Bà già đi bán trầu cau
Bán mua chẵn chục trầu cau cho vừa
Ba nghìn một trái cau xanh
Năm nghìn một chục vừa cau, vừa trầu
Bán xong được đúng trăm nghìn
Hỏi bà đã bán ngần nào trầu ca
Bà già đi bán trầu cau
Bán mua chẵn chục trầu cau cho vừa
Ba nghìn một trái cau xanh
Năm nghìn một chục vừa cau, vừa trầu
Bán xong được đúng trăm nghìn
Hỏi bà đã bán ngần nào trầu cau
Bà già đi bán trầu cau
Bán mua chẵn chục trầu cau cho vừa
Ba nghìn một trái cau xanh
Năm nghìn một mớ vừa cau vừa trầu
Vậy Cau 1 trái, 9 trầu
Bán 200 mớ thu về một trăm
Cau xanh 2 chục trái rồi
Trầu một trăm tám mươi tròn đấy thôi!
Bà già đi bán trầu cau
Bán mua chẵn chục trầu cau cho vừa
Ba nghìn một trái cau xanh
Năm nghìn một mớ vừa cau vừa trầu
Vậy Cau 1 trái, 9 trầu
Bán 200 mớ thu về một trăm
Cau xanh 2 chục trái rồi
Trầu một trăm tám mươi tròn đấy thôi!
Bà già đi bán trầu cau
Bán mua chẵn chục trầu cau cho vừa
Ba nghìn một trái cau xanh
Năm nghìn một mớ vừa cau vừa trầu
Vậy Cau 1 trái, 9 trầu
Bán 200 mớ thu về một trăm
Cau xanh 2 chục trái rồi
Trầu một trăm tám mươi tròn đấy thôi!
Bà già đi bán trầu cau
Bán mua chẵn chục trầu cau cho vừa
Ba nghìn một trái cau xanh
Năm nghìn một mớ vừa cau vừa trầu
Vậy Cau 1 trái, 9 trầu
Bán 200 mớ thu về một trăm
Cau xanh 2 chục trái rồi
Trầu một trăm tám mươi tròn đấy thôi!
Tìm số trầu cau mà bà mua?
“Bà già đi bán trầu cau
Bán mua chẵn chục trầu cau cho vừa
Ba đồng một trái cau xanh
Năm đồng một chục vừa cau vừa trầu
Bán xong được đúng trăm đồng
Hỏi bà đã bán ngần nào trầu, cau?”
làm trai 4 bể là nhà !
trai mà như thế chắc là ... ăn xin
Bà già đi bán trầu cau,
Bán mua chẳn chục trầu cau cho vừa.
Ba đồng một trái trầu xanh,
Năm dồng một mớ vừa cau vừa trầu.
Vậy cau một trái, chín trầu,
Bán hai trăm mớ thua về một trăm.
Cau xanh hai chục trái rồi,
Trầu một trăm tám mươi tròn đấy thôi.
Các truyện Trầu, cau và Bánh chưng, bánh giầy cho ta biết người thời Văn Lang có những tục gì?
A. gói bánh trưng, ăn trầu, nhảy múa ca hát.
B. thờ cúng ông bà tổ tiên, chôn người chết.
C. thờ cúng ông bà tổ tiên, ăn trầu, gói bánh trưng.
D. ăn trầu, gói bánh trưng và chôn người chết.
C. thờ cúng ông bà tổ tiên, ăn trầu, gói bánh trưng.
Cau nhỏ mỗi quả bổ ba
Cau to mỗi quả chia ra làm mười
Lễ cưới vừa đúng trăm người
Mỗi người một miếng cau tươi nhai trầu.
Biết rằng có tất cả 17 quả cau,hãy tính số quả cau to và só quả cau nhỏ
Giả thiết tạm: Giả sử có 17 quả to thì bổ được số miếng là: 17 x10=170 (miếng);
Thừa ra số miếng là: 170-100=70 (miếng)
Sở dĩ thừa ra vì ta đã thay một số quả bé bằng một số quả to.
Mỗi một quả thay như vậy thừa ra: 10-3=7 (miếng);
Số quả bé là: 70:7= 10 (quả);
Số quả to là: 17-10=7 (quả).
Đáp số: quả to:7; quả bé: 10
Cau nhỏ mỗi quả bổ ba Cau to mỗi quả chia ra làm mười Lễ cưới vừa đúng trăm người Mỗi người một miếng cau tươi nhai trầu. Biết rằng có tất cả 17 quả cau,hãy tính số quả cau to và só quả cau nhỏ
Giả thiết tạm: Giả sử có 17 quả to thì bổ được số miếng là: 17 x10=170 (miếng); Thừa ra số miếng là: 170-100=70 (miếng) Sở dĩ thừa ra vì ta đã thay một số quả bé bằng một số quả to. Mỗi một quả thay như vậy thừa ra: 10-3=7 (miếng); Số quả bé là: 70:7= 10 (quả); Số quả to là: 17-10=7 (quả). Đáp số: quả to:7; quả bé: 10
Có một bà bán trứng . Bà ra ngoài chợ bán trứng và hô lên rất to: " mười nghìn 3 quả trứng, một chục 4 quả trứng" Người ta đến mua trứng nói bà này khùng : 1 chục mà chả bằng 10 nghìn " Nhưng sao người ta đưa 10 nghìn cho bà , bà chỉ đưa có 3 quả?
Vì trong bài toán bà già đó nói mười nghìn 3 quả và người ta đưa cho bà già 10 nghìn nên chỉ được 3 quả trứng.
Đây là kết quả của mình còn các bạn thì sao.
Đọc đoạn trích sau:
ĐÁNH THỨC TRẦU
Đã ngủ rồi hả trầu?
Tao đã đi ngủ đâu
Mà trầu mày đã ngủ
Bà tao vừa đến đó
Muốn có mấy lá trầu
Tao không phải ai đâu
Đánh thức mày để hái
Trầu ơi hãy tỉnh lại
Mở mắt xanh ra nào
Lá nào muốn cho tao
Thì mày chìa ra nhé
Tay tao hái rất nhẹ
Không làm mày đau đâu
Đã dậy chưa hả trầu?
Tao hái vài lá nhé
Cho bà và cho mẹ
Đừng lụi đi trầu ơi!
(Trần Đăng Khoa)
Câu 1: Xác định thể loại, thể thơ và phương thức biểu đạt chính của văn bản trên.
Câu 2: a.Nêu nội dung chính của văn bản.
b.Chỉ ra yếu tố tự sự trong văn bản trên.
Câu 3: Mục đích nhân vật trữ tình đánh thức trầu trước khi hái lá để làm gì?
Câu 4: Chỉ ra những câu thơ, những từ ngữ, hình ảnh có sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa và nêu tác dụng của biện pháp tu từ đó trong văn bản.
Câu 5: Em có nhận xét, suy nghĩ gì về nhân vật xưng "tao" trong văn bản?
Câu 6: Qua bài thơ, em rút ra bài học gì về cách ứng xử với thiên nhiên, môi trường?
Câu 7: Viết đoạn văn khoảng 12 dòng, trình bày cảm nhận của em về bài thơ "Đánh thức trầu" của Trần Đăng Khoa.
Ai giúp mình với ạ.
Tham khảo:
Câu 1:
Phương thức biểu đạt chính: biểu cảm
Thể thơ: 5 chữ.
Thể loại: thơ
Câu 2:
a) Qua bài thơ Đánh thức trầu, Trần Đăng Khoa đã khắc họa cảnh em bé trò chuyện với trầu như một người bạn, mong được hái trầu cho bà và mẹ cũng như mong trầu sống mãi. Qua đó thể hiện tình yêu bà, yêu mẹ và yêu thiên nhiên, trân trọng thiên nhiên.
Câu 3: Mục đích nhân vật trữ tình đánh thức trầu trước khi hái lá để bài tỏ thái độ lịch sự, tôn trọng lá trầu, khi hỏi xin lá
Câu 4:
- Biện pháp tu từ nhân hóa: Tác giả đã xưng hô, trò chuyện thân mật với trầu là " mày - tao " và miêu tả hành động cho trầu "ngủ"
Tác dụng:
+ Làm cho hình ảnh của lá trầu trở nên sinh động, có hồn giống như một con người
+ Gợi tả sự gần gũi hòa hợp với thiên nhiên và tình yêu cây trầu của tác giả
+ Dùng trầu để làm phương tiện, làm cớ để con người giãi bày tâm sự.
Câu 5: Cách xưng hô gần gũi và lời đánh thức trầu nhẹ nhàng, thân mật, ba lần gọi dậy vì sợ trầu đã ngủ say, thể hiện tình cảm yêu quý thiên nhiên và thân thiết của cậu bé với trầu giống như những người bạn đang nói chuyện cùng nhau.
Câu 6: Bài thơ Đánh thức trầu, đã khắc họa cảnh em bé trò chuyện với trầu như một người bạn, mong được hái trầu cho bà và mẹ cũng như mong trầu sống mãi. Qua đó thể hiện tình yêu bà, yêu mẹ và yêu thiên nhiên, trân trọng thiên nhiên.
Câu 7:
Với quan niệm hồn nhiên của con trẻ, lại từng thuộc làu làu câu hát của bà khi muốn hái trầu đêm, Trần Đăng Khoa đã đánh thức trầu bằng một lối riêng – lối của những chú bé bạn bè đồng trang đồng lứa.
Câu hát của bà em là câu hát để hái trầu đêm của người lớn. Dù có quan hệ bình đẳng (người này là chúa của người kia và ngược lại) thì cái ý thức làm chúa để muốn hái lúc nào thì hái- vẫn là chủ yếu trong mối quan hệ ấy. Câu hát của bà như là chiếc cầu nối quá khứ vào hiện tại, làm rõ thêm mối quan hệ mới hồn nhiên và thật sự bình đẳng, mến thân của Trần Đăng Khoa với bạn Trầu. Muốn xin mấy lá trầu thì không thể không nói chuyện với chủ nhân. Cái anh bạn Trầu này xem chừng đã ngủ. Câu hỏi để đánh thức tuy không khẳng định nhưng thiên về ý biết chắc Trầu đã ngủ. Bởi thế nên mới không hỏi. "Đã ngủ chưa hả trầu" mà hỏi "đã ngủ rồi hả trầu" và sau đó còn nhắc lại "mày đã ngủ". Trong câu hỏi đó vừa thân mật lại vừa có một tí so sánh, một tí lí sự rất trẻ con: Đã ngủ rồi hả trầu? Tao đã đi ngủ đâu Mà trầu mày đã ngủ (Mày và tao cùng là trẻ con, cùng chơi ban ngày, vậy sao mày đi ngủ sớm thế)? Đánh thức bạn nhưng Trần Đăng Khoa chỉ dùng lời gọi nhẹ nhàng chứ không thò tay giật tóc, véo tay hay hét toáng vào tai. Cái việc đánh thức bạn, làm bạn dở giấc ngủ dẫu sao cũng là bất đắc dĩ, dẫu sao cũng là không hay nên cần phải giải thích, phải thanh minh để bạn thông cảm: Bà tao vừa đến đó Muốn xin mấy lá trầu Đã là bạn bè với nhau thì bà của Khoa cũng là bà của Trầu. Để cho bà vui lòng thì dù có bị đánh thức đột ngột, mắt có cay xè chắc Trầu cũng không nỡ giận, không nỡ trách. Có lẽ Trầu ngủ say quá, chú bé Trần Đăng Khoa lại phải gọi và nhắc lại yêu cầu: Trầu ơi hãy tỉnh lại Mở mắt xanh ra nào Lá nào muốn cho tao Thì mày chìa ra nhé Kèm theo đó là một lời hứa: Tay tao hái rất nhẹ Không làm mày đau đâu Bàn tay trẻ thơ "như hoa đầu cành. Hoa hồng hồng nụ cánh tròn ngón xinh" (Huy Cận). Bàn tay ấy sẽ nâng niu "chẳng làm đau một chiếc lá trên cành" (Tố Hữu). Sẽ hái vài lá trầu thôi. Đó là những lá bạn đồng ý cho, đã chìa ra sẵn: Đã dậy chưa hả trầu Phải đến ba lần đánh thức vì có thể bạn ngủ rất say mà cũng còn vì khi tỉnh rồi bạn vẫn có thể ngủ lại ngay. Bởi thế nên phải hỏi thêm một lần này nữa. Do một lẽ Khoa rất quý bà, thương mẹ. (Có không ít bạn ở tuổi này dễ vin vào lí do trẻ con, sợ tối, hãi ma để khước từ việc ra vườn một mình hái trầu trong đêm tối). Và Khoa cũng rất quí, rất thương trầu: Đừng lụi đi trầu ơi! Hái trầu đêm dễ làm trầu lụi. Vậy nên phải đánh thức, phải nói rõ lí do, phải hái rất nhẹ nhàng, và chỉ hái vài lá vừa đủ cho bà và cho mẹ.
Đừng lụi đi trầu ơi là mong ước, là nguyện cầu của Trần Đăng Khoa đối với trầu. Bài thơ một lần nữa cho thấy tâm hồn trắng trong như lụa của tuổi thơ trong tình bạn – dù là bạn với cỏ cây