Những câu hỏi liên quan
Đậu Hũ Kho
Xem chi tiết

TK#

Trong 9 tác gia văn học nổi tiếng của Việt Nam, Nguyễn Trãi là một trong số những nhà văn trung đại kiệt xuất, cuộc đời của ông gắn bó với sự biến đổi khôn lường của 3 triều đại là Trần - Hồ - Hậu Lê. Trong số đó với triều Hậu Lê Nguyễn Trãi đã trở thành bậc khai quốc công thần, là nhà quân sự, chính trị kiệt xuất đóng góp to lớn vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi đánh tan 15 vạn quân Minh xâm lược, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, một kỷ nguyên độc lập vững bền. Trong mảng văn chương, đặc biệt là các tác phẩm chính luận Nguyễn Trãi viết để phục vụ cho quá trình gây dựng đất nước và hoạt động đối ngoại, thì tác phẩm nào cũng được xem là áng văn chính luận mẫu mực bậc nhất. Nổi bật nhất trong số đó chính là tác phẩm Bình Ngô đại cáo, được viết sau thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn, đây được xem là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc, là áng thiên cổ hùng văn nghìn đời khó có. Trong tác phẩm ngoài việc nêu luận đề chính nghĩa, tố cáo tội ác của giặc Minh, ca ngợi sức mạnh đoàn kết của nghĩa quân, tường thuật lại cuộc khởi nghĩa thì Nguyễn Trãi cũng không quên dành một đoạn thơ khá dài để khắc họa hình tượng chủ tướng Lê Lợi, một con người tài năng, đức độ, lãnh đạo nghĩa quân từ những ngày khổ tận cho đến ngày cam lai.

 

Trong Bình Ngô đại cáo hình tượng Lê Lợi được Nguyễn Trãi dựng lên từ những ngày khởi nghĩa mới bắt đầu, khó khăn chồng chất, dưới hình thức lời tự thuật của nhân vật.

"Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa,
Chốn hoang dã nương mình.
Ngẫm thù lớn há đội trời chung,
Căm giặc nước thề không cùng sống."

Cách xưng hô thân tình "ta" thể hiện sự khiêm nhường, gần gũi, nhưng cũng thể hiện ý thức của nhân vật về vị trí và tầm vóc của mình trong nghĩa quân, thể hiện dáng vẻ của một vị lãnh tụ có đủ đức, đủ tài. Lê Lợi là người Lam Sơn, lại ý thức được trách nhiệm bảo vệ đất nước của người nam nhi để trả mối nợ công danh thế nên ông cũng chọn "núi Lam Sơn dấy nghĩa", làm điểm khởi đầu của nghĩa quân. Có thể nói rằng đây là một lựa chọn chính xác, bởi hơn ai hết với vai trò là một chúa trại, Lê Lợi hiểu rất rõ địa hình quê hương, việc nuôi giấu, luyện binh trở nên dễ dàng và thuận lợi hơn rất nhiều, không những thế nơi này còn gần với gia đình ông, có thể dễ dàng tiếp tế lương thực và nhu yếu phẩm hàng ngày, nghĩa quân ổn định chuẩn bị cho chiến đấu. Thêm vào đó ta cũng thấy được đức hạnh của Lê Lợi, một chàng trai 21 tuổi thế nhưng có tấm lòng vì nghĩa lớn ông sẵn sàng từ bỏ cuộc sống giàu sang, an nhàn của một chúa trại, từ chối lời dụ dỗ quan tước của nhà Minh để vào "chốn hoang dã nương mình". Chấp nhận cuộc sống thiếu thốn, nguy hiểm trùng vây, ngày đêm mất ngủ lo nghĩ kế sách diệt giặc, thật là xứng đáng với mấy chữ lãnh tụ đức độ, kiệt xuất của dân tộc. Mà tất cả những hành động, ý chí cao đẹp ấy của Lê Lợi đều xuất phát từ một lý do duy nhất là lòng yêu nước và căm thù giặc sâu sắc "Ngẫm thù lớn há đội trời chung/Căm giặc nước thề không cùng sống". Kết hợp với lý tưởng trả món nợ công danh và lòng quyết tâm mạnh mẽ thực hiện hoài bão, Lê Lợi đã trở thành một vị lãnh tụ xuất sắc, là người anh hùng áo vải xuất thân từ tầng lớp nhân dân, xứng đáng trở thành người đứng đầu của một đất nước sau này.

Đặc biệt tấm lòng yêu nước và ý chí quyết tâm dẹp giặc của Lê Lợi còn được thể hiện một cách sâu sắc trong đoạn thơ tiếp.

 

"Đau lòng nhức óc, chốc đã mười mấy năm trời,
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh;
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi."

Đoạn thơ đã bộc lộ tâm huyết và những nỗi lòng sâu kín của chủ soái Lê Lợi trong những ngày nghĩa quân mới được thành lập. Ở ông hội tụ đầy đủ những vẻ đẹp tiêu biểu của một chủ soái kiệt xuất, không chỉ là người có tấm lòng yêu nước thương dân, lòng căm thù giặc không đội trời chung, mà ông còn xuất hiện với vẻ đẹp của một con người mưu cao chí rộng, đức độ vô cùng với những tâm trạng "đau lòng, nhức óc, nếm mật nằm gai, quên ăn vì giận, những trằn trọc trong cơn mộng mị...". Lê Lợi thấu hiểu đạo lý, phàm là làm việc lớn ắt không thể nóng vội, thế nên ông một lòng nuôi quân, trăn trở "đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời", để xây dựng một lực lượng quân đội hùng hậu, tăng cao khả năng chiến đấu. Rất có lòng kiên nhẫn "Nếm mật nằm gai há phải một hai sớm tối", một lòng suy xét nghiên cứu sách lược để chiến đấu với giặc Minh đương lúc hung hăng, thịnh thế, những nỗi lo lắng, nghĩa suy vì dân tộc khiến Lê Lợi khó lòng an ổn. Bởi ngày ngày chứng kiến cảnh giặc Minh giày xéo đất nước, với tư thái, đạo đức và tấm lòng yêu nước thương dân sâu sắc Lê Lợi "quên ăn vì giận". Và càng như thế ông lại càng phải thêm đắn đo, nghiên cứu kỹ càng, sao cho tiến đánh quân thù một cách thuận lợi, nhanh chóng đuổi chúng khỏi nước ta, tuy nhiên không được phép nóng vội, hồ đồ mà làm tổn thất nghĩa quân, trong khi quân thù không hề hấn. Chính vì sứ mệnh nặng nề, trách nhiệm to lớn của mình mà Lê Lợi luôn "trằn trọc trong cơn mộng mị/chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi", thật là muôn phần khó khăn.

Trong khuôn khổ khắc họa người anh hùng áo vải Lê Lợi, Nguyễn Trãi cũng thông qua đó mà bộc lộ những khó khăn ban đầu của nghĩa quân, cũng như thể hiện được thêm những khía cạnh tài năng khác của chủ soái Lê Lợi.

"Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.

Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông,
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.

Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan."

 

Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn dù có hậu phương vững mạnh, nhưng những buổi ban đầu vẫn gặp vô vàn khó khăn chồng chất. Một lực lượng mỏng như cánh ve gồm hơn ngàn người, lại phải đối chọi với một đạo quân thù lên tới hàng chục vạn quân, không khác nào trứng chọi với đá, châu chấu đá xe. Quan trọng hơn việc quân cơ thao lược không thể nào một mình Lê Lợi có thể kham hết, vậy là ngặt nỗi "nhân tài như lá mùa thu/tuấn kiệt như sao buổi sớm", người tài thạo việc quân sự, chính trị gọi mãi mà chẳng ai thấu, hoặc là không biết hoặc là vì muốn tránh sự đời mà tìm chốn ẩn dật nương náu, điều đó khiến Lê Lợi không khỏi băn khoăn, buồn bã. Tuy nhiên với phong thái của một chủ soái, ý chí cứu nước, dẹp giặc vẫn chưa khi nào nguôi ngoai mà trái lại càng thêm mạnh mẽ, ngọn lửa căm thù càng thêm rạo rực "Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông/Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả". Từ đó ta nhận thấy được một phẩm chất cao đẹp, thể hiện sự sáng suốt, tài năng của Lê Lợi ấy chính là tấm lòng yêu chuộng nhân tài, coi trọng sức mạnh đến từ nhân dân, sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, thấu hiểu rằng sức mạnh tổng hợp từ nhân dân mới là yếu tố tiên quyết quyết định thắng lợi của khởi nghĩa. Không chỉ dừng lại ở việc thiếu nhân tài mà cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi còn thiếu thốn cả quân đội, thiếu cả lương thực, quả thực tình thế không mấy khả quan. Thế nhưng trước tình hình khó khăn muôn bề như vậy, Lê Lợi vân không hề nao núng "Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối", tự thân vận động, làm vô số việc để khắc phục tình hình, cũng như có tấm lòng lạc quan, tự tin và bản thân và tính chất của cuộc khởi nghĩa "Trời thử lòng trao cho mệnh lớn/Ta gắng trí khắc phục gian nan", liên tục củng cố tinh thần của bản thân và các tướng sĩ. Cuối cùng không phụ lòng mong đợi, tấm lòng của Lê Lợi cũng được nhân dân thấu hiểu "Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới/Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào", bộc lộ khả năng hiệu triệu sức mạnh toàn dân của Lê Lợi, thu phục được nhân tâm, tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Đồng thời cũng bộc lộ vẻ đẹp của sự tài trí, thao lược trong lĩnh vực quân sự khi "Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh/Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều". Với khả năng quân sự thiên bẩm, Lê Lợi đã vận dụng rất tốt điểm mạnh của nghĩa quân vào chiến đấu, chúng ta có núi rừng Lam Sơn hiểm trở, lại thông thạo địa hình, thì còn gì hơn là việc "dùng quân mai phục", đánh úp quân thù, thực hiện chiến tranh du kích vừa hay hiệu quả lại khắc phục được nhược điểm quân lực mỏng manh của ta.

Như vậy chỉ thông qua một đoạn thơ ngắn, hình tượng người anh hùng áo vải Lê Lợi, vị lãnh tụ kiệt xuất trong lịch sử trung đại của dân tộc đã hiện lên một cách khá đầy đủ và sắc nét. Khắc họa được những vẻ đẹp hơn người từ đức độ, tài năng, tới tấm lòng yêu nước, căm thù giặc sâu sắc. Có thể nói rằng, Lê Lợi chính là nhân tố then chốt, đóng góp vai trò hạt nhân trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, đồng thời là người có vai trò quan trọng trong lịch sử dân tộc giai đoạn 1418-1433.

Phân tích hình tượng của chủ tướng Lê Lợi mẫu 2

Nguyễn Trãi là bậc đại anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới, đồng thời cũng là người phải chịu nỗi oan khiên thảm khốc nhất trong lịch sử Việt Nam. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Trãi khá đồ sộ với nhiều tác phẩm có giá trị ở nhiều thể loại. Ở lĩnh vực văn chính luận, Nguyễn Trãi được xem là nhà văn chính luận kiệt xuất, văn chính luận của ông đạt tới trình độ nghệ thuật mẫu mực. Một trong những tác phẩm đặc sắc nhất phải kể đến là “Bình Ngô đại cáo”. Tác phẩm có giá trị như Bản tuyên ngôn độc lập, là “áng thiên cổ hùng văn” của dân tộc. Trong tác phẩm này, tác giả đã xây dựng rất thành công hình tượng thủ lĩnh – người anh hùng áo vải Lê Lợi, tiêu biểu là đoạn thơ sau:

 

Ta đây:

……………………………

Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.”

Đầu năm 1428, sau khi đại thắng quân Minh, Lê Lợi lên ngôi vua, Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết “Đại cáo bình Ngô” để tuyên bố kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình cho dân tộc. Tác phẩm được viết bằng thể cáo, là thể văn nghị luận có nguồn gốc từ Trung Quốc cổ xưa, dùng để công bố việc lớn với muôn dân. “Bình Ngô đại cáo” là bản anh hùng ca tổng kết cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược, gian khổ mà hào hùng của quân dân Đại Việt; là bản tuyên ngôn độc lập sáng chói tư tưởng nhân nghĩa yêu nước và khát vọng hoà bình.

Bài cáo có bố cục gồm bốn phần, phần một: nêu lên luận đề chính nghĩa; phần hai: tố cáo tội ác của kẻ thù xâm lược; phần ba: hồi tưởng về cuộc kháng chiến; phần bốn: lời tuyên ngôn độc lập. Đoạn trích trên nằm ở đầu phần ba của bài ” Bình Ngô đại cáo”, thể hiện hình tượng chủ tướng Lê Lợi và những năm tháng gian nan buổi đầu cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

Mở đầu đoạn cáo, tác giả đứng trên cương vị Lê Lợi – người thủ lĩnh hồi tưởng lại cuộc khởi nghĩa với những khó khăn buổi đầu:

Ta đây:

Núi Lam Sơn dấy nghĩa,

Chốn hoang dã nương mình.

Ngẫm thù lớn há đội trời chung,

Căm giặc nước thề không cùng sống.”

Ở giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa, Nguyễn Trãi đã khắc hoạ thành công hình tượng chủ tướng Lê Lợi có sự kết hợp và thống nhất giữa con người bình thường và lãnh tụ nghĩa quân: bình thường từ nguồn gốc xuất thân “Chốn hoang dã nương mình” đến cách xưng hô khiêm nhường, gần gũi “ta”, chưa phải là “trẫm” như sau này. Đồng thời Lê Lợi còn là người có lòng căm thù giặc sâu sắc, có lý tưởng hoài bão lớn, có quyết tâm cao thực hiện lí tưởng. Chính vì vậy, Lê Lợi là người anh hùng áo vải xuất thân từ nhân dân.

Lê Lợi dấy nghiệp từ chốn núi rừng Lam Sơn hoang dã, giữa lúc kẻ thù đang ở thế mạnh. Đó là sự thực, buổi đầu khởi nghiệp gặp khó khăn về mọi mặt. Bởi thế những trăn trở, băn khoăn, day dứt của ông trước vận mệnh đất nước là chân thành, dễ chia sẻ:

Đau lòng nhức óc, chốc đã mười mấy năm trời,

Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.

Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh;

Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kĩ.

Những trằn trọc trong cơn mộng mị,

Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi.”

Người anh hùng áo vải Lê Lợi hiện lên với những tâm trạng: đau lòng, nhức óc, nếm mật nằm gai, quên ăn vì giận, những trằn trọc trong cơn mộng mị…đó là những phẩm chất cao đẹp, lớn lao và sâu sắc của người anh hùng, xứng đáng là lãnh tụ của nghĩa quân. Tâm trạng của Lê Lợi được Nguyễn Trãi thể hiện có những điểm chung với tâm trạng của Trần Quốc Tuấn trong “Hịch Tướng Sĩ”: “…Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa xẻ thịt, lột da, nuốt gan, uống máu quân thù…Dù cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng…”. Cùng có lòng căm thù giặc sục sôi, cùng nuôi chí lớn, cùng một quyết tâm sắt đá. Chính cảm hứng về truyền thống dân tộc đã giúp Nguyễn Trãi khắc hoạ thành công hình tượng người anh hùng Lê Lợi.

Qua hình tượng Lê Lợi, tác giả nêu lên tính chất nhân nghĩa của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, vượt qua gian khổ, khó khăn và sức mạnh chiến thắng:

Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,

Chính lúc quân thù đang mạnh.

………………………………………….

Trời thử lòng trao cho mệnh lớn,

Ta gắng chí khắc phục gian nan.”

Buổi đầu Lê Lợi cùng nghĩa quân phải vượt qua muôn vàn gian khổ: thế giặc mạnh, tàn bạo, ta lại thiếu nhân tài, thiếu quân, thiếu lương thực… nhưng nhờ có lòng căm thù giặc, ý chí quyết tâm, lí tưởng cao cả và tinh thần đoàn kết nghĩa quân đã nhanh chóng có được những thắng lợi.

Trên cương vị là người thủ lĩnh, với tài năng và phẩm chất cao đẹp, Lê Lợi đã kịp thời đưa ra những phương cách, đường lối kháng chiến phù hợp cho toàn nghĩa quân: dựa vào tinh thần tự lực cánh sinh, cầu hiền kết hợp đường lối kháng chiến “dùng quân mai phục”, “thế trận xuất kì” và sức mạnh đoàn kết toàn dân:

 

Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới,

…………………………………………………….

Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều”

Như vậy, ngay từ rất sớm, Nguyễn Trãi đã đề cao tính chất nhân dân, tính chất toàn dân, đặc biệt đề cao vai trò của người dân nghèo trong cuộc khởi nghĩa. Tư tưởng lớn này chưa từng thấy ở “Nam quốc sơn hà” hay ở “Hịch tướng sĩ”, lần đầu tiên xuất hiện ở “Bình Ngô đại cáo” – hình ảnh “nhân dân bốn cõi một nhà”, “tướng sĩ một lòng phụ tử” rất cảm động, mới mẻ và hào hùng. Đây là nét độc đáo, lời tuyên ngôn về vai trò và sức mạnh của nhân dân, của sự nghiệp chính nghĩa.

Để xây dựng thành công hình tượng người anh hùng áo vải Lê Lợi, làm nổi bật linh hồn nghĩa quân, Nguyễn Trãi đã sử dụng những biện pháp nghệ thuật rất đặc sắc, đặc biệt là cách xây dựng hình tượng tâm lí nhân vật và việc sử dụng kết hợp bút pháp tự sự – trữ tình, qua đó phản ánh những khó khăn gian khổ của buổi đầu và ý chí đấu tranh giải phóng đất nước của quân dân Đại Việt. Lời văn biền ngẫu với những vế đối cân xứng, nhịp nhàng góp phần làm nên thành công của đoạn cáo.

Tóm lại, với nghệ thuật đặc sắc, đoạn cáo đã xây dựng thành công hình ảnh lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn với những đặc điểm của người anh hùng mang đầy đủ phẩm chất và sức mạnh của cộng đồng trong cuộc chiến tranh nhân dân thần thánh. Đoạn cáo góp phần quan trọng làm nên giá trị lời tuyên ngôn độc lập. Với tài năng của mình, Nguyễn Trãi xứng đáng là nhà văn chính luận kiệt xuất, sống mãi trong lòng người đọc.

Bình luận (1)
KO BIET YEW ACC 2
Xem chi tiết
BÍCH THẢO
21 tháng 9 2023 lúc 20:06

hmm me ko chc ( seo khó v ta 🥲)

=> AB là : 7.2 = 14

=> CD là: 14.2 = 28

->Năm ABCD là : 1428 .

Bình luận (2)
Tri Dung Pham
Xem chi tiết
Phuong Phuonq
6 tháng 2 2022 lúc 9:50

Mở bài

      Giới thiệu tác giả, tác phẩm

“Bình Ngô đại cáo” ra đời như, một bản tuyên ngôn về chủ quyền, chính nghĩa là một “ang thiên cổ hung văn” của dân tộc ta.

 Nguyễn Trãi viết sau hơn mười năm cuộc khởi nghĩa Lam Sơn dành thắng lợi. Tác phẩm là một văn kiện lịch sử, tuyên cáo về nền độc lập dân tộc, mang tư tưởng nhân đạo, chính nghĩa và yêu chuộng hòa bình của tác giả.

 Phân tích luận đề chính nghĩa bình ngô đại cáo ta sẽ thấy rõ, tác phẩm hùng tráng, oai hùng hay sự tha thiết, tính nhân đạo, lòng thương dân yêu nước đều có trong tác phẩm. Vì vậy, đây là tác phẩm được ghi nhận là áng văn chính luận đỉnh cao và mẫu mực của văn chính luận Việt Nam giai đoạn trung đại.

Thân bài

Luận điểm 1: Phân tích luận đề chính nghĩa bình ngô đại cáo ở tư tưởng yên dân và khẳng định chủ quyền.

Nguyễn Trãi viết mở đầu bài cáo:

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”

Trong quan niệm đạo đức Nho gia, nhân nghĩa là tư tưởng được đề cao, theo đó con người coi trọng những cách hành xử tốt đẹp, “nhân nghĩa” được đề cập ngay ở đầu bài cáo cho thấy, đây là tư tưởng đạo đức mà Nguyễn Trãi luôn gìn giữ trong suốt cuộc đời cống hiến cho đất nước cũng như trở thành tư tưởng sáng tác văn trương của ông.

-Nguyễn Trãi nhìn nhận, cốt lõi của việc nhân nghĩa là ở yên dân, nghĩa là mang đến cho dân cuộc sống yên bình, ấm no, hạnh phúc.=> Vì vậy, vào lúc hoàn cảnh đất nước phải chịu sự xâm lược của ngoại bang – quân Minh, thì nhiệm vụ trước tiên ta cần phải làm là “trừ bạo”, đánh đuổi lũ giặc ngoại xâm.

=>Như vậy, tư tưởng nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi nói đến là “lấy dân gốc”, lấy yên dân là kim chỉ nam cho mọi đối sách, hành động.

-Từ lập trường nhân nghĩa lấy dân làm trung tâm, Nguyễn Trãi tiến thêm một bước, xây dựng cơ sở lý luận cho luận đề chính nghĩa.

“Như nước Đại Việt ta từ trước

………….

Việc xưa xem xét,

Chứng cớ còn ghi.

Như nước Đại Việt ta từ trước

Lời tuyên bố đanh thép, khắc sâu vào lịch sử dân tộc về nền độc lập, chủ quyền lãnh thổ bất khả xâm phạm của nước Đại Việt. Nguyễn Trãi khẳng định chủ quyền của mỗi quốc gia, dù đó là đất nước lớn hay bé.

Phân tích luận đề chính nghĩa bình ngô đại cáo ta thấy rõ quan niệm chính nghĩa của Nguyễn Trãi, nền văn hiến, phong tục, lịch sử, núi sông bờ cõi hay những bậc hào kiệt, nước Đại Việt cũng đều có và riêng biệt; chứ không riêng gì Đại Hán. Bằng niềm tự hào về dân tộc, Nguyễn Trãi không chri khẳng định về nền độc lập dân tộc mà còn chỉ rõ nền độc lập ấy đã có từ lâu đời, trải qua nhiều triều đại. Cái sắc bén trong cơ sở lý luận khẳng định nền độc lập của nước Đại Việt cũng như chính nghĩa trên đời là đưa ra các chứng cứ lịch sử về cuộc trường trinh oai hùng của triều đại hậu Lê.

Luận điểm 2: Phân tích luận đề chính nghĩa bình ngô đại cáo qua cuộc khởi nghĩa Lam Sơn

Vì chủ quyền dân tộc là bất khả xâm phạm, nên kẻ nào xâm phạm là làm trái đạo trời. Nhưng bè lũ giả dối, từ giặc Minh đến bọn bán nước cầu vinh đều hành động tàn bạo, giẫm đạp lên chính nghĩa ở đời:

Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội

Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa sạch mùi

Để chứng minh tội ác tận cùng của lũ giặc bạo tàn, Nguyễn Trãi viết một đoạn văn mang theo nỗi căm hồn sục sôi và cũng chứa đựng bao đau đớn:

Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,

Để trong nước lòng dân oán hận.

……...

Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,

Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng…

Phân tích luận đề chính nghĩa bình ngô đại cáo ta thấy, bởi tư tưởng nhân nghĩa là lấy dân làm gốc, nên những hành vi bóc lột tàn bạo nhân là trái đạo trời, lựa bịp dân. Vì vậy, bằng những lời lẽ đanh thép nhất, bằng bút pháp phóng đại và ngôn ngữ giàu tính hình tượng, Nguyễn Trãi đã thẳng tay vạch trần bộ mặt tàn ác, giả dối của bè lũ cướp nước.

Không chỉ trực tiếp thảm hại dân lành, chúng còn đặt ra thuế khóa đẩy đất nước ta vào cảnh kiệt quệ Bài cáo như thốt lên nỗi đau đẫm máu và nước mắt của nhân dân, là tiếng lòng căm phẫn của nhân dân.

Nhưng trước kẻ thù hiểm ác rung đất trời, việc trừ bạo không phải ngày một ngày hai. Nhưng khí thế của nghĩa quân Lam Sơn, hình ảnh của anh hùng hào kiệt Lê Lợi là niềm tin, là ý chí thắng lợi:

Ta đây:

Núi Lam Sơn dấy nghĩa,

Chốn hoang dã nương mình.

Danh xưng “ta” cho thấy tinh thần anh hùng, trượng nghĩa cùng lòng căm thù giặc sâu sắc và há đội trời chung với giặc. Trải qua bao ngày tháng khó khăn, nếm mật nằm gai, Lê Lợi đã trở thành linh hồn của cuộc khởi nghĩa. Mặc dù lúc bắt đầu bị yếu thế so với địch, nhưng với “Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông/ Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chăm còn dành về phía tả.”, Lê Lợi và nghĩa quân của mình đã giành thắng lợi.

 

Qua một đoạn văn ngắn, Nguyễn Trãi đã tái hiện cuộc chiến đấu chống giặc minh chân thực và dưới nhiều góc độ. Đó là những trận đánh liên tiếp, dường như diễn ra khắp mọi nơi:

Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,

Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu,

Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong,

Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.

Nào là trận Chi Lăng, Mã Yên, rồi liên tiếp hai năm rồi hai tám, những tên cầm đầu của quân giặc không tử vong thì tự vẫn, nghĩa quân Lam Sơn thực hiện liên tiếp các trận đánh để áp chế và đẩy lùi quân giặc:

Đánh một trận sạch không kình ngạc

Đánh hai trận tan tác chim muông

Rồi quân ta thừa thắng xông lên, khi quân tướng hừng hực khí thế thì ta luôn ở thế chủ động tiến công, thắng không ngừng thắng:

Sĩ khí đã hăng

Quân thanh càng mạnh

Sĩ tốt kén người hùng hổ

Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh

Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,

Voi uống nước, nước sông phải cạn

Và lòng yêu nước, tinh thần chính nghĩa, hào khí Đại Việt đã tạo nên một sức mạnh phi thường, đã tạo nên kỳ tích, dù yếu mà thắng mạnh, nhỏ mà thắng lớn.

Ghê gớm thay sắc phong vân phải đổi,

Thảm đạm thay ánh nhật nguyệt phải mờ.

 Đó không chỉ là ngợi cả thắng lợi của quân ta mà còn nhấn mạnh sự thất bại thảm hại của kẻ thù, kẻ bạo ngược, thâm độc.

Có điều, Nguyễn Trãi cũng như Lên Lợi đều luôn hiểu rõ con đường nhân nghĩa mà mình theo đuổi. Vì vậy khi giặc thất thế, ta biết điểm dừng, khi giặc đến đường cùng ta đã mở cho chúng một con đường sống, ta thấy rõ tinh thần nhân đạo, thường võ của Nguyễn Trãi cũng như Lê Lợi và đội quân Lam Sơn.

Sau bao nhiêu gian lao, đau đớn, cuối cùng chúng ta cũng chiến thắng giặc thù, cũng giành lại được nền độc lập, dân được hưởng thái bình, được sống ấm no:

Xã tắc từ đây vững bền

Giang sơn từ đây đổi mới

Càn khôn bĩ rồi lại thái

Nhật nguyệt hối rồi lại minh

Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu

Muôn thuở nền thái bình vững chắc

Kết luận

Cho đến nay, “Bình Ngô đại cáo” vẫn vẹn nguyên giá trị, sức sống như lần đầu tiên được tuyên cáo trước thiên hạ. Nó có sức sống lâu bền bởi nó là một văn kiện lịch sử khẳng định nền độc lập dân tộc và mang tư tưởng nhân đạo, chính nghĩa vĩ đại.

Trên phương diện văn chương, Nguyễn Trãi đã để lại một áng văn mẫu mực về lòng yêu nước và tinh thần chiến đấu của quân và dân ta tước giặc thù hung bạo. Mỗi một thế hệ khi đọc bình ngô đại cáo đều tự hào khi được lật lại và cảm nhận khí thế hào hùng của một thời đại lịch sử oanh liệt của dân tộc. Ẩn bên trong áng văn của Nguyễn Trãi, không chỉ là niềm tự hào, lòng kiêu hãnh của riêng tác giả mà còn của toàn dân về ý chí người Việt, về đạo nhân nghĩa vì nước, vì chính nghĩa mà trừ bạo tàn.

Bình luận (0)
Pham Trong Bach
Xem chi tiết
Cao Minh Tâm
6 tháng 8 2018 lúc 7:59

- Ta biết rằng mỗi tuần có bảy ngày nên số ngày trong hai tuần là 7.2 = 14 (ngày). Do đó:

Giải bài 40 trang 20 SGK Toán 6 Tập 1 | Giải toán lớp 6

Vậy Nguyễn trãi viết Bình Ngô đại cáo vào năm 1428.

Bình luận (0)
Thoa nguyen thi
Xem chi tiết
Kim Taeyeon
13 tháng 9 2015 lúc 18:34

ab hay tổng số ngày trong hai tuần lễ là: 7 + 7 = 14

vậy ab = 14

vì cd gấp đôi ab nên: 14 . 2 = 28

vậy Bình ngô đại cáo ra đời vào năm 1428.

Nhớ tick đứng cho mk đấy nhé!!! ^-^

Bình luận (0)
Duong Thi Hoai My
Xem chi tiết
Sky Sơn Tùng
3 tháng 9 2015 lúc 19:49

Bình Ngô Đại Cáo được ra đời vào năm 1428 

ab bằng : 

 7 + 7 = 14 

cd bằng :

 14 x 2 = 28 

---> abcd = 1428 

Bình luận (0)
Phạm Ngọc Vy
Xem chi tiết
Nguyễn Ngọc Quý
8 tháng 12 2014 lúc 18:59

ab là tổng số ngày trong 2 tuần lễ => ab=14 , cd gấp 2 lần ab => cd=ab.2=14.2=28 => Năm đó là năm 1428

Bình luận (0)
Phạm Quang Đức
2 tháng 9 2016 lúc 8:29

nam 1428

Bình luận (0)
Hùng Kute
2 tháng 9 2016 lúc 8:30

2 tuần lễ = 14 ngày 

ab= 14

cd = 14 x 2 = 28

Năm đó là :

 abcd = 1428

Bình luận (0)
Bùi Diệu Linh
Xem chi tiết
Angel Vũ
4 tháng 9 2015 lúc 21:08

 1 tuần lễ có 7 ngày

=> 2 tuần có là: 7.2=14 (ngày)

ta tìm dc ab = 14.

=>cd là: 14.2=28 =>abcd=1428

:v kobilk bn có thể mở lịch sử lớp 5 ra mak xem (đùa thui)

Bình luận (0)
Xử nữ đáng yêu
5 tháng 8 2018 lúc 15:19

Năm 1428

Chẳng càn tính , xem sách lịch sử là được 

Bình luận (0)
Lê Triệu Vy
Xem chi tiết
Hồ Thu Giang
25 tháng 6 2015 lúc 21:29

Trong SGK 6. Mở ra mà tìm.

Bình luận (0)
✓ ℍɠŞ_ŦƦùM $₦G ✓
25 tháng 6 2015 lúc 21:31

số ngày trong 2 tuần là:

7.2=14(ngày)

=>ab=14

=>cd=14.2=28

=>abcd=1428

vậy Bình Ngô Đại Cáo ra đời vào năm 1428

Bình luận (0)