tìm trạng ngữ trong các câu sau:
ngày xưa,rùa có một cái mai láng bóng
ngoài vườn,hoa đua nhau khoe sắc
Gạch dưới bộ phận trạng ngữ trong các câu sau :
a) Ngày xưa, Rùa có một cái mai láng bóng.
b) Trong vườn, muôn loài hoa đua nở.
c) Từ tờ mờ sáng, cô Thảo đã dậy sớm sắm sửa đi về làng. Làng cô ở cách làng Mỹ Lý hơn mười lăm cây số. Vì vậy, mỗi năm cô chỉ về làng chừng hai ba lượt.
a) Ngày xưa, Rùa có một cái mai láng bóng.
b) Trong vườn, muôn loài hoa đua nở.
c) Từ tờ mờ sáng, cô Thảo đã dậy sớm sắm sửa đi về làng. Làng cô ở cách làng Mỹ Lý hơn mười lăm cây số. Vì vậy, mỗi năm cô chỉ về làng chừng hai ba lượt.
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi
Bài học tốt
Ngày xưa, Rùa có một cái mai láng bóng. Trên mai không có những vết rạch ngang dọc như ta thấy ngày nay. Rùa rất tự hào về cái mai của mình. Mỗi buổi sớm, Rùa đem mai ra phơi nắng. Ánh nắng trên mai Rùa sáng rực, làm cái mai như toả ánh hào quang.
Tính Rùa thích đi đây đi đó ngắm xem phong cảnh tươi đẹp của đất nước:
- Sống có nghĩa là đi. Một ngày không đi là một ngày bỏ phí. Phải đi như ngọn gió kia, đi mãi, đi mãi. Đi nhiều càng tốt. Đi nhiều mới xem hết những vẻ đẹp trong thiên hạ. Đi nhiều mới thấy hết được những đổi mới của đất nước.
Nhưng Rùa phải cái tính hay ngại. Mùa đông, Rùa ngại cái rét. Cái rét nép trong bờ bụi cứ thổi vù vù làm buốt đến tận xương. Phải đợi đến mùa xuân. Mùa xuân nhiều hoa. Đi trên một con đường rải đầy hoa thơm cũng thú vị. Nhưng mùa xuân vẫn là đứa em của mùa đông, vì mưa phùn vẫn cứ lai rai, và gió bấc vẫn cứ thút thít ở các khe núi. Phải đợi đến mùa hè. Mùa hè tạnh ráo. Cây cối có nhiều quả chín thơm tho. Nhưng cái nóng cứ hầm hập. Cả ngày bụi cuốn mịt mùng. Hễ có cơn giông thì đất đá như sôi lên, nước lũ đổ ào ào. Phải đợi đến mùa thu. Quả thật đến mùa thu, Rùa mới cảm thấy rõ rệt mình đang cần một chân trời và một khoảng rộng. Nhìn ra, mây đùn tan biến. Đồi núi trải ra như đàn rùa bò lóp ngóp. Và xa, rất xa, trên ngọn một quả núi cao, một lâu đài hiện ra như một hòn ngọc. Có người bảo đó là lâu đài của Rùa vàng. Rùa lẩm bẩm:
- Ừ! Ta phải đến xem cho biết! Rùa vàng chắc còn giữ cái nỏ bắn một phát giết nghìn giặc của cụ tổ. Chưa đến thăm lâu đài của Rùa vàng thì đến lúc chết ta khó nhắm mắt.
Rùa ra đi. Ngày đầu Rùa chạy, như có ai đẩy sau lưng. Ngày thứ hai, Rùa chạy chậm. Ngày thứ ba, Rùa đi. Ngày thứ tư, đi chậm. Ngày thứ năm, Rùa lê từng bước. Cái gì đẩy sau lưng đã biến mất. Con đường hoá gồ ghề. Rùa bước chậm dần… chậm dần rồi… dừng lại!
- Ô kìa! Có ai đó không? Có phải ta đã dừng lại không? Ta mệt rồi! Ta phải nhờ một người khác đi hộ ta. Có thể một con chim Đại Bàng sẽ bay tới. Nó sẽ mời ta: “Mời ngài hãy tạm lên đôi cánh của tôi. Tôi vô cùng sung sướng được đưa ngài đến nơi ngài thích!”. Nhưng ta cũng phải để Đại Bàng nó khẩn khoản năm lần bảy lượt, ta mới chịu ngồi lên lưng nó.
Ngày ngày Rùa nhìn khắp bốn phương. Mịt mù chẳng thấy tăm hơi Đại Bàng đâu cả! Chỉ thấy bên triền núi một chú ngựa chạy nhong nhong.
- Này anh ngựa kia! Chim Đại Bàng đã đến chưa?
Ngựa dừng lại ngạc nhiên:
- Từ khi lọt lòng mẹ, tôi chưa hề nghe tên một con chim kì lạ như thế!
- Nếu vậy, ai đi thế cho ta?
- Cái đó tôi không biết. Nhưng nếu bác đã mỏi chân, thì mời bác cứ lên lưng tôi, tôi chở một chặng…
- Lên lưng…! Ồ!... Ta muốn hỏi: Lưng có phải là chỗ chạy nhanh nhất không? Ta không muốn chậm trễ.
- Chỗ chạy nhanh nhất của tôi là bốn vó.
- Ta phải ngồi vào chỗ đó.
Ngựa đưa ra một chân. Rùa bò lên. Ngựa nhắc Rùa phải bíu vào thật chặt.
Lộp cộp! Lộp cộp! Gió thổi vù vù hai bên tai Rùa. Cây hai bên đường lao về phía sau vun vút. Lá cây cào trên mai Rùa. Một cành cây quật vào đầu Rùa đau điếng. Rùa kêu:
- Ôi! Chậm lại! Chậm lại!
Nhưng cơn lốc càng to. Chợt: Rầm! Đất trời như tối kịt lại. Rùa văng ra xa, chết ngất.
Rùa dần dần tỉnh lại, khắp người như có hàng vạn kim đâm. Rùa mở mắt. Thật quá rùng rợn! Ràu đang nằm giữa vũng máu, và cái mai bị vỡ ra nhiều mảnh!
Cũng may, những mảnh vỡ sau đó lành lại. Nhưng những vết sẹo ngang dọc trên mai vẫn còn trông thấy. Cũng rất may, từ đó Rùa rút ra được bài học tốt. Rùa đã quyết rèn luyện cho mình có được tính kiên nhẫn luyện tập thành công và đã thắng trong cuộc thi với Thỏ. Riêng về chuyện cái mai, mời các bạn hãy xem thật kĩ một con Rùa để biết chuyện tôi kể là có thật.
Võ Quảng
1/ Câu chuyện trên ai là người kể chuyện? Tại sao tác giả lại chọn ngôi kể đó?
2/Căn cứ vào thể loại truyện đã học, câu truyện trên thuộc thể loại truyện nào? Chỉ ra các căn cứ để thuyết phục ý kiến của em.
3/Chỉ ra 1 phép tu từ so sánh trong câu chuyện trên và chỉ ra tác dụng giá trị của phép so sánh đó.
4/Theo em, những vết rách ngang, dọc trên mai rùa vì sao mà có, nó có ý nghĩa gì?
- Từ câu chuyện, em rút ra được bài học gì cho cá nhân em?
5/Từ câu chuyện, em rút ra được bài học gì cho cá nhân em? Viết một đoạn văn khoảng 20 dòng trình bày bài học mà em rút ra được.
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi
Bài học tốt
Ngày xưa, Rùa có một cái mai láng bóng. Trên mai không có những vết rạch ngang dọc như ta thấy ngày nay. Rùa rất tự hào về cái mai của mình. Mỗi buổi sớm, Rùa đem mai ra phơi nắng. Ánh nắng trên mai Rùa sáng rực, làm cái mai như toả ánh hào quang.
Tính Rùa thích đi đây đi đó ngắm xem phong cảnh tươi đẹp của đất nước:
- Sống có nghĩa là đi. Một ngày không đi là một ngày bỏ phí. Phải đi như ngọn gió kia, đi mãi, đi mãi. Đi nhiều càng tốt. Đi nhiều mới xem hết những vẻ đẹp trong thiên hạ. Đi nhiều mới thấy hết được những đổi mới của đất nước.
Nhưng Rùa phải cái tính hay ngại. Mùa đông, Rùa ngại cái rét. Cái rét nép trong bờ bụi cứ thổi vù vù làm buốt đến tận xương. Phải đợi đến mùa xuân. Mùa xuân nhiều hoa. Đi trên một con đường rải đầy hoa thơm cũng thú vị. Nhưng mùa xuân vẫn là đứa em của mùa đông, vì mưa phùn vẫn cứ lai rai, và gió bấc vẫn cứ thút thít ở các khe núi. Phải đợi đến mùa hè. Mùa hè tạnh ráo. Cây cối có nhiều quả chín thơm tho. Nhưng cái nóng cứ hầm hập. Cả ngày bụi cuốn mịt mùng. Hễ có cơn giông thì đất đá như sôi lên, nước lũ đổ ào ào. Phải đợi đến mùa thu. Quả thật đến mùa thu, Rùa mới cảm thấy rõ rệt mình đang cần một chân trời và một khoảng rộng. Nhìn ra, mây đùn tan biến. Đồi núi trải ra như đàn rùa bò lóp ngóp. Và xa, rất xa, trên ngọn một quả núi cao, một lâu đài hiện ra như một hòn ngọc. Có người bảo đó là lâu đài của Rùa vàng. Rùa lẩm bẩm:
- Ừ! Ta phải đến xem cho biết! Rùa vàng chắc còn giữ cái nỏ bắn một phát giết nghìn giặc của cụ tổ. Chưa đến thăm lâu đài của Rùa vàng thì đến lúc chết ta khó nhắm mắt.
Rùa ra đi. Ngày đầu Rùa chạy, như có ai đẩy sau lưng. Ngày thứ hai, Rùa chạy chậm. Ngày thứ ba, Rùa đi. Ngày thứ tư, đi chậm. Ngày thứ năm, Rùa lê từng bước. Cái gì đẩy sau lưng đã biến mất. Con đường hoá gồ ghề. Rùa bước chậm dần… chậm dần rồi… dừng lại!
- Ô kìa! Có ai đó không? Có phải ta đã dừng lại không? Ta mệt rồi! Ta phải nhờ một người khác đi hộ ta. Có thể một con chim Đại Bàng sẽ bay tới. Nó sẽ mời ta: “Mời ngài hãy tạm lên đôi cánh của tôi. Tôi vô cùng sung sướng được đưa ngài đến nơi ngài thích!”. Nhưng ta cũng phải để Đại Bàng nó khẩn khoản năm lần bảy lượt, ta mới chịu ngồi lên lưng nó.
Ngày ngày Rùa nhìn khắp bốn phương. Mịt mù chẳng thấy tăm hơi Đại Bàng đâu cả! Chỉ thấy bên triền núi một chú ngựa chạy nhong nhong.
- Này anh ngựa kia! Chim Đại Bàng đã đến chưa?
Ngựa dừng lại ngạc nhiên:
- Từ khi lọt lòng mẹ, tôi chưa hề nghe tên một con chim kì lạ như thế!
- Nếu vậy, ai đi thế cho ta?
- Cái đó tôi không biết. Nhưng nếu bác đã mỏi chân, thì mời bác cứ lên lưng tôi, tôi chở một chặng…
- Lên lưng…! Ồ!... Ta muốn hỏi: Lưng có phải là chỗ chạy nhanh nhất không? Ta không muốn chậm trễ.
- Chỗ chạy nhanh nhất của tôi là bốn vó.
- Ta phải ngồi vào chỗ đó.
Ngựa đưa ra một chân. Rùa bò lên. Ngựa nhắc Rùa phải bíu vào thật chặt.
Lộp cộp! Lộp cộp! Gió thổi vù vù hai bên tai Rùa. Cây hai bên đường lao về phía sau vun vút. Lá cây cào trên mai Rùa. Một cành cây quật vào đầu Rùa đau điếng. Rùa kêu:
- Ôi! Chậm lại! Chậm lại!
Nhưng cơn lốc càng to. Chợt: Rầm! Đất trời như tối kịt lại. Rùa văng ra xa, chết ngất.
Rùa dần dần tỉnh lại, khắp người như có hàng vạn kim đâm. Rùa mở mắt. Thật quá rùng rợn! Ràu đang nằm giữa vũng máu, và cái mai bị vỡ ra nhiều mảnh!
Cũng may, những mảnh vỡ sau đó lành lại. Nhưng những vết sẹo ngang dọc trên mai vẫn còn trông thấy. Cũng rất may, từ đó Rùa rút ra được bài học tốt. Rùa đã quyết rèn luyện cho mình có được tính kiên nhẫn luyện tập thành công và đã thắng trong cuộc thi với Thỏ. Riêng về chuyện cái mai, mời các bạn hãy xem thật kĩ một con Rùa để biết chuyện tôi kể là có thật.
Võ Quảng
1/ Câu chuyện trên ai là người kể chuyện? Tại sao tác giả lại chọn ngôi kể đó?
2/Căn cứ vào thể loại truyện đã học, câu truyện trên thuộc thể loại truyện nào? Chỉ ra các căn cứ để thuyết phục ý kiến của em.
3/Chỉ ra 1 phép tu từ so sánh trong câu chuyện trên và chỉ ra tác dụng giá trị của phép so sánh đó.
4/Theo em, những vết rách ngang, dọc trên mai rùa vì sao mà có, nó có ý nghĩa gì?
- Từ câu chuyện, em rút ra được bài học gì cho cá nhân em?
5/Từ câu chuyện, em rút ra được bài học gì cho cá nhân em? Viết một đoạn văn khoảng 20 dòng trình bày bài học mà em rút ra được.
Mình cần gấp!!
Bài 4:Tìm TN trả lời cho CH a Ngày xưa rùa có một cái mái bóng loáng b Muôn loài hoa đua nở trong vườn c Cô Thảo đã dậy từ tờ mờ sáng ra chợ huyện
a) tn: ngày xưa
b) tn: trong vườn
c) chợ huyện
ko bit cs đúng ko nx
mà ch là cái qq j ??
Thêm trạng ngữ vào các câu sau:
A. ( vào đêm trước ngày khai trường của con,) mẹ k ngủ được
B. Thuyền rẽ song lao nhanh ,lướt bon bon(để về cho kịp)
C. Một đàn chim ngói sạt qua rồi vội vã kéo nhau về( phía mặt trời lặn)
D. Những bông hồng đua nhau khoe sắc trong vườn trường
E. Trên giàn thiên lí , bóng xuân sang
Nêu tác dụng của trạng ngữ trong các câu trên
A: Trạng ngữ bổ sung thời gian.
B: Trạng ngữ bổ sung nơi chốn. câu này bạn sai rồi. Thuyền rẽ song lao nhanh, lướt bon bon trên con sông.
C: Trạng ngữ bổ sung nơi chốn.
D; Trạng ngữ bổ sung nơi chốn.
E: Trạng ngữ bổ sung nơi chốn
tìm TN(trạng ngữ), VN(vị ngữ), CN(chủ ngữ) trong câu sau:
- Ngoài vườn, những bông hoa đua nhau nở rực rỡ.
Trạng ngữ : Ngoài vườn .
Chủ ngữ : Những bông hoa .
Vị ngữ : Đua nhau nở rực rỡ .
TN: ngoài vườn
CN: những bông hoa
VN: đua nhau rực nở.
"Đ: nhớ tick nha "
TN: Ngoài vườn
CN: những bông hoa
VN: còn lại (trừ dấu chấm)
Em hãy xác định TN, CN, VN trong các câu sau (p2):
d. Ngày xưa, Rùa có một cái mai láng bóng.
e. Trước nhà, mấy cây hoa giấy nở tưng bừng.
f. Trước rạp, người ta dọn dẹp sạch sẽ, sắp một hàng ghế dài.
g. Dưới những mái nhà ẩm ước, mọi người vẫn thu mình trong giấc ngủ mệt mỏi.
Ghi sao đc nhỉ?
Chỗ này xác định hơi khó
B1: Xác định chủ ngữ vị ngữ trong các câu sau: a) Bằng thái độ lạnh lùng, cụ già đã dạy cho tên phát sít một bài học sâu cay.
b) Con cá to, ngon.
c) Những bông hoa đua nhau khoe sắc trong vườn nhà bà.
d) Những chú gà nhỏ những hòn tơ lăn trên bãi cỏ
e) Học quả là khó khăn, vất vả
a: Chủ ngữ: cụ già
vị ngữ: đã dạy cho tên phát xít một bài học sâu cay
b: Chủ ngữ: con cá
vị ngữ: to,ngon
c: Chủ ngữ: những bông hoa
vị ngữ: đua nhau khoe sắc trong vườn nhà bà
B1: Xác định chủ ngữ vị ngữ trong các câu sau: a) Bằng thái độ lạnh lùng, cụ già đã dạy cho tên phát sít một bài học sâu cay.
Trạng ngữ : Bằng thái độ lạnh lùng
Chủ ngữ : cụ già
Vị ngữ : đã dạy cho tên phát sít một bài học sâu cay
b) Con cá to, ngon.
Chủ ngữ : con cá
Vị ngữ : to, ngon
c) Những bông hoa đua nhau khoe sắc trong vườn nhà bà.
Chủ ngữ : nhũng bông hoa
Vị ngữ : đua nhau khoe sắc trong vườn nhà bà
d) Những chú gà nhỏ như những hòn tơ lăn trên bãi cỏ.
Chủ ngữ: nhũng chú gà nhỏ như những hòn tơ
Vị ngữ : lăn trên bãi cỏ
e) Học quả là khó khăn, vất vả.
Chủ ngữ : học
Vị ngữ : quả là khó khăn, vất vả
Xác định trạng ngữ chủ ngữ, vị ngữ trong câu sau:
Sớm sớm, những bông hoa đua nhau khoe sắc, từng cánh hoa lấp lánh những giọt sương.
TN:sớm sớm
CN:những bông hoa
VN:đua nhau khoe sắc,từng cánh hoa lấp lánh những giọt sương
Sớm sớm, // những bông hoa // đua nhau khoe sắc, từng cánh hoa lấp lánh
TN CN VN
những giọt sương.
(TN: trạng ngữ
CN: chủ ngữ
VN: vị ngữ).