoại hình mà còn đẹp về tâm hồn và phẩm chất nữa.
Trong cuộc chiến tranh giành thắng lợi cho dân tộc thì những anh bộ đội của chúng ta phải mang trong mình một lý tưởng một khát vọng lớn lắm thì mới có thể tạo nên những chiến thắng oanh liệt như thế. Người lính Tây Tiến của Quang Dũng tiêu biểu cho những lý tưởng khát vọng của người lính Việt nam thời bấy giờ:
“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Hay
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi”
Những người lính ấy ra đi với khát vọng giành lại độc lập tự do cho tổ quốc thân yêu, họ ra đi không hẹn ngày trở lại. Phải chăng người lính muốn nhắc đên sự hi sinh ở đây dù thế nào thì cũng quyết hi sinh để đổi lấy độc lập hòa binh cho đất nước. Đó không phải là lý tưởng cao đẹp lắm hay sao?
Hay Nguyễn Đình Thi cũng từng viết:
“Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
Hành động “đầu không ngoảnh lại” thể hiện sự quyết tâm ra đi của những người lính. Vẫn biết đằng sau thềm nắng lá rơi đầy. Phải chăng cái thềm nắng lá rơi đầy kia cũng nhiều như lý tưởng ra trận của người chiến sĩ bộ đội.
Nguyễn Khoa Điềm cũng nói về lý tưởng và khát vọng của người lính – người con trai con gái Việt nam rất đẹp:
“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm đất nước
………. .
Đất Nước của Nhân Dân, Đất Nước của ca dao huyền thoại”
Những người lính Việt nam không chỉ đẹp về lí tưởng mà còn đẹp về sự anh dũng dũng cảm trong chiến trường:
Nhà thơ Quang Dũng đã rất thành công khi nói về sự anh dũng chiến đấu của người lính:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Quang Dũng miêu tả cảnh hùng vĩ của Tây Bắc nhưng qua cái hùng vĩ man dại ấy ta lại cảm nhận được cái anh dũng của người chiến sĩ. Những người lính ấy đã vượt lên trên cả những dốc thăm thẳm khúc khuỷu kia. Phải nói nếu không có sự anh dũng thì làm sao có thể vượt lên trên những dôc núi heo hút thăm thẳm kia.
Hay trong bài thơ tiểu đội xe không kính Phạm Tiến Duật cũng viết:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rơi kính vỡ đi rồi
…….
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái”
Từ những vần thơ nhẹ nhàng, hóm hỉnh ta vẫn thấy được từ trong bom rơi đạn nổ những chiếc không kính vẫn lao tới kẻ thù. Người cầm lái là những dũng cảm xuyên qua bom đạn cầm chắc tay lái để đưa các đồng chí của mình đến nơi an toàn. Dường như con đường như chạy thẳng vào tim người lính. Đó là con đường của niềm tin vào cách mạng chiến thắng.
Đến cái hi sinh của những người lính ấy cũng trở thành những bức tượng đài vô cùng đẹp. Các nhà thơ đã xây dựng lên những bức tượng đài người lính bằng thơ:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Đó là sự hi sinh oanh liệt nhưng rất đỗi trang trọng hào hùng. Tố Hữu cũng nói về sự hi sinh của người lính trở thành bất tử. Cho đến khi mất đi rồi người lính vẫn không thể nào ngã xuống, dáng đứng bất tử ấy làm nên dáng đứng Việt Nam:
“Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vòng”
Hay là cái chết bất tử về với đất mẹ dịu hiền như những người lính trong bài thơ Đất Nước của Nguyễn Đình Thi:
“Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về”
Hay cũng có thể là sự hi sinh vô cùng nhẹ nhàng, coi cái chết nhẹ như lông hồng:
“Con nhớ anh con, người anh du kích
Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn
Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách
Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con”
Dù chiến đấu khó khăn nhưng họ vẫn có một đời sống tâm hồn vô cùng lãng mạn:
“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Hay Nguyễn Đình Thi cũng viết:
“Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”
Đó là những tình cảm tốt đẹp của người lính. Mỗi bước đường gian nan quyết liệt nhưng anh không bao giờ quên nhớ đến người thương của mình. Càng vất vả bao nhiêu thì người lính càng quý những giấy phút nhớ nhung ấy bấy nhiêu.
Cuộc sống gian nan vất vả họ không chỉ nhớ đến người yêu mà họ còn là những người sống yêu thương chan hòa, thật thà chất phác. Ở đó ta thấy một tình đồng chí gắn bó keo sơn:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Tôi với anh đôi người xa lạ
Từ phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Không những thế họ còn là những người lạc quan yêu đời, sống vui vẻ trong tình đồng chí ấy:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng
……. .
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”
Không những thế mà họ còn có một tình quân dân keo sơn gắn bó:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
….
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Tất cả những điều đó là vẻ đẹp của những người lính, những anh bộ đội cụ Hồ trong thơ ca Việt Nam từ 1945- 1975. Qua những hình ảnh của những người lính ta thêm yêu những phẩm chất đáng quý ấy. Đồng thời ta trân trọng nền hòa bình và biết ơn họ rất nhiều. Trong tim mỗi con người Việt Nam những người lính vô danh ấy là một bức tượng đài bất hủ.
Đặt vấn đề:
Cách mạng tháng Tám thành công đã mở đầu một kỉ nguyên mới trong lịch sử dân tộc. Đồng thời mở ra một kỉ nguyên mới cho văn học Việt Nam – một nền thơ ca phản ánh sự bùng nổ toàn diện sức mạnh tiềm tàng của dân tộc, trước vận hội lịch sử đã tích tụ qua nhiểu thế kỉ.
Đọc thơ ca Việt Nam 1945 – 1975, chúng ta thấy cuồn cuộn niềm vui của hàng triệu người ra trận, thấy được những mất mát đau thương, những khát khao, ước vọng chân thành… Ba mươi năm liên tục đấu tranh chống kẻ thù cũng là khoảng thời gian văn học phát triển mạnh mẽ không ngừng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Văn học lấy đề tài chiến tranh, viết về chiến tranh cách mạng. Thơ cũng như văn, hết lòng ca ngợi người anh hùng, người lính, người mẹ, thanh niên xung phong… Tất cả hiện lên trong tác phẩm với mọi tầng lớp, lứa tuổi, dân tộc… y như thật ở trên đời. Và họ đẹp – cái đẹp tiêu biểu cho cả thời đại. Cái đẹp ấy kết tinh đậm đà ở hình tượng anh bộ đội cụ Hồ – anh vệ quốc quân, anh giải phóng quân. Bởi các anh chính là người anh hùng suốt hai cuộc kháng chiến trường kì.
Nội dung:
Dân tộc ta đã tiến hành 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và đã giành thắng lợi vẻ vang. Lẽ tất nhiên, ở đất nước mà hơn ba mươi năm không dời tay súng, hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ là hình ảnh con người đẹp nhất, đáng yêu nhất là niềm tự hào lớn của cả dân tộc. Những chiến sỹ bộ đội cụ Hồ – anh vệ quốc quân trước kia, anh giải phóng quân sau này đã đi qua 2 cuộc kháng chiến và viết lên những chiến công chói lọi: Điện Biên Phủ, cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1968, Điện Biên Phủ trên không, đặc biệt là cuộc tổng tiến công và nổi dậy vĩ đại mùa xuân 1975 mang tên chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Những chiến công đó đã đi vào lịch sử như những Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa của thế kỉ XX. Đó là bước đi của người anh hùng tiếp nối con đường rực rỡ của cha ông, đang nhịp bước cùng thời đại với tư cách của “Người lính đi đầu” . Vì thế, trong cuộc sống cũng như trong thơ ca, hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ bao giờ cũng chiếm chỗ cao nhất trong tâm hồn quần chúng và trong trái tim của các nhà thơ.
Trước hết, trong thơ ca đã giới thiệu với chúng ta hình ảnh trung thực của anh bộ đội cụ Hồ thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
Là con đẻ của nhân dân lao động nghèo khổ, anh ra đi từ những miền quê nghèo khắp mọi miền đất nước:
“Quê hương anh đất mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.
(Đồng Chí – Chính Hữu)
Từ những con người vốn xa lạ, khi vào bộ đội các anh đã gắn bó với nhau trong tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”.
(Đồng Chí – Chính Hữu)
Anh mang bản chất chất phác, giản dị, trung thực. Thực ra anh là người nông dân mặc áo lính.
“Anh chiến sỹ hiền lành
Tỳ tay trên mũi súng”.
(Cá nước – Tố Hữu)
Xuất thân từ người lao động, anh bộ đội cụ Hồ rất giàu nghị lực. Anh dẻo dai bền bỉ hành quân vượt qua “trăm suối ngàn khe”, vượt suốt, trèo đèo trong cảnh “ngày nắng đốt” chói chang, những “đêm mưa dầm dề, gió buốt chân tay” quanh năm suốt tháng. Không một khó khăn, trở lực ngăn được bước tiến của anh:
“Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo”.
(Lên Tây Bắc – Tố Hữu)
Nói tới người chiến sỹ là nói đến lòng kiên cường, dũng cảm tuyệt vời. Anh là hiện thân của chủ nghĩa anh hùng cách mạng thời đại mới. Đáp lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch: “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Anh đánh giặc bằng những vũ khí thô sơ nhất của quê hương với khẩu hiệu: Cướp súng giặc để giết giặc:
“Lột sắt đường tàu
Rèn thêm dao kiếm
áo vải chân không
Đi lùng giặc đánh”.
(Nhớ – Hồng Nguyên)
Trong buổi đầu của cuộc kháng chiến ấy, các anh phải chịu đựng bao gian khổ, khó khăn: Thiếu từ những trang bị tối thiểu “áo anh rách vai”, “Quần tôi vài mảnh vá”, “Chân không giầy”, thêm vào đó thiếu thuốc men – bệnh số rét rừng hành hạ. Khó khăn chồng chất vẫn không làm mất đi dáng vẻ oai hùng, tâm hồn mơ mộng, lãng mạn của người lính Tây Tiến:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùng
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.
(Tây Tiến – Quang Dũng)
Không thể tính được những hy sinh mất mát mà các anh phải trải qua và chịu đựng:
“Khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng
Chí không mòn
Những đồng chí thân chôn làm giá súng
Đầu bịt lỗ chân mai
Băng mình qua núi thép gai
ào ào vũ bão ”
(Hoan hô chiến sỹ Điện Biên – Tố Hữu)
Nguồn gốc sức mạnh để giúp các anh vượt lên tất cả là lòng yêu nước thiết tha, lòng căm thù giặc cháy bỏng. Trước sự hy sinh của người đồng đội, đau thương chút lên đầu ngọn súng, chỉ còn một sự trả thù cao cả:
“Mai mốt bên cửa rừng
Anh có nghe súng nổ
Là chúng tôi đang cố
Tiêu diệt kẻ thù chung”
(Viếng bạn – Hoàng Lộc)
Tình yêu thương của người chiến sỹ là tình yêu lớn. Trong đó riêng, chung kết hợp hài hòa. Tâm tư, lý tưởng giản dị mà sâu sắc:
“Con ra tiền tuyến xa xôi
Yêu bầm yêu nước cả đôi mẹ hiền”.
(Bầm ơi – Tố Hữu)
Đến với nhân dân “Các anh về mái ấm nhà êm/ Các anh về xôn xao làng bé nhỏ“, (Bao giờ trở lại – Hoàng Trung Thông). Anh đi đến đâu, ở đó có sự sống và niềm vui:
“Anh về cối lại vang rừng
Chim reo quanh mái, gà mừng dưới sân
Anh về, sáo lại ái ân
Đêm trăng hò hẹn trong ngần tiếng ca…”
(Lên Tây Bắc – Tố Hữu)
Là con đẻ của nhân dân, được nhân dân yêu thương, che chở, các anh đã cùng với toàn dân tộc làm nên một huyền thoại của thời đại, quyết định số phận thực dân Pháp ở lòng chảo Điện Biên Phủ bằng chiến thắng vang dội:
“Đánh một trận dập đầu quỷ dữ
Sáng nghìn năm lịch sử Điện Biên”
(Hoan hô chiến sỹ Điện Biên – Tố Hữu)
Pháp thua, Mỹ lại nhảy vào Miền Nam, các anh lại phải cầm súng đánh Mỹ. Người chiến sỹ trong thời đại chống Mỹ vẫn mang vẻ đẹp của thế hệ chống Pháp nhưng có tầm vóc cao đẹp hơn. Vẫn là anh, con người hết sức bình dị mà rất đỗi kiên cường:
“Vẫn đôi dép lội chiến trường
Vẫn vành mũ lá coi thường hiểm nguy”
(Tiếng hát sang xuân – Tố Hữu)
Đó là sự tiếp nối tự nhiên của hai thế hệ cầm súng mà sức mạnh nhân lên cùng năm tháng. Đó là sự kế thừa của truyền thống “ Bốn mươi thế kỉ cùng ra trận ” – ( Tố Hữu). Tâm hồn người chiến sỹ hôm nay náo nức lời kêu gọi của Bác Hồ: ” Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta còn phải chiến đấu quét sạch nó đi “. Tâm hồn ấy còn vang vọng tiếng thơ kiên cường của Lý Thường Kiệt, lời hịch sang sảng của Trần Quốc Tuấn, khí thế oai hùng của Tây Sơn “Rạo rực lòng ta trống trận Quang Trung” – (Tố Hữu). Có một cái gì rất khác ở anh Vệ quốc quân thời chống Pháp. Đó là chiều sâu mới, tầm cỡ mới của ý thức với dân tộc và thời đại:” Ta vì ta ba chục triệu người/ Cũng vì ba ngàn triệu trên đời” – (Tố Hữu). Anh đánh Mỹ với một sức mạnh phi thường:
” Những dũng sỹ đâm lê Núi Thành
Mắt tìm thù sao bay rực rỡ
Rượt đuổi thù chân như chiến mã
Đâm chết thù sức núi dồn tay”.
(Những dũng sỹ đâm lê Núi Thành – Phạm Hổ)
Lòng căm thù của anh có thêm ” nghìn độ lửa thiêu” và trở thành vô địch:
” Lấy nỗi đau vô cùng làm sức mạnh vô biên
Bước truy kích đạp trăm rào gai sắc”.
( Bài thơ về hạnh phúc – Dương Hương Ly)
Niềm tự hào cũng đạt tới đích cao vời vợi, anh đã trở thành nhân vật huyền thoại của thời đại mới:
” Con đứng đây dưới Trường Sơn hùng vĩ
Mười tám sức trai luyện lửa thành đồng
Chân như pha sắt, hồn pha thép
Ngẩng cao đầu thở gió biển đông
(Phan Minh Đạo)
Con đường Trường Sơn – con đường huyết mạch nối hậu phương lớn với tiền tuyến lớn – Nơi đế quốc Mỹ chút xuống không biết bao nhiêu tấn bom đạn và chất độc hóa học, lại là con đường gắn bó máu thịt với các anh bộ đội lái xe. Bom đạn kẻ thù, đã làm cho những chiếc xe bị phá hủy đến trơ trụi, mất đi mọi thứ bên ngoài:
” Không kính, rồi xe không đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước”
Nhưng trên những chiếc xe ấy, người chiến sỹ vẫn ” Ung dung buồng lái ta ngồi/Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng “. Bất chấp bom đạn kẻ thù:
” Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
( Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Phạm Tiến Duật)
” Có một trái tim”- trái tim đó chính là tình yêu thương mênh mông với đồng bào, đồng chí ở Miền Nam, đó là lòng căm thù giặc cháy bỏng. Dường như cả những kỷ niệm tuổi thơ cũng tiếp thêm sức mạnh, niềm tin cho người chiến sỹ chiến đấu và vượt lên mọi khó khăn thử thách. Ta hãy nghe tâm sự của một chiến sỹ với người bà kính yêu ở hậu phương:
” Cháu chiến đấu hôm nay
Vì lòng yêu tổ Quốc
Vì xóm làng thân thuộc
Bà ơi, cũng vì bà
Vì tiếng gà cục tác
ổ trứng hồng tuổi thơ.
( Tiếng gà trưa – Xuân Quỳnh)
Chính vì được giác ngộ lý tưởng sâu sắc, ngươi chiến sỹ đứng trên đỉnh cao mới của chủ nghĩa anh hùng cách mạng: dám đánh Mỹ và thắng Mỹ. Anh xứng đáng là những ” Con người đẹp nhất “, là niềm tự hào của dân tộc:
“Hoan hô anh giải phóng quân
Kính chào anh con người đẹp nhất
Lịch sử hôn anh chàng trai chân đất
Sống hiên ngang bất khuất ở trên đời
Như Thạch Sanh của thế kỷ hai mươi
Một dây ná, một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ
Không tự ngắm mình anh chẳng hay đâu
Hỡi chàng dũng sỹ
Cả năm châu chân lý đang nhìn theo”.
( Bài ca xuân 68 – Tố Hữu)
Sự hy sinh của người lính là sự hy sinh trong sáng, là ” Cái chết hóa thành bất tử “- ( Tố Hữu ) trong lòng nhân dân, trong lòng đất nước. Lê Anh Xuân đã ghi lại một trường hợp hy sinh điển hình để lại dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ:
” Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun như lửa đạn cầu vồng”
( Dáng đứng Việt Nam – Lê Anh Xuân)
Con đường đi của anh bộ đội cụ Hồ là con đường của những chiến công kỳ diệu. Từ chân đất, anh “cưỡi máy bay lướt giữ không gian”- (Thanh Hải) . Từ mang ngọn tầm vông, anh điều khiển dàn tên lửa. Anh là hiện thân của sức mạnh nhân dân anh hùng. Trong đại thắng mùa xuân 1975, anh truy kích kẻ thù bằng những bước chân của Phù Đổng, hào khí của Lê Lợi, Quang Trung:
” Anh đánh như sét nổ trời rung
Anh chuyển như lũ dồn bão cuốn
Chặt Buôn Mê Thuật rụng cả Tây Nguyên
Quét Huế – Thừa Thiên đổ nhào Đà Nẵng”
( Toàn thắng về ta – Tố Hữu)
Các anh lại viết lên một huyền thoại mới của thời đại, được cả ” Năm châu, chân lý” nhìn theo, cái nhìn trìu mến và khâm phục. Tuy nhiên, không vì vậy mà anh bị thần thánh hóa, trái lại vẫn là những con người mang cốt cách bình dị. Dũng sỹ diệt Mỹ qua con mắt trẻ thơ:
” Cháu nghe chú đánh những đâu
Những tàu chiến cháy, những tàu bay rơi
Đến đây chỉ thấy chú cười
Chú đi gánh nước chú ngồi đánh bi”
( Gửi theo các chú bộ đội – Trần Đăng Khoa)
Anh bộ đội cụ Hồ là kết tinh của bình thường và phi thường, của vĩ đại và giản dị. Và còn là sự kết tinh của nhiều phẩm chất ” Yêu thương mênh mông”, ” Căm hờn cháy bỏng”, ” rất mãnh liệt và cũng rất dịu dàng”. Người chiến sỹ có tầm vóc lớn lao của thời đại, phẩm chất của anh là ” Thước đo mọi giá trị trên đời”. Đó là vì anh đã phấn đấu bền bỉ qua hai cuộc kháng chiến, được nhân dân nuôi dưỡng và truyền cho dòng sữa nhân nghĩa, anh hùng của bốn nghìn năm, được thời đại cho tư tưởng khoa học và cách mạng Mác – Lê nin, được Đảng, Bác chăm lo giáo dục và rèn luyện:
” Tổ quốc cho anh dòng sữa tự hào
Thời đại cho anh ánh sao trí tuệ”
( Tố Hữu)
Tiếng súng lại nổ ở hai đầu biên giới. Các anh lại phải ra Bắc vào Nam thực sự là điểm tựa của lịch sử và của nhân dân để bảo vệ vững chắc Tổ Quốc thân yêu. Anh là niềm tự hào lớn của dân tộc, là điển hình cao đẹp cho người anh hùng trong thời đại. Anh mãi và sẽ là nguồn cảm hứng không bao giờ vơi cạn trong những sáng tác thơ ca.
III. Kết luận:
Đọc những trang thơ kháng chiến giai đoạn 1945 – 1975, chúng ta hiểu thêm cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ của con người sống trong chiến tranh ác liệt. Đồng thời ta thấy được bản chất anh hùng cách mạng của người lính.
Thơ kháng chiến là tiếng đại bác gầm rung và cũng là tiếng chim ca hát bình minh. Chất trữ tình và chất anh hùng ca hoà quyện trong hồn thơ, trong mỗi bài, mỗi câu, mỗi ý thơ. Nó bảo tồn được sức sống không chỉ vì đó là tiếng nói của thời đại lịch sử mà còn là tiếng nói trái tim của những phong cách thơ riêng. Thơ trong giai đoạn này đã phát hiện tư thế người lính đối diẹn với lịch sử, với chân trời tự nhiên luôn giãn nở. Các anh là linh hồn của hai cuộc kháng chiến trường kì. ở các anh có sự hội tụ đầy đủ phẩm chất, tâm hồn và tính cách, hành động tiêu biểu cho những con người anh hùng dân tộc.
Chiến tranh đã qua đi nhưng kí ức về những con người làm nên lịch sử còn hằn sâu trong tâm trí mỗi người dân Việt Nam. Lớp người của thế hệ hôm nay xin tiếp nối truyền thống ông cha để làm vẻ vang non sông, để đất nước Việt Nam mãi là:
“ Đất nước của Nhân dân,
Đất nước của ca dao, thần thoại.”
( Nguyễn Khoa Điềm )
Phân tích vẻ đẹp của hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng (So sánh với hình tượng người lính trong bài thơ. Đồng Chí của Chính Hữu).
Vẻ đẹp, hình tượng người lính trong bài Tây Tiến của Quang Dũng
- Vẻ đẹp hào hùng nhưng rất đỗi hào hoa của lính Tây Tiến
- Khí phách ngang tàng, tinh thần lạc quan trước khó khăn
- Hoàn cảnh chiến đấu gian khổ, bệnh sốt rét, hành quân trên địa hình hiểm trở
- Những người lính vẫn kiên cường, vượt qua khó khăn, bệnh tật
- Tinh thần lạc quan, yêu đời
Chất bi tráng: cái chết trong bài Tây Tiến không mang cảm giác bi lụy, tang tóc
- Nghệ thuật
+ Cảm hứng lãng mạn giữa hiện thực chiến tranh tàn khốc
+ Sử dụng thủ pháp đối lập gây ấn tượng, mạnh mẽ về thiên nhiên, con người miền Tây, lính Tây Tiến
- So sánh bài Đồng Chí
+ Hiện thực chiến tranh được tái hiện chân thực
+ Chính Hữu tô đậm cái đời thường, có thật trong cuộc sống: hình ảnh đời sống của người dân, sức mạnh tinh thần đồng đội sát cánh bên nhau
Văn học VN giai đoạn 1945 - 1975 đã sáng tạo được " những hình tượng nghệ thuật cao đẹp về con người vừa giàu phẩm chất truyền thống , vừa đậm nét thời đại" Bằng cảm nhận về bài thơ đồng chí và truyện ngắn Làng hãy làm sáng tỏ nhận định trên
Hình tượng con người giàu phẩm chất truyền thống.
* Người lính trong bài thơ Đồng chí hiện lên với vẻ đẹp chân chất, mộc mạc, gắn bó tha thiết với quê hương, giàu tình yêu nước…
* Những người nông dân trong truyện ngắn Làng, đặc biệt là ông Hai là những người thật thà, chất phác, chăm chỉ, yêu làng quê tha thiết…
+ Hình tượng con người mang đậm nét thời đại.
* Ở Đồng chí là tình đồng chí đồng đội. Đây là những tình cảm mới của con người ViệtNam giai đoạn này.
* Ở truyện ngắn Làng, sự thống nhất hài hòa giữa tình yêu làng quê với tình yêu đất nước và niềm tin yêu cách mạng, kháng chiến là vẻ đẹp mới của người nông dân Việt Nam, cũng là của con người Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp.
+ Để thể hiện những vẻ đẹp ấy của con người Việt Nam, hai tác phẩm đã lựa chọn sáng tạo được những hình thức nghệ thuật đặc sắc: Bài thơ Đồng chí thành công trong việc sử dụng thể thơ tự do, ngôn ngữ, hình ảnh chân thực, giản dị, hàm súc, gợi cảm… . Truyện ngắnLàng xây dựng được tình huống truyện đặc sắc, nhân vật hiện lên sống động, chân thực, đặc biệt ở các trạng thái tâm trạng, ngôn ngữ tự nhiên, gần với đời sống, …
Phân tích vẻ đẹp hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quan Dũng.
Các bạn nên tập trung vào mấy ý chính sau đây:
- Người lính hiện về trong hồi ức như một biểu tượng xa vời trong thời gian và không gian (Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi... Nhớ về rừng núi... Tây Tiến người đi không hẹn ước, Đường lên thăm thẳm một chia phôi, Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy...) Nhưng vẫn là hoài niệm không dứt, một nỗi thương nhớ mênh mang (Nhớ về, nhớ chơi vơi...).
- Người lính được miêu tả rất thực trong những sinh hoạt cụ thể hàng ngày, trong những bước đi nặng nhọc trên đường hành quân, với những đói rét bệnh tật, với những nét vẽ tiều tuỵ về hình hài song vẫn rất phong phú trong đời sống tâm hồn với những khát vọng rất mãnh liệt của tuổi trẻ (dẫn thơ minh hoạ).
- Tác giả phát hiện ra vẻ đẹp trong đời sống tâm hồn của người lính:
+ Con người nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên núi rừng với những cảnh sắc độc đáo rất tinh tế (Hồn lau nẻo bến bờ, dáng người trên độc mộc, dòng nước lũ, cánh hoa đong đưa).
+ Con người vẫn cháy bỏng những khát vọng chiến công vẫn ôm ấp những giấc mơ đẹp về tình yêu tuổi trẻ (Mắt trừng rởi mộng qua biên giới, Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm). Một dáng kiều thơm hay một vẻ đẹp của con người rừng núi có nhiều hoang sơ, kiều diễm đến sững sờ (kìa em xiêm áo tự bao giờ).
- Người lính hiện lên chân thực, thơ mộng, lãng mạn (đến đa tình đa cảm), đồng thời cũng rất hào hùng, rất tráng sĩ. Với nhiều từ ngữ Hán Việt vốn mang sắc thái cổ điển sang trọng (Áo bào thay chiếu anh về đất, Sông mã gầm lên khúc độc hành...) tác giả tạo được không khí thiêng liêng làm cho cái chết tiều tuỵ của người lính hình thành một hành vi lịch sử thấu động lòng sông. Âm hưởng bốn câu thơ cuối làm cho hơi thơ cứ vọng dài thăm thẳm không dứt hòa với bước đường của người chiến sĩ tình nguyện ra đi cho mùa xuân đất nước :
Tây Tiến người đi không hẹn ướcĐường lên thăm thẳm một chia phôiAi lên Tây Tiến mùa xuân ấyHồn về Sầm Nứa chẳng về xuôiCho đoạn thơ sau:
b) Khổ thơ đã xây dựng và làm nổi bật vẻ đẹp của những hình tượng nào? Hãy chọn và phân tích ý nghĩa của một trong những hình tượng đó.
c) Chỉ ra các biện pháp tu từ có trong khổ thơ. Chọn và phân tích tác dụng của một biện pháp tu từ mà em cho là hay nhất.
d) Khái quát nội dung, đặc sắc nghệ thuật của khổ thơ.
0
Câu 4 (trang 72, SGK Ngữ Văn 10, tập hai)
Đề bài: Hãy phân tích hình tượng đất nước trong khổ cuối và nêu cảm hứng chủ đạo của bài thơ.
"Súng nổ rung trời giận dữ": Khái quát hóa trận chiến ác liệt, khí thế anh hùng của đất nước.
- "rung" như rung chuyển cả trời đất, chất chứa oán hận, căm thù biết bao năm, quân dân ta đã phản đáp lại bằng những tiếng súng cuồng nộ "giận dữ".
- Không khí của chiến trường không chỉ được bao trùm bởi sự ác liệt, mà còn nằm ở khí thế của người chiến đấu, đem sự căm thù hóa thành tiếng súng giận dữ, hào hùng.
"Người lên như nước vỡ bờ":
- Hình ảnh lớp lớp quân dân ta tiến vào chiến trường một cách rầm rộ.
- Mang ý nghĩa biểu trưng cho sức mạnh, khí thế của quân đội ta chỉ chực chờ đến giờ phút này mà tuôn trào mạnh mẽ, không cho phép bất kỳ kẻ nào chống lại sức mạnh ghê gớm sánh ngang với tầm vóc của thiên nhiên kỳ vĩ này.
“Nước Việt Nam từ máu lửa / Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”
- Từ hình tượng người lính chiến bước ra từ trong khói lửa chói lòa, lấm lem bùn đất đã khái quát hóa thành biểu tượng chung cho đất nước Việt Nam.
- Mang khuynh hướng sử thi và chất anh hùng ca, tượng đài Việt Nam sừng sững, uy nghi hiện ra từ trong máu lửa chiến tranh, kinh qua biết bao nhiêu cuộc chiến nhưng vẫn hùng dũng đứng thẳng, mạnh mẽ vươn mình, rũ sạch bùn đất của kiếp nô lệ lầm than suốt mấy mươi năm.
- Thể hiện sức sống tiềm tàng mãnh liệt của nhân dân Việt Nam.
=> Hình ảnh quật cường hào hùng của một đất nước trong bối cảnh rộng lớn hiện ra trước mắt, đây chính la tư thế chiến đấu của quân dân ta trong trận Điện Biên Phủ.
- Cảm hứng chủ đạo: Quê hương đất nước (Đó là những suy cảm về một đất nước đầy đau thương nhưng lại giàu đẹp, hiền hòa, gần gũi và giàu truyền thống lịch sử cách mạng).
Để ca ngợi đất nước Việt Nam tươi đẹp ta có thể làm gì?
A. Viết một bài văn;
B. Vẽ một bức tranh hay chụp một tấm ảnh;
C. Viết một bản nhạc;
D. Tất cả các hình thức trên.
Để ca ngợi đất nước Việt Nam tươi đẹp ta có thể Viết một bài văn (thông tin dạng văn bản) vẽ một bức tranh hay chụp một tấm ảnh (thông tin dạng hình ảnh), viết một bản nhạc (dạng âm thanh).
Đáp án: D
Sáng tác 1-3 khổ thơ lục bát về chủ đề đất nước Việt Nam tươi đẹp trong đó có sử dụng một biện pháp tu từ
Để ca ngợi về đất nước Việt Nam tươi đẹp ta có thể làm gì?
A. Viết một bài văn
B. Vẽ một bức tranh hay chụp một tấm ảnh
C. Viết một bản nhạc
D. Tất cả các hình thức trên