Sợ sánh hình ảnh cánh chim trong bài tràng giang và chiều tối
Phân tích 2 câu đầu khổ 4 " Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa,"
bài " Tràng Giang" - Huy Cận
Phân tích đoạn thơ sau trong bài Tràng giang của Huy Cận:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dờn dờn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
MB: Giới thiệu về Huy Cận, bài thơ Tràng Giang và đoạn thơ phân tích
TB: Nêu hoàn cảnh sáng tác, cảm xúc bao trùm bài
- Nội dung bao quát cảnh và tình trong toàn bộ bài thơ
+ Hai câu thơ đầu: Cảnh thiên nhiên lúc chiều tà
+ Một nét vẽ mây núi hùng vĩ
+ Một cánh chim nhỏ tựa bóng chiều
- Thủ pháp tương phản: nỗi lòng cô đơn, nhỏ bé, chấp chới giữa dòng đời
+ Hai câu thơ thể hiện nỗi nhớ nhà, nhớ quê dâng ngập lòng người, nỗi khao khát tìm chỗ dựa cho tâm hồn
Nghệ thuật dùng từ láy âm “dờn dợn” lấy cái không có ngoại cảnh để nói cái có ở lòng người
Đánh giá nội dung và nghệ thuật đoạn thơ
+ Đoạn thơ nói lên nỗi niềm bơ vơ, buồn bã của “cái tôi” trữ tình, cảm xúc hướng về quê hương
+ Bài thơ mang vẻ đẹp cổ điển ở hình thức ngôn ngữ, ở bút pháp tả cảnh ngụ tình
KB: Đánh giá chung về đoạn thơ
Hình ảnh nào trong bài thơ Tràng giang ko thuộc hệ thống thi liệu trung đại ???
A - Con thuyền xuôi mái chèo B - Ccanhf củi khô bồng bềnh
C - Cánh bèo trôi dạt D - Cánh chim chiều
cánh chim diều k nha mk bị âm điểm
Câu 1: Bức tranh thiên nhiên chiều tối được miêu tả qua mấy hình ảnh? Là hình ảnh nào? Hình ảnh đó có đặc điểm gì?
Câu 2: Tìm những câu thơ miêu tả chiều tối có hình ảnh cánh chim?
Câu 3: Hình dung miêu tả về cảnh thiên nhiên núi rừng lúc chiều tối?
Cảm nhận về một hình ảnh cho là đặc sắc trong bài Tràng Giang của huy cận Mn giúp e với em cần gấp ạ
Cảm nhận 2 câu thơ đầu khổ 4 bài Tràng giang:
"Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa" ( khoảng 20 dòng )
Tham khảo nha bạn:
Huy Cận là một nhà thơ tiêu biểu trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Trong số những tác phẩm mà ông để lại cho đời thì nổi bật nhất có lẽ là "Tràng giang". Thi phẩm đã tái hiện xuất sắc vẻ đẹp của thiên nhiên khi hoàng hôn buông xuống đồng thời nói lên tâm trạng buồn man mác của nhà thơ. Ngay từ những vần thơ đầu tiên, thi sĩ đã mở ra một không gian rộng lớn với "lớp lớp" những đám mây cao đang lững thững trôi trên bầu trời. Xa xa là những ngọn núi nhấp nhô, nối tiếp nhau. Trong không gian ấy, xuất hiện hình ảnh của những cánh chim với hình bóng nhỏ bé "bóng chiều sa". Câu thơ gợi một không gian lắng động, ẩn chứa nỗi buồn, sầu đọng của Huy Cận. Câu thơ đã một ra một bức tranh đượm buồn, chất chứa đầy tâm trạng, cảm xúc của thi nhân. Thật vậy, trong thơ xưa, khi đến khung cảnh chiều tà thường gợi sự đượm buồn sâu lắng. Thơ của Huy Cận cũng không phải ngoại lệ. Thật vậy, bài thơ Tràng giang là một bức tranh thiên nhiên ảm đạm, bộc lộ chân thực những suy tư trong lòng Huy Cận.
TK:
– Tràng giang gợi một nỗi buồn cô đơn, lạc lõng trước cảnh trời nước mênh mông, cao rộng bất tận, nhưng trống trải, hoang vắng, xa lạ, hững hờ và vô định. Toàn cảnh trời rộng sông dài tuyệt nhiên không có một bóng người, không có dấu vết của sự giao lưu thân mật, gần gũi: không một chuyến đò ngang, không một chiếc cầu để gợi chút niềm thân mật, "không một chút ấm áp của sự sống" (Huy Cận).
– Hai câu thơ đầu trong khổ thơ cuối khắc họa lại cảnh tượng rực rỡ, kì vĩ khi mặt trời xuống thấp, hắt ánh sáng lên các lớp mây cao cuồn cuộn đùn ra như những núi bạc:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Tác giả rất thích chữ "đùn", tả mây như có sức đẩy ở bên trong, cứ trồi ra hết lớp này đến lớp khác.
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Ba chữ bóng chiều sa in lên núi bạc đùn lên, còn dáng chim nghiêng cánh nhỏ tương phản với lớp lớp, núi bạc, càng trở nên nhỏ nhoi, cô độc.
Hai câu thơ đẹp trong hình ảnh là linh hoạt trong nhịp bước của thời gian. Không gian vừa mới vươn trải mênh mông trong dáng (lấp ngàn mây lớp lớp chất chồng, chợt ập xuống hoàng hôn.
tk
Nhà thơ Huy Cận có rất nhiều bài thơ hay miêu tả về cảnh thiên nhiên , tình yêu quê hương đất nước, nỗi nhớ nhà trong đó nổi bật nhất là bài thơ " tràng giang" nó là bài thơ tiêu tiêu biểu của phong trào thơ mới. trong bài thơ " tràng giang " em thích nhất là khổ thơ cuối của bài thơ khổ thơ này đã thể hiện tâm trạng buồn, cô đơn, bơ vơ của tác giả khi nhớ nhà:
"Lớp lớp mây cao đùn núi bạc ,
Chim nghiêng cảnh nhỏ :bóng chiều sa ,
LÒNG quê dờ dợn vời non nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà."
vâng tác giả đã dùng những từ láy " lớp lớp" ở đây để miêu tả rõ hình ảnh của nhưng đám mây nhiều nó từng lớp từng lớp đã làm bạc đi cả bầu trời, câu thơ :"lớp lớp mây cao đùn núi bạc " nàa thơ đã dùng biện pháp so sánh ẩn dụ để tô thêm vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ tác giả đã so sánh màu của những đám mây với" bạc" một cách so sánh khá khéo leó.những lớp mây đùn lên thành núi bạc cón chim thì chao nghiêng nhưng ở đây không phải là chao nghiêng một cách bình thường mà "chim nghiêng cánh nhỏ :bóng chiều sa"có lẽ những đàn chim đang vội vã bayvề tổ ấm của mình để tránh được cái " bóng chiều sa".Dường như những cánh chim đó đang bị đè nặng của cảnh xế chiều buông xuống và điều đặc biệt hơn là cánh chim không bình thường mà chim nghiêng bỏi đôi cánh nhỏ bằng đôi cánh nhỏ của mình chim bay vể tổ ấm của mình đề tránh được một không gian rộng lớn buổi chiều tà. chim bay đi đâu cho thoát khỏi cái bóng chiều tà đang đè nặng xuống mình? đến với câu thơ
"lòng quê dờn dợn vời non nuước"
LÒNG QUÊ ở đây muốn nói lên nỗpi nhớ quê hương của nhà thơ , sự hướng tâm chứ không chỉ đơn thuần là tấm lòng chất phác , quê mùa. hai từ "dờn dợn " cho ta cảm nhận sóng biển đang ở bên ta, sóng biển cũng biết nhớ thương hay tác giả đang nhớ thương vậy?hai từ "dờn dợn "còn gợi cho ta thấy được sự lên xuống uốn lượn của sóng biển hay nỗi nhớ trào dâng của nhà thơ khi đứng trước cảnh hoang vắng của một buổi chiêu tà, và nỗi nhớ ấy không chỉ một lần mà là liên tục ,nhiểu lần nhưng nỗi ấy mới chỉ là 'dờn dợn ' mà chưa phải là cuồng nhiệt. câu thơ muốn nói lên lòng nhớ quê hương khi tác giả sông nước. hay trong chuyện kiều cũng tả nỗi nhớ nhà nhưng lại chưa biết đâu là nhà khi;
" bốn phương mây trắng một màu
trông vời cố quôc biết đâu là nhà"
kiếu nhớ quê nhà nhưng bốn phương đều là một màu làm sao để nhận ra được đâu là nhà hay trong cuộc sống của cô như thế thì sẽ biết về đâu và đâu sẽ là nhà?vâng lòng nhớ quê hương được gợi lên BỜITỪ" MÂY TRẮNG ", cánh chim chiều và được tác giả nhấn mạnh ooở từ" con nước'. tác giả kết thúc bài thơ một cách nhẹ nhàng nhưng sâu lắng :
" không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà"
nhà thơ đã mượn từ "khói " trong thơ của nhà thơ thôi hiệu để nói lên nỗi lòng của mình, nếu như nhà thơ Tô Hiệu nói" trên sông khói sóng cho buồn lòng ai" thì nhà thơ HUY CẬN không có "khói " nhưng vẫn nhớ về nhà hay cái nôi mà mình đã nuôi ta trưởng thàn. nhà thơ tô hiệu mới nói lên nỗi nhớ nhà một cách chung nhưng ở đây nhà thơ huy cận đã khẳng định "không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà" câu thơ rất mạnh mẽ dứt khoát . Xưa kia nhà thơ thôi hiệu buồn vì cõi tiên mù mịt , quê nhà cách xa , khói sóng trên sông gợi cho tác giả thấy mờ mịt mà sầu. Nhưng nay Huy Cận buồn trước cảnh không gian hoang vắng ,sóng "gợn tràng giang "khíến ông nhớ tới quê hương như một nguồn ám áp vá là tổ ấm hạnh phúc đối với ông.thôi hiệu tìm giấc mơ tiên chỉ thấy hư vô , đó là lòng khát khaôột cõi quê hương thực tại còn Huy Cận một mình đối diện với khung cảnh vô tình ,hoang vắng lòng ông lại muốn được trở về với quê hương mang nặng tình thương và mang lại sự ấm áp cho tác giả đó cũng là nỗi khát vọng của ông.
Cảm nhận về bức tranh thiên nhiên và tâm trạng của cái tôi trữ tình qua đoạn thơ sau:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
(...)
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
(Trích Tràng giang - Huy Cận, SGK Ngữ văn 11, tập 2, Nhà xuất bản giáo dục)
1. MB: Giới thiệu tác giá, tác phẩm, hoàn cảnh ra đời của bài thơ, vị trí, trích dẫn đoạn thơ.
Nêu luận đề: Bức tranh tràng giang mênh mang, vô tận, hùng vĩ, sự vật bé nhỏ, lạc loài. Tâm trạng của cái tôi trữ tình: cô đơn, bơ vơ, nỗi sầu nhân thế và tình thương nhớ quê hương da diết.
2. TB: HS có thể triển khai bài viết theo nhiều cách khác nhau nhưng phải đáp ứng những nội dung cơ bản sau:
1. Khổ 1
- Bức tranh thiên nhiên: không gian sông nước mênh mang ( Sóng gợn tràng giang, nước... trăm ngả); Hình ảnh cõi nhân thế (Con thuyền xuôi mái, thuyền về nước lại, củi ... lạc mấy dòng). Tương quan đối lập: Không gian tràng giang bao la >< thế giới của cõi nhân sinh bé nhỏ, đơn côi.
- Tâm trạng cô đơn, lẻ loi, mối sầu trăm ngả của nhân vật trữ tình giữa trời đất.
- Nghệ thuật: Đối lập, đăng đối cấu trúc, thanh điệu, từ láy, đảo cú pháp, phép bồi thấn (sử dụng từ ngữ tăng cấp), hình ảnh cổ điển và hiện đại...
2. Khổ 2
- Thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ (Lớp lớp mây chất chồng thành núi bạc, cánh chim nhỏ làm cho bầu trời thêm mênh mang.)
- Tâm trạng của cái tôi trữ tình: cảm giác bơ vơ, nhỏ nhoi đến tội nghiệp, lòng nhớ quê dâng trào theo con nước triều dâng mà không cần khói sóng.
- Nghệ thuật: Phép đối, dấu hai chấm giữa dòng thơ, từ láy, thi liệu và bút pháp mang đậm màu sắc cổ điển nhưng có sáng tạo, mang màu sắc độc đáo của thơ Mới.
3. Đánh giá chung
- Bức tranh thiên nhiên mênh mang, đậm nét cổ kính, chất Đường thi nhưng gần gũi, gợi linh hồn quê hương xứ sở.
- Đi suốt hai khổ thơ là nỗi buồn triền miên vô tận của cái tôi trữ tình. Nỗi buồn đó là tiêu biểu của cả thế hệ trí thức sống trong những tháng năm ngột ngạt dưới thời Pháp thuộc, sống trên quê hương mà vẫn nhớ quê hương, là biểu hiện tình cảm yêu nước thầm kín mà tha thiết của nhà thơ. Vì thế, đó là nỗi buồn trong sáng, góp phần làm phong phú thêm cho tâm hồn bạn đọc mọi thời đại.
- Nghệ thuật: Yếu tố cổ điển kết hợp màu sắc hiện đại.
4. KB: - Khẳng định vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên mang dấu ấn của một nhà Thơ Mới, thấm đẫm nỗi buồn của cái tôi Thơ Mới.
- Tình yêu thiên nhiên, yêu non sông đất nước, nỗi sầu nhân thế của Huy Cận mãi mãi chạm tới trái tim của độc giả mọi thời đại.
Hình ảnh thiên nhiên trong các bài thơ Tràng giang (Huy Cận), Đây mùa thu tới (Xuân Diệu), Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử). Phân tích những nét chung của thiên nhiên trong ba bài thơ và chỉ ra đặc điểm riêng của thiên nhiên trong từng bài thơ.
Thiên nhiên là đề tài muôn thuở của thi ca. Các thi sĩ đến với thiên nhiên bằng tâm hồn nhạy cảm, tinh tế và đầy mến yêu. Không ai quên thế giới Bồng Lai tiên cảnh trong thơ Lý Bạch, núi rừng hữu tình trong thơ Nguyễn Trãi, làng quê mộc mạc đơn sơ trong thơ Nguyễn Khuyến. Và cũng không ai quên trong phong trào Thơ Mới (1930 – 1945) từng có một tiếng reo "Đây mùa thu tới" của Xuân Diệu, một tình cảm mênh mang với "Tràng giang" của Huy Cận và một nỗi niềm hẫng hụt, chơi vơi với "Đây thôn Vĩ Giạ" của Hàn Mặc Tử.
Thiên nhiên chớm vào mùa thu trên đất Bắc trong "Đây mùa thu tới" thật đẹp mà cũng thật buồn – một vẻ đẹp, một nét buồn rất mới, rất khác so với thơ ca trung đại.
Nếu như cảm quan nghệ thuật của thi ca trung đại là: lấy thiên nhiên làm chuẩn mực vẻ đẹp cho con người – như Nguyễn Du đã từng tả Thúy Vân: "Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang. Hoa cười ngọc thốt đoan trang. Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da” (Truyện Kiều) – thì với Xuân Diệu – "nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới" – con người là vẻ đẹp chuẩn mực cho thiên nhiên:
"Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng."
Chưa ai có một cách so sánh lạ như Xuân Diệu. Cây liễu đẹp như người thiếu nữ đứng xõa tóc "chịu tang". Mỗi sợi tóc là một sợi buồn, mỗi nhành liễu là một sợi tóc. Từ cổ chí kim, không có nỗi buồn nào thấm thía đau đớn bằng nỗi buồn chịu tang. Bao nhiêu nước mắt rơi xuống mà nỗi buồn chẳng vơi. Rặng liễu với những sợi tơ liễu được kết bằng những lá liễu dài gối lên nhau "hàng hàng" rủ xuống như "lệ" giăng mắc đầy một khoảng trời làm nỗi buồn chớm thu như càng tăng thêm, thấm thía hơn. Và trong nỗi buồn ấy còn gợi lên một nỗi đau mất mát:
"Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh"
Ngày lại ngày trôi qua, thu về, cảnh vật biến đổi, cây cối xơ xác trơ trụi, khẳng khiu như đang run rẩy, khẽ rùng mình trong gió se se lạnh: "Đã nghe rét mướt luồn trong gió". Cảm nhận về cái rét đến trong gió của Xuân Diệu là một cảm nhận mới. Thiên nhiên xôn xao, cựa mình – điều ấy thể hiện qua nghệ thuật sử dụng phụ âm “r” (rụng/rũa/run rẩy/rung rinh) và phụ âm "m" (mỏng manh) – không giống thiên nhiên trong thơ cổ mang nét tĩnh lặng, ngay cả khi "Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo" (Mùa thu câu cá – Nguyễn Khuyến) thì cả không gian thiên nhiên thu vẫn chủ yếu là tĩnh lặn Cùng với "lá vàng" trong thơ Nguyễn Khuyến, ai cũng biết bức tranh "Mùa thu vàng" của danh họa Lê-vi-tan, nhưng không đâu có một màu vàng mới và độc đáo như màu vàng của đất trời vào thu trong "Đây mùa thu tới" của Xuân Diệu. Đó không phải là những đốm vàng nhỏ mà là cả một "không gian vàng" – một màu vàng "mơ phai" rất riêng rất khó lẫn. Đó là màu vàng của "cái hồn thu qua sắc lá" (Tạ Đức Hiền) làm mùa thu bớt buồn và thêm thi vị, thêm đáng yêu. "Mùa thu tới!" – Xuân Diệu đã nhận được bức thông điệp của mùa thu và đã reo lên sung sướng: "Đây mùa thu tới! Mùa thu tới!". Giai điệu rộn rã của tiếng reo khiến ta cảm giác hình như Xuân Diệu đang hát lên tiếng hát khát vọng giao cảm với cuộc đời. Bước chân đến với trời thu của thi sĩ đầy "giục giã", "vội vàng".
Cùng mang vẻ đẹp buồn truyền thống, nhưng nếu như thiên nhiên trong "Đây mùa thu tới" đẹp thướt tha, thì thiên nhiên trong "Tràng giang" lại mang vẻ đẹp hùng vĩ rợn ngợp của "trời rộng", "sông dài”:
"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song"
…
"Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu"
Thiên nhiên ở đây đậm sắc màu cổ điển. Dòng sông mênh mang, chảy dài giữa không gian vắng lặng, bát ngát. Những con sóng gối lên nhau lớp lớp không bao giờ dừng như nỗi buồn miên man không dứt. Song song với con thuyền buông trôi, thụ động phó mặc cho cuộc đời, không một chút hi vọng là biểu hiện của nỗi buồn chia lìa, li biệt. Bao nhiêu ngả nước, bấy nhiêu ngả sầu, cảnh ở đây rất sầu: từ "con thuyền", "cành củi khô" đến "nước", "sóng" và cả "bờ xanh", "bãi vàng”, "bến cô liêu" đều mang nỗi sầu lớn. Nỗi "buồn điệp điệp" triền miên lan tỏa xuyên suốt bài thơ và cồn cào, day dứt nhất ở hình ảnh cuối bài:
"Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà"
Nỗi buồn của Huy Cận miên man không dứt như sóng nước mênh mông bất tận, theo sóng nước lan tỏa rất xa, buồn hơn nhiều so với Thôi Hiệu (Đời Đường – Trung Quốc): "Yên ba giang thượng sử nhân sầu" (Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?). Từ nỗi buồn đằng dặc ấy, vẻ đẹp hiện lên là vẻ đẹp mênh mang đất trời. Không gian mở rộng ra mọi chiều cả về độ dài – rộng, cao – sâu. Đó là cái đẹp lặng lẽ, rợn ngợp của không gian sông nước quen thuộc, gần gũi được Huy Cận dựng lên bằng hình ảnh đơn sơ, thành những nét vẽ tinh tế, giàu màu sắc cổ điển mà vẫn mới. Thấm đượm trong cảnh là một linh hồn "mang mang thiên cổ sầu" và một cái gì như thể là linh hồn ngàn xưa của dân tộc vẫn còn vương vấn nơi bãi rộng sông dài với "bến cô liêu", với "bèo dạt", "mây", "cánh chim", "bóng chiều", với "khói hoàng hôn" với tình quê đậm đà, da diết cháy trong lòng thi nhân.
Thiên nhiên được khúc xạ qua tâm hồn thi sĩ, mang nỗi buồn của nhà thơ. Cái đẹp thực, đẹp ảo của cảnh là cái đẹp trong sự thảng thốt của tác giả. Nỗi buồn mênh mang từ hoàn cảnh của nhà thơ là nỗi buồn gắn với thiên nhiên. Trong "Tràng giang", "nỗi buồn thấm trong từng câu chữ", đầy như dòng sông Hồng cuồn cuộn chảy.
Trong "Đây mùa thu tới" nỗi buồn tỏa ra từ niềm cô đơn, quạnh vắng, còn trong "Đây thôn Vĩ Giạ" nỗi buồn lại nhè nhẹ cất lên từ ý thức bị lãng quên của nhà thơ. Nhưng khác với "Đây mùa thu tới" và "Tràng giang", "Đây thôn Vĩ Giạ" là một bài thơ "có bước nhảy cảm xúc" (Vũ Quần Phương), có sự chuyển đổi cảm xúc rất nhanh, rất nhuần nhị, tinh tế. Bài thơ có ba khổ thì mỗi khổ là một câu hỏi gắn với tâm trạng khác nhau của Hàn Mặc Tử, gắn với những vẻ đẹp khác nhau của thiên nhiên xứ Huế thơ mộng. Ở khổ một, thi sĩ đang vui sướng "nhìn nắng hàng cau nắng mới lên", ngắm "vườn ai mướt quá xanh như ngọc" thật đẹp đẽ của thôn Vĩ Giạ. Đó là vẻ đẹp nguyên sơ – thánh thiện, vẻ đẹp tươi tắn, rạng rỡ, trinh nguyên của xứ Huế hiện lên rõ nét trong dòng hoài niệm của Hàn Mặc Tử. Đến khổ thứ hai, cảm xúc của thi nhân chợt lắng xuống thoáng buồn:
"Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay"
"Đây mùa thu tới" nói về nỗi buồn tàn lụi, chia lìa: "Hơn một loài hoa đã rụng cành, trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh" với cách nói phiếm định: "hơn một" đệm màu sắc văn hóa phương Tây, đầy mới mẻ. "Tràng giang" nói về nỗi buồn li biệt của cảnh: "Con thuyền xuôi mái nước song song" mang dấu ấn cổ điển. Và "Đây thôn Vĩ Giạ" cùng nói về nỗi buồn lẻ loi, tan tác: "Gió theo lối gió mây đường mây, dòng nước buồn thiu hoa bắp lay" nhưng không đơn giản chỉ có thế mà còn là nỗi buồn xa cách, bị lãng quên. Dòng sông Hương lững lờ trôi là dòng "sông trăng" chất chở nỗi buồn nhẹ nhàng, man mác của lòng người. Từ cái đẹp trinh nguyên của xứ Huế mộng mơ thực tại, dòng liên tưởng của Hàn Mặc Tử hướng về một cái dẹp mờ ảo của cảnh vật trong sự chia cách. Cũng như nỗi buồn của Xuân Diệu trong "Đây mùa thu tới", nỗi buồn của Hàn Mặc Tử ở đây cũng thật lặng lẽ, nhẹ nhàng chứ không phải triền miên, dữ dội như sóng của Huy Cận trong "Tràng giang".
Với thể thơ thất ngôn truyền thống, nhìn chung, nỗi buồn của thơ Xuân Diệu là nỗi "buồn không nói", của thơ Huy Cận là nỗi "buồn điệp điệp", của thơ Hàn Mặc Tử là nỗi "buồn thiu”. Thiên nhiên trong cả ba bài thơ đều đẹp và buồn bởi thiếu một tình người. Tình người mà ở mỗi bài thơ được thi nhân nhắc đến là để xoa dịu nỗi buồn bị quên lãng ("Đây thôn Vĩ Giạ"); xóa cô đơn, rợn ngợp trong lòng, tìm đến một tình quê ấm áp ("Tràng giang"); xóa cái lạnh của lòng người, tìm đến một tình yêu, một khát vọng giao cảm với thiên nhiên, với cuộc đời ("Đây mùa thu tới"). Các nhà thơ có sự cảm nhận tinh tế về thiên nhiên cũng như đã biểu hiện một cách sâu sắc thế giới tâm trạng, cảm xúc của mình trước thiên nhiên đó.
Thiên nhiên trong thơ mới là một đóng góp về mặt tư tưởng văn hóa của người Việt Nam. Điều đó đã chứng tỏ một tình yêu quê hương đất nước của các nhà thơ mới nói chung và của Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử nói riêng.
chỉ ra ý nghĩa của các hình ảnh trong truyện ''tôi đi học'' : hình ảnh con chim non đứng bên bờ tổ , ông đốc , âm thanh tiếng trống trường , và cánh chim bên bờ cửa sổ ở cuối bài
Đoạn văn kết lại tác phẩm thật đẹp trong hình ảnh liên tưởng : “Một con chim con liệng đến đứng bên bờ cửa sổ, hót mấy tiếng rụt rè rồi vỗ cánh bay cao”. Cánh chim của đồng nội đã đến với lớp học để làm sống lại kỷ niệm những hôm đi chơi suốt cả ngày, để lại trở về bao hình ảnh quen thuộc của cánh đồng lúa hay bên bờ sông Viêm. Con chim con ấy cũng chính là hình ảnh cậu bé buổi đầu đến lớp rụt rè để một mai sẽ được bay cao vào khung trời cao rộng. Nhưng trước mắt cậu bé giờ đây là phấn trắng, bảng đen và nét chữ của thầy, để cậu lại nghiêm chỉnh lần đầu trong đời, thể hiện tư cách cậu học trò ngoan: “Tôi vòng tay lên bàn chăm chỉ nhìn thầy viết và lẩm nhẩm đánh vần đọc: Bài viết tập: Tôi đi học”.