Những câu hỏi liên quan
TN PT
Xem chi tiết
Y Nhi
Xem chi tiết
minh nguyet
19 tháng 12 2020 lúc 20:28

Tham khảo:

Bàn luận về chữ “Nhàn” trong hai bài thơ:

 - Cả hai bài thơ đều thể hiện chữ “Nhàn”; thực chất đây là lối sống nhàn tản, xuất thế, cách ứng xử tiêu cực của những nhà nho không gặp thời. Đối chiếu với hoàn cảnh cụ thể của hai bài thơ, ta thấy việc về nhàn là cách duy nhất để giữ gìn khí tiết. Nhưng một khi đã về “nhàn”, các nhà thơ lại rộng mở tấm lòng, hòa mình với cuộc sống nơi thôn dã. - Mức độ thể hiện của chữ “Nhàn” ở hai bài thơ có sự khác nhau:

+ Nguyễn Trãi tuy về nhàn nhưng vẫn đau đáu trong nỗi niềm ái quốc ưu dân. Ông nhàn cư chứ không nhàn tâm. Đây chính là tinh thần nhập thế tích cực ngay cả khi đã về nhàn.

+ Ở Nguyễn Bỉnh Khiêm, “Nhàn” được nâng lên thành triết lí sống, thành một lựa chọn. Về nhàn ông đã thật sự tìm được sự thoải mái về tinh thần cũng như về thể xác (“nội đắc tâm thân lạc”. - Tuy có những biểu hiện khác nhau nhưng cả hai bài thơ đều cho thấy cách sống lạc quan và đặc biệt là tâm hồn thanh cao của các vị danh nho

Bình luận (0)
Nguyen Thao
Xem chi tiết
Tùng
6 tháng 3 2017 lúc 20:45

Bàn luận về chữ “Nhàn” trong hai bài thơ:
- Cả hai bài thơ đều thể hiện chữ “Nhàn”; thực chất đây là lối sống nhàn tản, xuất thế, cách ứng xử tiêu cực của những nhà nho không gặp thời. Đối chiếu với hoàn cảnh cụ thể của hai bài thơ, ta thấy việc về nhàn là cách duy nhất để giữ gìn khí tiết. Nhưng một khi đã về “nhàn”, các nhà thơ lại rộng mở tấm lòng, hòa mình với cuộc sống nơi thôn dã.
- Mức độ thể hiện của chữ “Nhàn” ở hai bài thơ có sự khác nhau:
+ Nguyễn Trãi tuy về nhàn nhưng vẫn đau đáu trong nỗi niềm ái quốc ưu dân. Ông nhàn cư chứ không nhàn tâm. Đây chính là tinh thần nhập thế tích cực ngay cả khi đã về nhàn.
+ Ở Nguyễn Bỉnh Khiêm, “Nhàn” được nâng lên thành triết lí sống, thành một lựa chọn. Về nhàn ông đã thật sự tìm được sự thoải mái về tinh thần cũng như về thể xác (“nội đắc tâm thân lạc”.
- Tuy có những biểu hiện khác nhau nhưng cả hai bài thơ đều cho thấy cách sống lạc quan và đặc biệt là tâm hồn thanh cao của các vị danh nho

Bình luận (0)
Đức Hiếu Nguyễn
Xem chi tiết
Whyte Hole
Xem chi tiết
minh nguyet
30 tháng 12 2020 lúc 15:50

Tham khảo:

Bài 1:

Phạm Ngũ Lão (1255 - 1320) là một danh tướng đời Trần, trăm trận trăm thắng, văn võ toàn tài. Ông đã có công giúp cho Hưng Đạo Đại vương biết bao nhiêu trận thắng cùng những chiến công lẫy lừng bảo vệ tổ quốc bình yên độc lập, dẹp yên lũ cướp nước. Có thể nói ông giống như một cánh tay đắc lực cho Hưng Đạo Đại vương vậy. Tuy nhiên chúng ta không chỉ biết đến ông với tư cách là một vị danh tướng mà còn biết đến ông với tư cách là một nhà thơ. Nhắc đến ông là ta nhớ ngay đến bài thơ Thuật hoài – một bài thơ thể hiện rõ nỗi lòng của ông cũng như chủ nghĩa anh hùng yêu nước, khí thế của quân dân nhà Trần.

Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, một bài thơ chỉ có bốn câu thơ thì tác giả đã làm thế nào để thể hiện hết quan điểm, tình yêu đất nước, trung quân được. Thế nhưng Phạm Ngũ Lão đã rất tài năng khi chỉ qua bốn câu thơ ấy mà truyền đạt tới mọi người những quan điểm tư tưởng của một con người của trời đất của vũ trụ, của một đấng nam nhi đầu đội trời chân đạp đất. Đồng thời tác giả còn thể hiện chủ nghĩa anh hùng yêu nước của bản thân qua những quan niệm của đại đa số những danh tướng yêu nước trung thành hồi bấy giờ.

Hai câu thơ đầu tác giả tập trung thể hiện vẻ đẹp hiên ngang trong tranh đấu cũng như vẻ đẹp đoàn kết tinh thần vượt mọi khó khăn gian khổ của những binh lính nhà Trần:

“Hoành sóc giang san kháp kỉ thu

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”

(Múa giáo non sông trải mấy thu

Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)

Hình ảnh con người nhà Trần hiện lên hiên ngang với ngọn giáo trong tay họ có thể đi bất cứ nơi nào có giặc, hành hiệp trượng nghĩa cứu giúp người nghèo kẻ yếu cũng như đánh đuổi quân xâm lược Mông Nguyên. Xét về vẻ đẹp hiên ngang ấy trong bản dịch chữ “hoành sóc” thành “múa giáo” không lột tả hết được sự hiên ngang ấy. Múa giáo thể hiện sự yếu ớt đồng nghĩa với việc không lột tả được sự hùng mạnh anh dũng của quân đội, con người nhà Trần. Hai chữ “hoành sóc” như khắc tạc lên những con người anh dũng lẫm liệt với ngọn giáo ngang trong tay đi khắp giang sơn để bảo vệ đất nước. Tưởng chừng quân giặc cả thế giới phải công nhận là sức mạnh kia chỉ là một ngọn gió nhẹ trước khí thế ngút ngàn của họ. Chúng mạnh về số lượng cũng như chất lượng, đầy đủ về vật chất nhưng chúng lại thiếu đi sự đánh giá và ý chí vượt qua gian khổ nên chúng phải chuốc lấy thất bại vì đã đánh giá thấp con người nhà Trần. Những con người ấy tuy có nhỏ bé về mặt thể chất hay không đông đảo như số lượng quân của nhà Mông nhưng ý chí của họ thì vượt qua hữu hạn về mặt thế chất và số lượng ấy. Và cứ thế với ngọn giáo ngang trong tay họ đã trải qua biết bao nhiêu mùa thu như thế để bảo vệ đất nước tổ quốc này. Họ góp phần tạo nên một đất nước tươi đẹp như xã hội ngày nay. Hình ảnh ngọn giáo trở nên thật đẹp khi được hiện lên trong cái rộng lớn của không gian và chiều dài của thời gian lịch sử. Hình ảnh ấy cũng như thể hiện được vẻ đẹp của chính tác giả trong những trận chiến nảy lửa, cam go vẫn ngang ngọn giáo để bảo vệ đất nước. Không chỉ đẹp về mặt ngoại hình con người nhà Trần còn hiện lên với vẻ đẹp của khí chất cao ngất, mạnh mẽ lấn át hết cả sao Ngưu trên trời. Sức mạnh của quân đội Sát Thát giống như hổ như báo có thể nuốt trôi cả một con trâu mộng. Hay cũng chính là vẻ đẹp đoàn kết ba quân một lòng khơi dậy trong nhau một tinh thần thép để có thể vượt qua những khó khăn chông gai của cuộc chiến và đi đến một cái kết đẹp và có hậu cho cuộc chiến tranh chính nghĩa bảo vệ tổ quốc.

Tiếp đến hai câu thơ cuối tác giả thể hiện quan niệm về chí làm trai của mình trong thời buổi ấy:

“Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”

(Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe thuyết Vũ Hầu)

Đã sống ở trên trời đất thì phải có công danh với núi sông, đó cũng là một tuyên ngôn khẳng định chí làm trai của Nguyễn Công Trứ, theo đó ta thấy quan niệm này không chỉ của riêng Phạm Ngũ Lão mà còn có cả tất cả những bậc nam nhi có chí thời bấy giờ. Đó là xu hướng chung, quan niệm chung của họ và cũng chính vì thế mà Phạm Ngũ Lão cũng không nằm ngoài quan niệm đó. Tuy nhiên ở đây tác giả nhấn mạnh thêm quan niệm ấy và mở nó ra với ý nghĩa của cá nhân tác giả mà thôi. Dù là một vị tướng trung thành giống như cánh tay phải của Trần Hưng Đạo, trải qua biết bao nhiêu trận đánh vào sinh ra tử nhưng đối với ông đó vẫn chưa được liệt kê vào những công danh của đất nước. Đối với Phạm Ngũ Lão thì công danh vẫn là một thứ mà còn vương nợ với ông. Và chính vì vương nợ nên ông thấy hổ thẹn khi nghe chuyện về Vũ Hầu. So sánh mình với Vũ Hầu để thấy những cái chưa được của mình, đây không phải là sự ngộ nhận thân phận của mình giống như Vũ Hầu mà đó là cả một tinh thần học hỏi của nhà thơ đối với người tài giỏi. Có một điểm chung là cả ông và Vũ Hầu đều giúp sức cho một người lớn hơn nhưng tác giả muốn nói ở đây là khi Vũ Hầu giúp được cho vị tướng của mình thì Phạm Ngũ Lão lại khiêm tốn nhận mình chưa giúp được gì cho Hưng đạo đại vương nên thấy hổ thẹn khi nghe chuyện Vũ Hầu. Đồng thời qua đó ta thấy được sự trung thành và cống hiến hết sức mình của tác giả với Hưng Đạo đại vương. Tuy xuất thân từ một người nông dân nhưng Phạm Ngũ Lão đã thể hiện được sức mạnh ý chí và trí tuệ của mình khiến cho người ta không thể vịn vào hoàn cảnh xuất thân ấy để mà chê trách được ông.

Qua đây ta thêm yêu hơn những con người nhà Trần nói chung và Phạm Ngũ Lão nói riêng. Ông không những là một vị danh tướng với vẻ đẹp hiên ngang trừ gian diệt bạo, bảo vệ đất nước hòa bình yên ổn mà còn là một nhà thơ giỏi nữa. Đối với ông mà nói những gì ông làm được vẫn chưa thỏa cái công danh đối với đất nước. Những chiến công mà ông đạt được vẫn chưa thấm vào đâu so với Vũ Hầu, nên khi nghe chuyện ông không khỏi thẹn thùng. Như vậy ta thấy được vẻ đẹp của một vị danh tướng không kể công những gì mình làm được mà còn khiêm tốn nhận còn “vương nợ”. Và ở đâu đó trong những câu thơ của bài ta thấy rõ một tinh thần yêu nước anh hùng của Phạm Ngũ Lão.

Bài 2:

Nguyễn Trãi - một nhà thơ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam. Ông luôn sống giao cảm với thơ với cuộc sống thiên nhiên và con người. Chốn quan trường với những toan tính chèn ép đã khiến ông đã quyết định tìm về với thiên nhiên để cho tâm hồn mình thanh tịnh. Trong thời gian ấy ông làm thơ về thiên nhiên nhưng trong những vần thơ thiên nhiên ấy lại có những tâm sự về sự lo lắng cho nhân dân đất nước. Bài thơ “Cảnh ngày hè” là một bài thơ như thế. Trong thiên nhiên mùa hè và cảnh sống sinh hoạt của nhân dân Nguyễn Trãi vẫn thể hiện tình yêu nhân dân đất nước của mình.

Trước hết là câu thơ đầu thể hiện tâm trạng của nhà thơ trong những ngày hè, nhưng ngày về cáo quan ở ẩn:

“Rồi hóng mát thuở ngày trường”

Chúng ta thấy rõ được chữ “rồi” ở đầu câu thể hiện một tâm trạng rảnh rỗi của nhà thơ ở quê. Nó không có sự bon chen đố kỵ, chèn ép của những tinh thần. Tại sao nhà thơ không nói là rỗi mà lại là “rồi”? Có thể nói chữ “rỗi” và chữ “rồi” đều nói lên cùng một tâm trạng nhưng nhà thơ sử dụng từ “rồi” gợi cảm giác xưa cũ hơn. Bởi vì từ “rỗi” là sau này mới có, nó mang tính chất hiện đại. Nhà thơ cáo quan về với thiên nhiên làng cảnh Việt Nam.

Những câu thơ tiếp theo nhà thơ vẽ lên một bức tranh cảnh ngày hè vô cùng rực rỡ. Bức tranh ấy không chỉ có thiên nhiên mà còn có cả con người.

Trước tiên là bức tranh thiên cảnh ngày hè nơi thôn quê. Có thể nói Nguyễn Trãi giống như một nhà họa sĩ dùng ngôn từ để vẽ lên bức tranh tuyệt đẹp ấy:

“Hòe lục đùn đùn tán rợp giươngThạch lựu hiên còn phun thức đỏ,Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

Cây hoa hòe tán rộng tỏa bóng mát khắp đầu tường. Tiếp đó nhà thơ vẽ thêm những bông hoa thạch lựu trước hiên nhà có màu đỏ rực rỡ như ánh nắng chói chang của mùa hạ kia vậy. Nhắc đến quê hương người ta không thể nào quên được hình ảnh những bông hoa sen hồng với hương sắc tuyệt vời. Nhà thơ không nói hẳn là hoa sen mà dùng hai chữ “hồng liên” gợi sự trang trọng cổ kính. Trong bức tranh ấy ta không chỉ thấy màu sắc mùi hương mà ta còn thấy được cả sự sinh trưởng của chúng. Cây hoa hòe “đùn đùn”, cây thạch lựu “phun”, hoa sen “tiễn” mùi hương. Mùa hạ quả đúng là mùa của sinh trưởng cho những loại cây cối. Sức sống ấy mạnh mẽ như các động từ mạnh kia vậy. Hương thơm của hoa sen cũng như bay xa hơn thoảng vào không gian nhiều hơn qua từ “tiễn” ấy. Chữ tiễn ấy không phải là tiễn biệt chia ly mà chứ tiễn như thể hiện cái sự bay xa của hương sen trong cơn gió kia làm cho không gian làng quê ngát hương.

Bức tranh ấy còn có cả những cuộc sống sinh hoạt của con người làng quê. Thật vậy tranh thiên nhiên đã đẹp nhưng nó còn đẹp hơn khi xuất hiện hoạt động sự sống của con người:

“Lao xao chợ cá làng ngư phủ,Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

Từ láy “lao xao” như thể hiện được hết cái vui tươi của con người lao động trong những buổi chợ. Chợ có đông thì mới có niềm vui như thế, có tiếng động như thế. Cái âm thanh ấy như tác động đến tâm hồn người nghệ sĩ. Chợ cá kia dường như có rất nhiều đồ khiến cho người dân nơi đây náo nức, mua bán. Có thể nói rằng đó chỉ là cuộc sống đời thường thôi nhưng tại sao khi cảm nhận ở đây ta lại thấy nó đẹp đến thế. Có khi nào cái đẹp xuất phát từ những cái quá đỗi bình thường không? Thế rồi âm thanh của những con ve gọi hè. Tiếng ve như dắng dỏi tạo nên thành một dàn đồng ca mùa hạ ngân nga ngày đêm không biết mệt.

Trước những thiên nhiên và con người nhà thơ như thể hiện những ước nguyện của mình. Nhà thơ thật thà thể hiện tấm lòng của mình:

“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếngDân giàu đủ khắp đòi phương”

Câu thơ thể hiện ước nguyện của nhà thơ mong muốn mượn được chiếc đàn của vua Ngu Thuấn đàn một tiếng cho nhân dân giàu khắp bốn phương. Từ truyền thuyết tiếng đàn của vua Ngu Thuấn nhà thơ thể hiện ước nguyện sự lo lắng cho nhân dân. Mong có thể giúp đỡ cho nhân dân có một cuộc sống đầy đủ yên ổn thái bình.

Như vậy qua đây ta thấy được một bức tranh thiên nhiên vô cùng đẹp, tất cả nhưng màu sắc đều thể hiện đặc trưng của mùa hè. Có thể nói chắc hẳn nhà thơ phải là một người yêu thiên nhiên nhiều lắm thì mới có thể cảm nhận được cả những bước sinh trưởng của cây cối mùa hè như thế. Đồng thời ta cũng thấy được một tâm hồn trung nghĩa với nhân dân. Mặc dù xa rời quan trường nhưng ông không lúc nào không lo cho nhân dân, mong muốn nhân dân có một cuộc sống an lành bình yên.

Bài 3:

Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc là danh nhân văn hóa thế giới, là nhà thơ tiêu biểu trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Ông để lại cho đời số lượng lớn bài thơ trong đó có những sáng tác đạt đến trình độ cổ điển và mẫu mực, Trong đó phải kể đến bài thơ " Độc tiểu thanh kí", bài thơ được khơi nguồn từ hình ảnh người con gái tài hoa bạc mệnh.

Tương truyền Tiểu Thanh là một cô gái Trung Quốc có tài và có sắc, sống khoảng đầu thời Minh. Cô được biết đến là người con gái thông mình, nhiều tài nghệ thuật như thi ca, âm nhạc. 16 tuổi cô về làm vợ lẽ cho một nhà quyền quý. Vì vợ cả hay ghen bắt cô phải sống một mình trên Cô Sơn, cạnh Tây Hồ. Sống trong sự cô đơn, buồn tủi, Tiêu Thanh sinh bệnh và từ giã cuộc đời ở năm 18 tuổi. Vì quá thương thay cho thân phận người con gái tài hoa bạc mệnh nên Nguyễn Du đã viết nên bài thơ này. Mở đầu bài thơ với hai câu đề đã như tiếng trút lòng của Tiểu Thanh

Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khưĐộc điếu song tiền nhất chỉ thư

(Tây hồ cảnh đẹp hóa gò hoangThổn thức bên song mảnh giấy tàn)

Câu thơ không nhằm mục đích miêu tả cảnh đẹp Tây Hồ mà ngụ ý tác giả chỉ là mượn không gian để nói lên suy nghĩ, cảm nhận về sự biến đổi trong cuộc sống. Tây Hồ vốn được biết đến là cảnh đẹp có tiếng nhưng với cuộc đời của nàng Tiểu Thanh thì cảnh đẹp nơi ấy "hóa gò hoang". Người nằm dưới lòng "gò hoang" kia là nàng Tiểu Thanh bạc mệnh chỉ để lại trên trần thế "mảnh giấy tàn" là phần di sản của Tiểu Thanh.

Trong không gian điêu tàn ấy, con người xuất hiện với dáng vẻ cô đơn qua từ ngữ "độc điếu". Hai hình ảnh "gò hoang" và "mảnh giấy tàn" đã làm cho nhà thơ cảm giác "thổn thức bên song". Hai câu đầu chỉ là lời giới thiệu thì sang hai cậu thực nhà thơ đã làm sáng tỏ hơn cảm giác buồn thương ngậm ngùi trong hai câu đề

Chi phấn hữu thần liên tử hậuVăn chương vô mệnh lụy phần dư

(Son phấn có thần chôn vẫn hậnVăn chương không mệnh đốt còn vương)

Mượn hình ảnh "son phấn" và " văn chương" ngụ ý nhắc đến nàng Tiểu Thanh. Cả cuộc đời nàng chỉ biết làm bạn với son phấn và văn chương để vơi đi những buồn tủi, bất hạnh. Nhà thơ dùng từ "son phấn" để ẩn dụ khi nói về nhan sắc của nàng Tiểu Thanh nhưng cái đẹp ấy lại bị vùi dập không thương tiếc.

Dù đã chết "chôn" nhưng linh hồn nàng vẫn chưa siêu thoát vẫn ôm một nỗi "hận" trần thế. "Hận" vì sự ghen tuông vô lý của bà vợ cả đã đẩy nàng vào cái chết khi tuổi vừa mới 18 đôi mươi, hận vì những trang văn vốn chẳng có tội tình gì cũng bị đốt cháy nhưng như còn chút nuối tiếc " còn vương" nên vẫn còn lại một số bài. Từ số phận của nàng Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã khái quát thành cái nhìn về con người trong xã hội phong kiến trong hai câu luận tiếp theo:

Cổ kim hận sự thiên nan vấnPhong vận kỳ oan ngã tự cư

(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏiCái án phong lưu khách tự mang)

Dường như nỗi oan ức của Tiểu Thanh không phải chỉ của riêng mỗi nàng mà là cái án, cái kết thúc chung của những con người "tài hoa bạc mệnh" có từ thời "cổ" chí "kim". Nhà thơ dùng từ "hận sự" như muốn nhắc đến một mối hận suốt đời nhắm mắt cũng không thể quên. Có tài, có sắc nhưng lại không thể an yên, vui vẻ với kiếp người. Khi đọc những vần thơ trên người đọc còn sẽ liên tưởng đến hình ảnh nàng Kiều của Nguyễn Du. Đó cũng là một số phận sinh ra trong xã hội phong kiến tài sắc chẳng kém ai vậy mà cuộc đời nàng lênh đênh, bạc mệnh quá. Nhà thơ Nguyễn Du đã từng viết 2 câu thơ ngậm ngùi, xót xa:

Trăm năm trong cõi người taChữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau

Những oan khuất của nghìn đời ấy chỉ có trời mới hiểu "trời khôn hỏi" nhưng dẫu có biết thì cũng không thể làm gì được. Đó như một cái án của nhiều nạn nhân, nhiều con người trong cái xã hội lúc bấy giờ phải "tự mang". Hai câu thơ khóc thương người nhưng dường như cũng để thương mình của Nguyễn Du đã thể hiện được tầm vóc lớn lao của chủ nghĩa nhân đạo và cách nhìn sâu sắc của ông. Khép lại bài thơ với hai câu kết là những dòng suy tư, cảm nghĩ của chính nhà thơ về thời thế, thời cuộc:

Bất tri tam bách dư niên hậuThiên hạ hà nhân khấp Tố Như

(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữaNgười đời ai khóc Tố Như chăng)

Khóc cho Tiểu Thanh của ba trăm năm trước bằng sự đồng điệu về suy nghĩ, thấu hiểu về cảm xúc nhưng nhà thơ đã tự vấn, hoài nghi và đặt câu hỏi cho chính mình. Một câu hỏi chứa đựng nhiều xót xa, nếu như ba trăm năm sau những vần thơ của Tiểu Thanh vẫn còn có Nguyễn Du thương cảm nhưng liệu ba trăm năm sau có còn "ai khóc Tố Như chăng".

Người đời khi ấy liệu có nhớ hay đã quên đến ông, câu hỏi như xoáy sâu vào suy nghĩ của người đọc. Câu thơ như bộc lộ nỗi bi phẫn của nhà thơ trước thời cuộc để rồi khóc thương người, nhà thơ tự khóc thương chính mình.

Nhưng đến ngày hôm nay, ai trong chúng ta đều biết đến, đều ghi nhớ đến Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc, một tượng đài bất từ của nền văn học Việt Nam bởi những tác phẩm đồ sộ mang giá trị cao đã và đang được lưu truyền cho các thế hệ sau.

“Độc tiểu thanh ký” là một bài thơ để lại những thương cảm trong lòng người đọc về số phận bất hạnh của những con người tài hoa nhưng bạc mệnh. Đồng thời qua đây, tác giả cũng đã phản ánh thực trạng xã hội phong kiến tàn ác đã đẩy con người vào những bước đường cùng, chà đạp lên nhân phẩm và lãng quên những giá trị mà họ đã để lại cho đời.

Bình luận (0)
Nguyễn Văn Hữu Linh
Xem chi tiết
Hằng Thanh
Xem chi tiết
khánh
2 tháng 12 2021 lúc 23:15

tham khảo nhé

Trong rừng có bóng trúc râm

Trong màu xanh mát, ta ngâm thơ nhàn.

Cây trúc là loài cây đặc trưng của nhiều vùng quê Việt Nam. Có lẽ ở Côn Sơn thì trúc mọc thành rừng, nên nhà thơ dùng những cụm từ gợi tả như: "trúc râm", "màu xanh mát" để vẽ lên cảnh đẹp. Trúc tượng trưng cho người quân tử trong thơ ca cổ, và cũng gợi lên những ý nghĩa tốt lành nhất. Nhà thơ Nguyễn Khuyến khi viết về quê ông, vùng đồng bằng Bắc Bộ cũng điểm xuyết và hình bóng tương đẹp của trúc: "Ngõ trúc quanh co khách vắng teo". Trở về với Nguyễn Trãi, dưới bóng trúc, nhà thơ "ngâm thơ nhàn" thì thật là thú vui thanh cao, nguồn tưới tươi mát cho tâm hồn con người. Giọng ngâm thơ sang sảng khiến cho rừng trúc càng xanh, càng đẹp!

Chúc bạn học tốt!

Bình luận (0)
Huỳnh Việc Thư
Xem chi tiết
22.10A1.5. Trần Thị Kim...
Xem chi tiết
minh nguyet
2 tháng 1 2022 lúc 22:47

Em tham khảo:

Nguyễn Trãi là một nhà quân sự, nhà chính trị, anh hùng dân tộc, nhà văn, nhà thơ lỗi lạc của dân tộc. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Nguyễn Trãi cũng hướng về lợi ích của nhân dân, của đất nước. Ông cũng là một người có lòng yêu thiên nhiên tha thiết. Trong khoảng thời gian bị nghi kị phải lui về ở ẩn ở Côn Sơn, ông dường như đắm chìm, vui vầy với thiên nhiên cây cỏ. Phân tích vẻ đẹp tâm hồn của nguyễn trãi qua bài thơ “Cảnh ngày hè” ta sẽ thấy rõ điều đó.

Trong sự nghiệp văn chương, Nguyễn Trãi để lại cho nền văn học Việt Nam di sản vô giá. Nếu với “Bình Ngô đại cáo”, ông thể hiện sự đanh thép trong bản tuyên ngôn độc lập thứ hai (sau Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt) hướng đến nhân dân, dân tộc; thì ở “Cảnh ngày hè” Nguyễn Trãi lại hiện lên với vẻ đẹp tâm hồn qua tình yêu dành cho cảnh sắc thiên nhiên.

Bài thơ “Cảnh ngày hè” như một bức tranh thiên nhiên sống động được Nguyễn Trãi khắc họa bằng ngôn từ, với đầy đủ hương thơm, sắc màu, âm thanh. Nhưng ẩn sâu cái bức tranh ấy là tâm hồn đẹp đẽ của người thi nhân giữa cuộc sống thôn quê bình dị.

Tình yêu thiên nhiên của Nguyễn Trãi thể hiện ở ngay đầu bài thơ với tư thế của nhân vật trữ tình trong câu thơ:

“Rồi hóng mát thuở ngày trường”

Câu thơ có một nhịp thơ thật lạ lùng: 1/5. Nhưng chính nhịp thơ này lại mang đến cảm giác một ngày thư thái, rỗi rãi. Người thi nhân lúc này dù ngồi trước hiên nhà hóng mát, dù chìm đắm vào thiên nhiên cũng không thể quên hết việc đời. Nên cảm xúc của nhà thơ thực sự không phải thanh thản, nhẹ nhõm gì. Điều này thể hiện ở từ “ngày trường”, nghĩa là một ngày rất dài, gợi cho thấy sự buồn chán, vô vị.

Hầu hết các nhà thơ thường được trao nhiều cảm hứng bởi mùa thu xao xuyến hay mùa xuân tươi mới, nhưng với Nguyễn Trãi thì lại là mùa hè. Vốn là một người yêu thiên nhiên tha thiết, hồn thơ lại khoáng đạt và cảm xúc tinh tế, Nguyễn Trãi đã vẽ nên trước mắt người đọc một bức tranh mùa hạ tuyệt đẹp với đủ sắc hương:

“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

Nhắc đến mùa hè, thì cây hòe là một trong những hình ảnh rất đặc trưng. Những tán lá hòe “đùn đùn” trải rộng, che mát một khoảng sân. Từ láy “đùn đùn” mang một sức gợi hình mạnh mẽ, người đọc như thấy nhựa sống của cây đang căng tràn trong từng cành lá. Còn bên hiên nhà, hoa lựu đỏ rực và tỏa hương thơm. Cái màu đỏ của hoa lựu khiến không gian dường như có sự chuyển động, có sự bừng sáng hòa cùng đám lá xanh của cây hòe. Như ta cũng từng bắt gặp hình ảnh hoa lựu rực rỡ trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du: “Dưới trăng quyên đã gọi hè/Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông”.

 

Sắc đỏ của hoa lựu được nhà thơ quan sát và đưa vào không chỉ bởi nó là đặc trưng của mùa hè, mà dường như còn muốn làm nổi bật lên sức sống của mùa hè. Cùng với hoa lựu, sen dưới ao nhà cũng đang tận hưởng mùa hè bằng sắc hồng và hương thơm quyến rũ. Đến đây ta thấy, nếu như câu thơ đầu thể hiện tâm sự nhàn rỗi chán chường của nhà thơ, thì lúc này, trước hương sắc và sức sống của mùa hè, trước thiên nhiên rực rỡ; tâm hồn thi nhân đã trở nên tươi vui và say mê thưởng thức. Bởi thế mà nhà thơ mới gợi ra được sự sinh động của thiên nhiên trong từng màu sắc, đường nét.

Và bức tranh ấy, còn thi vị hơn nữa, đầy say mê hơn nữa khi không chỉ có sắc, có hương mà còn có sự hòa quyện của âm thanh cuộc sống thôn quê bình dị:

“Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.”

“Lao xao” là âm thanh nghe đâu đó xa xa vọng lại, chẳng rõ ràng nhưng vẫn văng vẳng âm vang. Một chữ “lao xao” đã đủ tái hiện âm thanh cuộc sống thường nhật của làng chài. Đọc câu thơ này, người đọc có thể hình dung thấy cảnh chợ cá thân quen, bận rộn với cảnh kẻ bán người mua.

Mùa hè còn có tiếng kêu inh ỏi của đám ve. Tiếng ve là tiếng gọi hè, cũng như thúc giục nhưng hoa những sắc màu của mùa hè bừng nở, tỏa rực. Và tiếng ve cũng làm đầy không gian tĩnh lặng của căn lầu giữa buổi chiều buông.

Như vậy, qua bài thơ “Cảnh ngày hè” có thể thấy, Nguyễn Trãi cảm nhận bức tranh thiên nhiên với vả thị giác, khứu giác và thính giác. Vì vậy, cảnh ngày hè trong thơ hiện lên thật rộn rã và căng tràn sức sống. Có lẽ chính tính yêu thiên nhiên say đắm, sự tinh tế trong cảm nhận đã giúp người thi nhân quan sát, miêu tả và tận hưởng thiên nhiên ngày hè thật tỉ mỉ và đặc sắc như thế.

Nguyễn Trãi là người yêu thiên nhiên, và cũng bởi vậy mà qua thiên nhiên ông muốn nói lên tâm sự, tâm tình ẩn sâu trong lòng. Và mặc dù ông đang vui với thiên nhiên, có vẻ như đang hòa hợp với đời sống thôn quê, nhưng cái tình chủ đạo của bài thơ vẫn là tấm lòng yêu nước thương dân của Nguyễn Trãi, là nỗi niềm trăn trở của ông về đất nước. Chính cái khung cảnh thiên nhiên và cuộc sống bình dị thường nhật những ngày hè ở thôn dã đã mở ra ước vọng tha thiết trong lòng nhà thơ:

“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương.”

Hai câu thơ cuối này, dường như là sự kết đọng bao suy tư, trăn trở của người thi nhân. Người ta vẫn nói, “tức cảnh sinh tình”, quả không sai. Cái tình ở đây của Nguyễn Trãi là ông ước có trong tay cây đàn của vua Thuấn để tấu lên một khúc “Nam phong” – khúc nhạc mang ước vọng cầu cho nhân dân muôn nơi được sống ấm no, hạnh phúc. Câu thơ mang nặng nỗi lo cho dân, cho nước, thể hiện tinh thần trách nhiệm cao cả của một người dành suốt cuộc đời đấu tranh cho lợi ích dân tộc.

Tâm tình này của Nguyễn Trãi không khỏi làm ta liên tưởng tới tấm lòng khao khát vì dân của Đỗ Phủ trong bài thơ “Bài ca nhà tranh bị gió thu phá”:

“Ước được nhà rộng muôn ngàn gian,
Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan,
Gió mưa chẳng núng, vững như thạch bàn!
Than ôi! Bao giờ nhà ấy sừng sững đứng trước mắt,
Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được!”

Qua đó ta thấy, Nguyễn Trãi và Đỗ Phủ có sự tương giao trong tư tưởng, nhận thức của như nỗi niềm thời đại. Ta còn thấy rõ hơn, Nguyễn Trãi bấy lâu dù có lui về ở ẩn, dù có vẻ như vui vầy với gió mây cây cỏ, thì trong tâm vẫn nặng trĩu nỗi lo nước, thương đời. Suốt cuộc đời, mọi việc ông làm đều hướng đến một khát vọng, khi có giặc thì trừ giặc, hết giặc thì lo ấm no, hạnh phúc cho dân. Tình yêu nước, thương dân này của ông đã vang danh bao đời và còn vang danh ngàn đời. Điều này chính là cốt cách, tư tưởng nhân đạo sâu sắc của nhà thơ.

 

Qua phân tích vẻ đẹp tâm hồn của nguyễn trãi, ta có thể cảm nhận được biết cao tình cảm, bao nhiêu suy tư, trăn trở của Nguyễn Trãi. “Cảnh ngày hè” không chỉ vẽ nên trước mắt người đọc một bức tranh thiên nhiên tươi sáng, nhiều sắc màu và tràn đầy sức sống; mà hơn thế còn cho ta thấy vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi, chân dung tinh thần của người anh hùng dân tộc, cũng là người nghệ sĩ hết mực tại hoa.

Bên cạnh nội dung, tình cảm đáng trân trọng, bài thơ “Cảnh ngày hè” còn thể hiện cái tài của Nguyễn Trãi trong nghệ thuật văn chương. Với tác phẩm này, ông dùng thể thơ thất ngôn xen với lục ngôn và dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ nghệ thuật có sức biểu cảm, biểu nghĩa tuyệt vời. Các hình cảnh của thôn dã được ông đưa vào thơ gợi sự gần gũi, bình dị và mang đậm “chất” Việt Nam. Nếu văn chương cổ bài xích hình ảnh dân dã như “chợ cá” hay âm thanh của đời thường, thì Nguyễn Trãi lại yêu thích và đưa vào thơ, tạo sự gần gũi, bình dị và mang đậm “chất” Việt Nam”.

Bình luận (0)